Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

Mời ông EVN xem tố cáo của Nhân dân.


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
--------
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 06 năm 2012
ĐƠN TỐ CÁO
Kính gửi: CỤ LÊ HIỀN ĐỨC
Kính thưa Cụ.
Trước tiên, chúng tôi xin tự giới thiệu với Cụ về chúng tôi: Chúng tôi là cổ đông của Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Dịch vụ Điện lực, trụ sở đặt tại số 04 Nguyễn Siêu, phường Bến Nghé, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Công ty PIST, theo tên giao dịch viết tắt), cũng đồng thời là tập thể người lao động tại Công ty PIST và các đơn vị trong Tổng Công ty Điện lực Miền Nam (EVNSPC).
Tại thời điểm năm 2007 – 2008, theo sự vận động của lãnh đạo EVN, tập thể người lao động chúng tôi đã tham gia mua cổ phần tại hầu hết các công ty cổ phần do EVN sáng lập, trong đó có Công ty PIST.
Trong thời gian vừa qua, bằng việc tiếp nhận và so sánh thông tin từ các công ty cổ phần có vốn góp của EVN, trong đó có Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Dịch vụ Điện lực, chúng tôi xin khẳng định với Cụ về những sai phạm của Ban lãnh đạo Công ty PIST, với những nội dung sau:
1. Từ ngày thành lập từ năm 2007 đến nay, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện hàng loạt các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng, liên tục và có hệ thống.
2. Hậu quả từ những hàng loạt các hành vi sai phạm có hệ thống của Ban lãnh đạo Công ty PIST là sự thất thoát lên đến hàng chục tỷ đồng tài sản của Nhà nước và của tập thể cổ đông chúng tôi; Hơn thế, trong hàng loạt các sai phạm do Ban lãnh đạo Công ty PIST đã và đang gây ra, còn ẩn chứa nhiều dấu hiệu của việc tham nhũng, tham ô tài sản của Nhà nước cũng như của cổ đông.
3. Tại thời điểm hiện nay, Ban lãnh đạo Công ty PIST vẫn đang liên tục thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật với mức độ ngày càng nguy hiểm hơn và chắc chắn các hành vi này sẽ còn đem lại nhiều thiệt hại lớn hơn nữa đến tài sản của Nhà nước, cũng như của cổ đông chúng tôi.
4. Trong thời gian qua cũng như tại thời điểm hiện nay Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Dịch vụ Điện lực (PIST) là một đơn vị hoạt động yếu kém và gây thất thoát nhiều tài sản của Nhà nước lớn nhất trong các doanh nhiệp cổ phần có vốn góp của EVN.
Kính thưa Cụ.
Tập thể cổ đông của Công ty PIST chúng tôi, cũng như tập thể người lao động tại Tổng Công ty Điện lực Miền Nam (EVNSPC), do rất bức xúc trước những hoạt động vi phạm pháp luật của Ban lãnh đạo Công ty PIST, đã rất vui mừng khi nhận được thông tin qua báo chí về việc các đồng chí Thanh tra Chính Phủ tiến hành thanh tra Tập đoàn Điện lực Việt Nam theo quyết định số 396/QĐ-TTCP ngày 29/02/2012 với nội dung: thanh tra về việc chấp hành quy định pháp luật trong quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại EVN và các đơn vị thành viên gồm: Công ty mẹ, Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, Công ty cổ phần có vốn góp của Tập đoàn Điện lực Việt Nam.
Khi nhận được thông tin trên, tập thể cổ đông, người lao động chúng tôi đã rất hy vọng là thông qua đợt thanh tra này, các đồng chí Thanh tra Chính phủ sẽ làm rõ những sai phạm tại Công ty PIST, để ngăn chặn ngay những hành vi sai trái do Ban lãnh đạo công ty này đã và đang thực hiện, nhằm bảo vệ tài sản của Nhà nước cũng như của cổ đông chúng tôi, mà hầu hết đều là cán bộ, công nhân viên đang công tác trong ngành Điện.
Tuy nhiên, từ ngày 06/03/2012, thời điểm công bố quyết định thanh tra đến nay, đã gần hết thời hạn thanh tra 90 ngày như thông báo, dù rất mong mỏi chờ đợi, nhưng trong nội dung thanh tra của các đồng chí Thanh tra Chính phủ, vụ việc sai phạm tại Công ty PIST đã bị ém nhẹm.
Chính vì vậy, bằng đơn tố cáo này, chúng tôi xin trình bày và cung cấp các chứng cứ xác thực đến với Cụ về nội dung các sai phạm của Ban lãnh đạo Công ty PIST, đồng thời chúng tôi kính nhờ cụ xem, chuyển tải giúp chúng tôi đến các cơ quan chức năng, nhằm mục đích giúp cơ quan chức năng kịp thời xử lý các hành vi vi phạm pháp luật đã xảy ra, hạn chế các thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cũng như của tập thể cổ đông, do các hành vi vi phạm vẫn đang tiếp diễn của Ban lãnh đạo Công ty PIST, cụ thể như sau:

NỘI DUNG TỐ CÁO
I. PHẦN I: VỀ CÔNG TY CP ĐẦU TƯ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ ĐIỆN LỰC (PIST):
1. Cổ đông sáng lập:
Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và Điều lệ, Công ty PIST có các cổ đông sáng lập bao gồm (tham khảo Phụ lục 1: trang 1 Điều lệ PIST):
1. Tổ chức: Công ty Điện lực 2 (nay là Tổng Công ty Điện lực Miền Nam EVNSPC), do ông Nguyễn Văn Hợp – Phó tổng giám đốc EVNSPC, làm đại diện;
2. Cá nhân: Tập thể cán bộ công nhân viên chức Công ty Điện lực 2 (nay là Tổng Công ty Điện lực Miền Nam EVNSPC), do ông Lê Minh Ba – Chủ tịch công đoàn EVNSPC, làm đại diện.
3. Cá nhân: Bà Đinh Ngọc Hà, nguyên Trưởng phòng Kế hoạch – Công ty Điện lực 2.
2. Cổ phần đăng ký mua (tham khảo Phụ lục 1: trang 4 Điều lệ PIST):

STT
Tên cổ đông góp vốn
Số lượng cổ phần
Giá trị
(tỷ đồng)
Tỷ lệ
(%)
1
Công ty Điện lực 2 (ông Nguyễn Văn Hợp)
24.215.000
242,150
29
2
Cán bộ công nhân viên chức Công ty Điện lực 2 (ông Lê Minh Ba)
521.600
5,216
0,62
3
Bà Đinh Ngọc Hà
21.600
0,216
0,02

3. Thực tế góp vốn:
3/1. Tổng vốn thực góp:
Tổng vốn thực góp đến thời điểm ngày 01/12/2010 tại Công ty cổ phần Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực là: 278.930.761.785 đồng (Bằng chữ: Hai trăm bảy mươi tám tỷ, chín trăm ba mươi triệu, bảy trăm sáu mốt ngàn, bảy trăm tám lăm đồng) (tham khảo phụ lục 2: Tờ trình 27/TTr-PIST-TC ngày 24/04/2012 và phụ lục 3: trang 1, trang 2, Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2008 của PIST).
3/2. Phần vốn Nhà nước do EVNSPC thực góp:
Phần vốn Nhà nước do Công ty Điện lực 2 (nay là Tổng công ty Điện lực Miền Nam) thực góp tính đến thời điểm 31/12/2011: 76.000.000.000 đồng (Bằng chữ: Bảy mươi sáu tỷ đồng chẵn) (tham khảo phụ lục 2: Tờ trình 27/TTr-PIST-TC ngày 24/04/2012).
Trong đó góp vốn bằng tài sản:
Tổng giá trị góp vốn bằng tài sản của EVNSPC đến thời điểm 31/12/2011 là: 39.236.475.973 đồng (Bằng chữ: Ba mươi chin tỷ, hai trăm ba sáu triệu, bốn trăm bảy lăm ngàn, chin trăm bảy ba đồng) (tham khảo phụ lục 1: trang 3, Điều lệ PIST và phụ lục 2: Tờ trình 27/TTr-PIST-TC ngày 24/04/2012).
1. Ghi nhận tại Phụ lục 1: trang 3, Điều lệ PIST:
1/1. Khách sạn Du lịch Điện lực 2 và các tài sản cố định khác do khách sạn quản lý, trị giá: 5.904.725.036 đồng.
1/2. Khách sạn Du lịch Điện lực Vũng Tàu và các tài sản khác do khách sạn quản lý, trị giá: 14.319.114.493 đồng.
1/3. Nhà làm việc số 4 Nguyễn Siêu, phường Bến Nghé, Quận 1, Tp. Hồ Chí Minh, trị giá: 9.007.738.844 đồng.
1/4. Nhà làm việc 16 Âu Cơ, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh - Công ty cổ phần Xây lắp điện và các tài sản cố định khác do công ty quản lý, trị giá: 6.000.000.000 đồng (đây là phần vốn góp không có thực, cũng là một sai phạm nghiêm trọng, được nêu ở phần II: Sai phạm có hệ thống).
2. Ghi nhận tại Phụ lục 2: Tờ trình 27/TTr-PIST-TC ngày 24/04/2012:
Phần vốn góp bổ sung ngày 01/02/2010 (phần vốn góp tăng do lợi thế thương mại), trị giá: 4.004.897.600 đồng.
3/3. Phần vốn Nhà nước do Tổng Công ty Điện lực Tp. Hồ Chí Minh (EVNHCMC) và các đơn vị trực thuộc EVN thực góp:
3.3.1. Phần vốn Nhà nước do EVNHCMC thực góp cho đến thời điểm 31/12/2011 tại Công ty cổ phần Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực:
Phần vốn góp này được ẩn trong số cổ phần phổ thông và luôn là một bí mật được Ban lãnh đạo Công ty PIST giữ kín; Tuy nhiên, căn cứ vào quy định của Luật Doanh nghiệp, có thể ước số vốn thực góp của EVNHCMC không thấp hơn 5% tổng vốn thực góp, do EVNHCMC luôn có vị trí trong Hội đồng quản trị PIST (tham khảo phụ lục 14: công văn thay đổi thành viên HĐQT)
3.3.2. Phần vốn góp do các đơn vị trực thuộc EVN và EVNSPC thực góp:
Phần vốn góp này được ẩn trong số cổ phần phổ thông, luôn được ban lãnh đạo Công ty PIST giữ bí mật, nên không có điều kiện để xác định. Tuy nhiên, phần vốn này chắc chắn sẽ hiện hữu trong thực tế bởi lý do: theo chủ trương của EVN, các đơn vị đều trực thuộc EVN đều góp vốn chéo trong hệ thống các công ty cổ phần được thành lập trong giai đoạn này.
KẾT LUẬN:
Căn cứ vào Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, Điều lệ, cũng như các tài liệu ghi nhận về vốn thực góp tại PIST, có thể khẳng định chắc chắn rằng: nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước do EVN quản lý tại PIST là trên 30% tổng số vốn điều lệ và vốn thực góp tại Công ty PIST.
Việc ban lãnh đạo PIST hiện nay cố ý không công khai nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước tại PIST là với ý đồ che dấu hàng loạt các sai phạm trong sử dụng vốn, trong đó có phần lớn là nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước, được trình bày chi tiết tại: “Phần II: Vi phạm pháp luật có hệ thống” sau đây.
II. PHẦN II: VI PHẠM PHÁP LUẬT CÓ HỆ THỐNG:
1. Sai phạm trong việc cố ý thực hiện việc nhận góp vốn khống, che dấu sai phạm trước đó của Công ty cổ phần Xây lắp Điện:
Ngay từ đầu thành lập, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật là: góp vốn khống 6.000.000.000 đồng, thông qua việc sáp nhập Công ty cổ phần Xây lắp Điện vào Công ty PIST.
Việc nhận vốn góp khống từ Công ty cổ phần Xây lắp Điện của Ban lãnh đạo Công ty PIST, đã thể hiện việc cố ý thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật sau:
1. Che dấu việc đã làm thất thoát hoàn toàn nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước tại Công ty cổ phần Xây lắp Điện.
2. Hành vi cố ý làm trái các quy định quản lý kinh tế của Nhà nước bằng việc: dùng nguồn vốn của PIST để thanh toán các khoản lỗ, khoản phạt còn tồn đọng của Công ty cổ phần Xây lắp Điện.
3. Sử dụng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh của PIST để duy trì vốn và trả cổ tức cho các cổ đông không phải là Nhà nước trong Công ty cổ phần Xây lắp Điện trước đó, nhằm tránh sự phản ứng của nhóm cổ đông này, đồng thời, trốn tránh dư luận xã hội, cũng như trốn tránh sự chú ý của các cơ quan quản lý Nhà nước và các cơ quan bảo vệ pháp luật về những sai phạm và và việc thất thoát tài sản của Nhà nước tại Công ty cổ phần Xây lắp Điện.
Nội dung của vụ việc được nêu cụ thể như sau:
1/1. Về công ty cổ phần Xây lắp Điện:
Công ty cổ phần Xây lắp Điện tiền thân là Xí nghiệp Xây lắp Điện trực thuộc Công ty Điện lực 2 (nay là Tổng công ty Điện lực Miền Nam - EVNSPC), được cổ phần hóa, với tổng vốn góp theo thời giá tại thời điểm năm 1998 là: 6.000.000.000 đồng (Bằng chữ: sáu tỷ đồng), trong đó, chiếm tỷ trọng đa số tổng vốn góp là phần vốn thuộc sở hữu Nhà nước, do Công ty Điện lực 2 làm đại diện.
Qua thời gian hoạt động từ năm 1998 đến 2008, Công ty cổ phần Xây lắp điện có số lỗ lũy kế lên đến 9.225.638.000 đồng (Bằng chữ: chín tỷ, hai trăm hai lăm triệu, sáu trăm ba tám ngàn đồng) (tham khảo tại phụ lục 3: trang 2, Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh năm 2008 của PIST).
Như vậy, có thể kết luận tại thời điểm sáp nhập Công ty cổ phần Xây lắp điện vào PIST, công ty này hoàn toàn không còn tài sản, không những thế, tài sản của đơn vị này còn âm hơn 3 tỷ đồng.
1/2. Những sai phạm trong quá trình sáp nhập Công ty cổ phần Xây lắp Điện vào PIST:
Trong năm 2008, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã thực hiện việc sáp nhập Công ty cổ phần Xây lắp Điện, bản chất của việc sáp nhập này là xóa hoàn toàn sự tồn tại của đơn vị này; Trong thực tế sau khi sáp nhập, Công ty cổ phần Xây lắp Điện hoàn toàn không còn hiện hữu.
Với việc sáp nhập này đã phát sinh 02 sai phạm nghiêm trọng:
1. Tăng vốn khống trong tổng vốn góp của Công ty PIST thêm 6.000.000.000 đồng (Bằng chữ: sáu tỷ đồng) (tham khảo tại Phụ lục 3: trang 1, Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh năm 2008 của PIST).
2. Hạch toán lỗ trong báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2008 của PIST với giá trị: 9.225.638.000 đồng (Bằng chữ: chín tỷ, hai trăm hai lăm triệu, sáu trăm ba tám ngàn đồng) và khoản phạt 10.418.000 đồng (Bằng chữ: mười triệu, bốn trăm mười tám ngàn đồng (tham khảo tại Phụ lục 3: trang 2, Báo cáo tình hình hoạt động kinh doanh năm 2008 của PIST).
2. Sai phạm trong việc phát hành chứng khoán ra công chúng:
Trong việc chào bán và phát hành chứng khoán ra công chúng đợt 3 và đợt 4 trong năm 2009, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật như sau:
1. Chào bán và phát hành chứng khoán trái với Luật Chứng khoán.
2. Sử dụng tiền mua chứng khoán của nhà đầu tư trái pháp luật.
3. Có hành vi chiếm giữ tài sản của nhà đầu tư trái pháp luật.
Nội dung của vụ việc được nêu cụ thể như sau:
2/1. Chào bán và phát hành chứng khoán trái pháp luật:
Mặc dù đã tự nhận thức được các nghĩa vụ của công ty đại chúng nhưng Công ty PIST vẫn cố ý tổ chức chào bán và phát hành cổ phần ra công chúng trái pháp luật khi chưa được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng.
Ngày 28/09/2009, Công ty PIST đã nộp hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng cho UBCKNN, nhưng trong thời gian UBCKNN hướng dẫn Công ty PIST hoàn chỉnh hồ sơ để cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán theo quy định, thì từ tháng 10/2009 đến 31/12/2009, mặc dù chưa được UBCKNN cho phép, Công ty PIST vẫn cố ý tiến hành việc chào bán và phát hành trái pháp luật cổ phần ra công chúng, thu về số tiền 29.240.273.500 đồng (phát hành cho 6.006 cổ đông hiện hữu của công ty), chi tiết cụ thể như sau:
(tham khảo phụ lục 4: trang 3, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2009 – Kế hoạch kinh doanh năm 2010 ngày 01/04/2010 )
Chỉ tiêu
Cổ đông
sáng lập
Cổ đông phổ thông
Tổng thu
(VNĐ)
Vốn góp đợt 3 năm 2009
50.000.000
12.624.711.500
12.674.711.500
Vốn góp đợt 4 năm 2009

16.565.562.000
16.565.562.000
Tổng
50.000.000
29.190.273.500
29.240.273.500

2/2. Sai phạm của việc không mở tài khoản phong tỏa tại Ngân hàng để thu tiền mua chứng khoán theo quy định của pháp luật:
Theo quy định của pháp luật chứng khoán số tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán được giải tỏa tài khoản phong tỏa.
Trong thực tế, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý không mở tài khoản phong tỏa riêng biệt tại Ngân hàng để thu và bảo quản tiền góp vốn của các cổ đông theo quy định của pháp luật.
Trong thời gian thực hiện việc chào bán và phát hành chứng khoán ra công chúng trái pháp luật nói trên, toàn bộ việc thu tiền mua chứng khoán của các đợt này được thu vào tài khoản kinh doanh và thu tiền mặt tại phòng Kế toán PIST.
2/3. Sai phạm của việc sử dụng trái pháp luật tài sản của nhà đầu tư:
Theo quy định của pháp luật Nhà nước về kinh doanh chứng khoán, toàn bộ số tiền thu được trong đợt chào bán và phát hành chứng khoán ra công chúng, tổ chức phát hành chỉ được phép đưa vào sử dụng sau khi báo cáo cho UBCKNN và được UBCKNN công nhận đợt phát hành.
Trong thực tế, số tiền thu được từ vốn góp của các cổ đông tại đợt phát hành trái pháp luật này đã bị Ban lãnh đạo Công ty PIST sử dụng trái pháp luật và hoàn toàn không được sự đồng ý của cổ đông.
Việc này thể hiện rõ khi xem xét về sự biến thiên của chỉ số: Tiền và các khoản tương đương tiền tại thời điểm 31/12/2010 (thời điểm kết thúc thu tiền mua chứng khoán đợt 4) của PIST như sau:
STT
Chỉ tiêu
Mã số
Thuyết minh
31/12/2010
(VNĐ)
31/12/2009
(VNĐ)
1
Tiền và các khoản tương đương tiền
110
3
7.537.514.586
22.822.595.851
(tham khảo phụ lục 7: Báo cáo tài chính năm 2010 tại thời điểm 31/12/2010 của PIST)
Thông qua nhiều thông tin chưa có điều kiện kiểm chứng, phần lớn số tiền thu được từ các đợt chào bán và phát hành chứng khoán trái pháp luật này đã được Ban lãnh đạo Công ty PIST sử dụng để trả cổ tức cho cổ đông năm 2009, nhằm mục đích xoa dịu dư luận đang hết sức bức xúc từ công ty này.
2/4. Hành vi không chấp hành quyết định xử lý vi phạm hành chính của UBCKN và chiếm giữ trái pháp luật tài sản của nhà đầu tư:
2/4/1. Nội dung xử phạt hành chính của Ủy ban chứng khoán Nhà nước:
Vụ việc Công ty CP Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực phát hành trái pháp luật chứng khoán ra công chúng đã bị UBCKNN xử lý như sau:
2/4/1/1. Xử lý lần 1:
Đình chỉ đợt phát hành cổ phần ra công chúng (trong năm 2010).
2/4/1/2. Xử lý lần 2:
Hủy bỏ đợt phát hành cổ phần ra công chúng, và xử phạt vi phạm hành chính với Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 553/QĐ-UBCK ngày 28/07/2011.
Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 553/QĐ-UBCK ngày 28/07/201, có nội dung như sau:
1. Ngày 28/09/2009 Công ty cổ phần Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực đã nộp hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng cho UBCKNN nhưng trong thời gian UBCKNN hướng dẫn Công ty cổ phần Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực hoàn chỉnh hồ sơ để cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán theo quy định thì từ tháng 10/2009 đến tháng 1/2010, Công ty cổ phần Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực đã thực hiện chào bán và phát hành 2.924.027 cổ phần ra công chúng (cho 6.006 cổ đông hiện hữu), tăng vốn điều lệ thực góp từ 275,132 tỷ đồng lên 304,373 tỷ đồng, vi phạm Khoản 1 Điều 13 Luật Chứng khoán.
2. Xét tính chất và mức độ vi phạm, UBCKNN xử phạt Công ty cổ phần Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực với các hình thức sau:
2/1. Hình thức xử phạt hành chính:
Phạt tiền 250 triệu đồng theo quy định tại Điểm c Khoản 4 Điều 8 Nghị định 85/2010/NĐ-CP.
2/2. Biện pháp khắc phục hậu quả:
Công ty cổ phần Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực phải thu hồi chứng khoán đã chào bán, hoàn trả cho nhà đầu tư tiền mua chứng khoán hoặc tiền đặt cọc (nếu có) cộng thêm tiền lãi tính theo lãi suất tiền gủi không kỳ hạn của ngân hàng mà tổ chức chào bán chứng khoán mở tài khoản thu tiền mua chứng khoán hoặc tiền cọc tại thời điểm bị xử phạt vi phạm hành chính, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu của nhà đầu tư, theo quy định tại Khoản 7 Điều 8 Nghị định 85/2010/NĐ-CP.
3. Quyết định có hiệu lực kể từ ngày ký.
2/4/2. Những hành vi vi phạm pháp luật của Ban lãnh đạo Công ty PIST:
2/4/2/1. Đối với lần xử lý hành chính thứ nhất của UBCKNN:
Sau khi nhận được quyết định đình chỉ đợt phát hành cổ phần ra công chúng của UBCKNN, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã có hành vi cố ý không chấp hành, cụ thể như sau:
Tại thời điểm ngày 04/10/2010, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã phát hành thông báo số 57/CV/PIST-TC để lấy ý kiến cổ đông với nội dung sau: “Bằng thư này, HĐQT xin ý kiến Quý Cổ đông để thông qua chủ trương giữ lại số vốn mà các cổ đông đã góp ở hai đợt trên với tổng số tiền là 29.240.273.500 đồng trong khi chờ đợi hướng dẫn của UBCKNN để xử lý đợt tăng vốn đề cập trên. Ngay khi có các hướng dẫn cụ thể, HĐQT sẽ nhanh chóng đưa ra giải pháp hợp lý nhằm đảm bảo quyền sở hữu số vốn góp nêu trên của Quý Cổ đông theo luật định” (tham khảo phụ lục 10: Thông báo số 57/CV/PIST-TC ngày 04/10/2010).
2/3/2. Đối với lần xử lý hành chính thứ hai của UBCKNN:
Sau khi nhận quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 553/QĐ-UBCK ngày 28/07/2011, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã có hành vi cố ý không chấp hành, cụ thể như sau:
Tại thời điểm ngày 18/08/2011, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã phát hành thông báo số 57/TB- PIST-TC với nội dung: “Phương án xử lý: 2.1. Toàn bộ số tiền nhà đầu tư đã nộp sẽ được chuyển thành vốn cổ phần; Công ty sẽ phát hành cổ phiếu cho nhà đầu tư sau khi nhận được Giấy phép phát hành từ UBCKNN; 2.2. Trường hợp nhà đầu tư không muốn xử lý theo phương án nêu tại khoản 2.1, Công ty sẽ hoàn trả lại toàn bộ số tiền đã nộp cộng thêm tiền lãi tính bằng lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của Ngân hàng mà công ty mở tài khoản thu tiền mua cổ phần” (tham khảo phụ lục 11: Thông báo số 57/CV/PIST-TC ngày 18/08/2011).
Tuy nhiên, do bị phản ứng dữ dội từ nhiều nhà đầu tư không phải là cán bộ công nhân viên đang công tác trong ngành Điện như chúng tôi; Tại thời điểm ngày 26/09/2011, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã tiếp tục phát hành thông báo số 64/TB-PIST-TC với nội dung: “Công ty sẽ hoàn trả toàn bộ số tiền mua chứng khoán đợt 3&4 cộng thêm tiền lãi tính bằng lãi suất không kỳ hạn 3%/năm kể từ ngày góp vốn (sau khi đã trừ cổ tức đã nhận) của các nhà đầu tư thuộc đối tượng trên” (tham khảo phụ lục 12: Thông báo số 64/CV/PIST-TC ngày 26/09/2011).
Trong thực tế, số tiền mua chứng khoán của nhà đầu tư tính đến thời điểm hiện nay, chỉ được Ban lãnh đạo Công ty PIST hoàn trả khoảng 8 tỷ đồng, chủ yếu thanh toán cho những nhà đầu tư không là cán bộ công nhân viên ngành Điện;
Đối với nhà đầu tư là cán bộ công nhân viên đang công tác trong ngành Điện, đặc biệt là tại EVNSPC, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã dùng thủ đoạn thông qua áp lực của các lãnh đạo đơn vị, để o ép không cho các nhà đầu tư là cán bộ công nhân viên nêu ý kiến về việc hoàn trả tiền mua chứng khoán.
Hơn thế, tại cuộc họp Đại hội đồng cổ đông ngày 27/04/2012, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã gây áp lực đối với các lãnh đạo đơn vị trực thuộc EVNSPC, để thông qua Nghị quyết có nội dung: “Thông qua việc phát hành 200.000 cổ phần (mệnh giá 10.000 đồng/CP) (tham khảo Phụ lục 13: Nghị quyết số 32/NQ-ĐHĐCĐ ngày 27/04/2012).
Việc thông qua Nghị quyết này về mặt bản chất là để hợp thức hóa số tiền mua chứng khoán mà Công ty PIST đang chiếm giữ trái pháp luật của nhà đầu tư là cán bộ công nhân viên đang công tác tại ngành Điện và EVNSPC như chúng tôi; Đồng thời, việc này còn nhằm che dấu một phần khoản lỗ do phải trả lãi cho Công ty cổ phần Tài chính Điện lực (sai phạm về việc này xin nêu ở các mục sau đây: Mục 5: Sai phạm tại dự án Khu cao ốc Văn phòng – Trung tâm thương mại – Chung cư 16 Âu Cơ và Mục 8: Sai phạm trong hạch toán kế toán).
3. Sai phạm trong Dự án mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ:
Trong việc mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật như sau:
1. Thông đồng, móc ngoặc với tư nhân (Công ty TNHH Nam Long – Cần Thơ) trong việc mua tài sản Công viên nước Cần Thơ.
2. Mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ cao hơn nhiều với giá trị thực tế và giá chào bán, có dấu hiệu của việc tham ô tài sản Nhà nước.
3. Thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong việc cho Công ty TNHH Nam Long vay tiền và cho Công ty TNHH Nam Long góp vốn khống trong Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ PTN (Công ty con của PIST quản lý, kinh doanh Công viên nước Cần Thơ).
4. Gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước.
Nội dung của vụ việc được nêu cụ thể như sau:
3/1. Thông tin về Công viên nước Cần Thơ:
Công viên nước Cần Thơ được Tổng Công ty xây dựng số 1 đầu tư tại khu vực Cồn Cái Khế - Tp. Cần Thơ với tổng mức đầu tư là: 54,3 tỷ đồng, công trình được đầu tư hoàn tất giai đoạn 1 và đưa vào thời điểm tháng 8/2003.
Dự án Công viên nước Cần Thơ đã được Thanh tra Chính phủ tổ chức thanh tra vào cuối năm 2005 và đi đến một số kết luận như sau:
“Kết luận của Thanh tra Chính phủ cho thấy, đã có nhiều sai phạm tại dự án xây dựng Công viên nước Cần Thơ, ở nhiều khâu như chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, đấu thầu, đến nghiệm thu, thanh quyết toán, dẫn đến thua lỗ hàng chục tỷ đồng.
Dự án đầu tư xây dựng công viên nước Cần Thơ, thực hiện tại phường Cái Khế (TP Cần Thơ), với diện tích đất 46.790,3 m2, tổng mức đầu tư là 54,3 tỷ đồng, do Tổng công ty xây dựng số I (Bộ Xây dựng) làm chủ đầu tư. Kết luận của Thanh tra Chính phủ mới đây cho thấy, sau ba năm triển khai hoạt động, dự án lỗ hơn 14 tỷ đồng.
Kết luận của Thanh tra Chính phủ chỉ rõ, nguyên nhân chủ yếu là do chủ trương đầu tư không đúng, quá trình đầu tư có nhiều sai phạm, từ khâu chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư, đấu thầu, đến nghiệm thu, thanh quyết toán.
Những yếu kém, thiếu trách nhiệm trong khâu lập, thẩm định báo cáo nghiên cứu khả thi, dẫn đến quyết định đầu tư của tổng công ty là không phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực vốn đã có nhiều sông nước; tại thời điểm lập, thẩm định và phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư một công viên nước với các thiết bị nhập khẩu hiện đại, có giá trị lớn là chưa phù hợp điều kiện và tốc độ phát triển kinh tế, cũng như đời sống kinh tế, thu nhập của nhân dân trong khu vực. Vì vậy, đến nay số lượt người đến công viên nước vui chơi vẫn ở mức quá thấp so với dự tính trong báo cáo nghiên cứu khả thi. Ðây chính là nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến dự án bị thua lỗ hàng chục tỷ đồng.
Việc lập, thẩm định thiết kế, dự toán có nhiều sai sót. Nhiều hạng mục khởi công trước khi thiết kế kỹ thuật và tổng dự toán được phê duyệt, thậm chí đã xảy ra tình trạng vừa thiết kế vừa thi công. Việc đấu thầu mua sắm thiết bị cũng có nhiều sai sót, vi phạm quy chế đấu thầu, sai phạm trong việc lựa chọn thiết bị cơ khí hồ thiếu nhi làm thiệt hại 30.000 USD. Một số hạng mục thi công quyết toán sai chế độ, sử dụng vật tư không đúng chủng loại, tính trùng khối lượng và hạch toán sai... với tổng số tiền sai phạm là 1,59 tỷ đồng. Thanh tra Chính phủ đã yêu cầu giảm trừ quyết toán 1,1 tỷ đồng, đồng thời yêu cầu đơn vị thi công nộp lại ngân sách số tiền thanh toán sai 493,8 triệu đồng.
Trách nhiệm để xảy ra các sai phạm và thua lỗ nêu trên của dự án Công viên nước Cần Thơ, theo Thanh tra Chính phủ, thuộc về Ban lãnh đạo Tổng công ty xây dựng số I. Với số tiền thua lỗ hơn 14 tỷ đồng (chủ yếu là tiền lãi vay ngân hàng) sau hơn ba năm hoạt động, cũng cho thấy trách nhiệm không nhỏ của Ngân hàng Ðầu tư và Phát triển Việt Nam- chi nhánh TP Hồ Chí Minh. Ngân hàng này đã không đánh giá đúng thực chất năng lực tài chính và khả năng huy động vốn của chủ đầu tư; thậm chí đã đánh giá sai về tính khả thi của dự án, do không làm rõ nguồn gốc các số liệu, phương pháp xác định doanh thu, chi phí và hiệu quả của dự án. Trong khi đó, công tác kiểm tra làm căn cứ cho vay thiếu chặt chẽ, cho nên đã không phát hiện ra các sai sót trong quá trình đầu tư xây dựng” (tham khảo: tin thanh tra, Cổng thông tin điện tử Thanh tra Chính phủ, ngày 12/06/2007)
3/2. Những hành vi vi phạm pháp luật của Ban lãnh đạo Công ty PIST trong việc mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ:
3/2/1. Thông đồng, móc ngoặc với tư nhân (Công ty TNHH Nam Long – Cần Thơ) trong việc mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ:
1. Tháng 1/2008: Sau khi được sự chấp thuận của Bộ Xây Dựng và UBND Tp. Cần Thơ, Tổng Công ty Xây dựng số 1 đã phát hành hồ sơ chào bán tài sản Công viên nước Cần Thơ với giá khởi điểm là 50 tỷ đồng, bao gồm giá trị phần xây dựng và giá trị phần thiết bị lắp đặt, không bao gồm giá trị quyền sử dụng đất, do đất là đất thuê Nhà nước, trả tiền hàng năm. Tuy nhiên, do giá chào bán quá cao và khả năng hoạt động không hiệu quả, cho nên không có nhà đầu tư nào chào mua tài sản này.
Mặc dù tình trạng tài sản Công viên nước Cần Thơ rất kém như vậy, nhưng thông qua sự môi giới của ông Võ Trung Liệt – Phó giám đốc Công ty TNHH Nam Long (ông Võ Trung Liệt nguyên là Phó giám đốc Công ty Điện lực Cần Thơ – EVNSPC đã nghỉ hưu), Ban lãnh đạo Công ty PIST vẫn quyết định mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ.
Nghiêm trọng nhất của của việc mua bán này là Ban lãnh đạo Công ty PIST đã ủy quyền toàn bộ việc tham gia chào mua, quyết định giá mua cho Công ty TNHH Nam Long thực hiện (tại thời điểm này giá chào mua chưa được xác định).
Việc cấu kết này thể hiện rất rõ bởi các nội dung sau:
1. Sau khi Công ty TNHH Nam Long đã thay mặt Công ty PIST tham gia mua xong tài sản Công viên nước Cần Thơ, giữa Công ty PIST và Công ty TNHH Nam Long mới ký hợp đồng hợp tác kinh doanh với nội dung tỷ lệ tham gia vốn vào dự án giữa PIST và Nam Long là 50%/50% (tham khảo phần căn cứ của Hợp đồng số 01/2008/HĐ-MB/CC1 ngày 11/04/2008).
2. Ngay sau khi Hợp đồng số 01/2008/HĐ-MB/CC1 ngày 11/04/2008 được ký kết, Công ty TNHH Nam Long đã có văn bản gửi Ban lãnh đạo Công ty PIST đề nghị vay tiền của Công ty PIST để thanh toán tiền mua tài sản Công viên nước Cần Thơ, và Ban lãnh đạo Công ty PIST đã ngay lập tức chấp thuận đề nghị này.
3. Trong toàn bộ quá trình thanh toán tiền mua tài sản Công viên nước Cần Thơ cho đến thời điểm thành lập Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ PTN để quản lý khai thác Công viên nước Cần Thơ (với là số vốn theo ghi nhận tại các báo cáo công khai của của Ban lãnh đạo Công ty PIST là sự hợp tác giữa 03 công ty: PIST, Công ty Đầu tư - Kinh doanh Điện lực TP HCM và Công ty TNHH Nam Long theo tỷ lệ 60/30/10(%), trong thực tế Công ty TNHH Nam Long hoàn toàn không góp một đồng vốn nào vào dự án này.
Theo thông tin dư luận tại Tp. Cần Thơ: trong giai đoạn Công viên nước Cần Thơ được xây dựng, Công ty TNHH Nam Long là một trong những nhà thầu xây dựng; Đồng thời, trước thời điểm Công viên nước Cần Thơ được chào bán, vợ chồng ông Võ Trung Liệt đã thuê lại một phần diện tích của Công viên nước để bán cà phê.
3/2/2. Mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ cao hơn nhiều với giá trị thực tế và giá chào bán, có dấu hiệu của việc tham ô tài sản Nhà nước:
Giá chào bán khởi điểm của Tổng Công ty xây dựng số 1 đối với tài sản Công viên nước Cần Thơ chỉ là 50 tỷ đồng, nhưng với sự tham gia chào mua một cách khuất tất, giá mua thực tế mà Ban lãnh đạo Công ty PIST thông qua Công ty TNHH Nam Long đã chào mua và trực tiếp thanh toán cho Tổng Công ty Xây dựng số 1 là: 69,3 tỷ đồng (đã bao gồm thuế VAT).
Việc làm này của Ban lãnh đạo Công ty PIST đã gây rất bức xúc cho nhiều cổ đông, trước một số chất vấn, Công ty TNHH Nam Long đã có những trả lời rất khuất tất như sau:
1. Chỉ chào giá mua là 49 tỷ, là giá chào đứng thứ 2, nhưng người chào giá thứ 1 không mua, nên PIST và Nam Long mới trúng thầu mua.
2. Do quyết tâm mua tài sản Công viên nước Cần Thơ, nên Công ty TNHH Nam Long đã nân giá lần thứ 2 lên cao hơn giá người chào giá thứ 1 của lần đầu để mua được.
Trong thực tế, cách giải thích này hoàn toàn sai sự thật bởi: theo hồ sơ gọi thầu chào bán tài sản Công viên nước Cần Thơ hoàn toàn không có bất cứ một hồ sơ nào thể hiện việc tịch biên bảo lãnh dự thầu của bất cứ nhà thầu chào mua nào.
Như vậy, có thể khẳng định thông qua thương vụ mua bán nhiều khuất tất này, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cấu kết với Công ty TNHH Nam Long nâng khống giá trị mua tài sản Công viên nước Cần Thơ rất lớn; Đồng thời, thông qua việc nâng khống này, có nhiều dấu hiệu của việc tham ô từ Ban lãnh đạo Công ty PIST cần phải được làm rõ.
3/2/3. Thực hiện hành vi vi phạm pháp luật trong việc cho Công ty TNHH Nam Long vay tiền và cho Công ty TNHH Nam Long góp vốn khống trong Công ty TNHH Thương mại Dịch vụ PTN (Công ty con của PIST quản lý, kinh doanh Công viên nước Cần Thơ):
Trong quá trình nhiều đợt thanh toán tiền mua tài sản Công viên nước Cần Thơ, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã nhiều lần cho Công ty TNHH Nam Long vay tiền để Công ty TNHH tham gia thanh toán tiền mua tài sản cho Tổng Công ty xây dựng số 1. Việc làm này được Ban lãnh đạo Công ty PIST che đậy bằng các công bố về việc hợp tác với Công ty TNHH Nam Long trong cái gọi là Dự án Công viên nước Cần Thơ.
Trong thực tế, toàn bộ số lãi vay phải thanh toán theo cam kết của các thỏa thuận vay tiền, đã không được Công ty TNHH Nam Long thanh toán bất cứ một đồng nào cho Công ty PIST cho đến thời điểm hiện tại.
Việc Ban lãnh đạo Công ty PIST cho Công ty TNHH Nam Long vay tiền, cũng như việc không thu lãi vay từ Công ty TNHH Nam Long của Ban lãnh đạo Công ty PIST là một hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc quản lý, sử dụng vốn Nhà nước.
Bên cạnh những sai phạm trong việc cho Công ty TNHH Nam Long vay tiền mua tài sản Công viên nước Cần Thơ, để che dấu sai phạm này, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý ghi vốn khống cho Công ty TNHH Nam Long tại thời điểm thành lập công ty TNHH Thương mại Dịch vụ PTN và để ông Võ Trung Liệt tham gia vào hội đồng thành viên.
3/2/4. Gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước:
Với những hành vi cố ý vi phạm pháp luật trong việc mua tài sản Công viên nước Cần Thơ, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản Nhà nước, cụ thể như sau:
1. Mua lại tài sản Công viên nước Cần Thơ cao hơn nhiều giá trị thị trường và giá chào bán: từ 50 tỷ thành 69,3 tỷ (như đã nêu trên).
2. Không thu hồi được hàng trăm triệu đồng tiền lãi từ các khoản vay của Công ty TNHH Nam Long.
3. Tiêu tốn hàng trăm triệu đồng trong việc tổ chức trông giữ tài sản Công viên nước Cần Thơ từ ngày 6/1/2010 đến tháng 15/12/2011; Tiếp tục gây thua lỗ trong việc tổ chức kinh doanh Công viên nước Cần Thơ từ 15/12/2011 đến nay. Trong thực tế, tổng số tiền Ban lãnh đạo Công ty PIST đã phải chi thêm vào Công viên nước Cần Thơ, tính đến thời điểm 31/12/2011 là 1,3 tỷ đồng và số tiền này hiện nay cũng đã được sử dụng hết (tham khảo phụ lục 9: phần đầu tư vào công ty con, Bảng cân đối kế toán – Báo cáo tài chính năm 2011 của PIST).
4. Tài sản Công viên nước Cần Thơ do bị bỏ hoang từ năm 2008 đến 15/12/2011, chỉ đưa vào hoạt động cầm chừng từ 15/12/2011 đến nay và cho thuê một phần diện tích để bán cà phê, đã dẫn đến tình trạng thiết bị Công viên nước tiếp tục bị hư hỏng và xuống cấp nhanh chóng, đồng thời, tình trạng như hiện nay chắc chắn sẽ bị kéo dài. Trong tình trạng tiếp tục để hoang hóa như hiện nay, có thể xác định tài sản Công viên nước sẽ bị hạ giá trị rất lớn, gây thiệt hại nặng đến tài sản của Nhà nước (tham khảo Báo Công an Nhân dân ngày 10/06/2011).
4. Sai phạm trong việc triển khai Dự án chung cư An Dương Vương – Điện lực (Peridot) phường 16, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh:
Trong việc thực hiện Dự án chung cư An Dương Vương – Điện lực, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật như sau:
1. Sử dụng tài liệu không đúng quy định của pháp luật Nhà nước để mời thầu xây lắp.
2. Thực hiện việc mời thầu xây lắp theo hình thức đấu thầu hạn chế sai với quy định của pháp luật Nhà nước về đấu thầu.
3. Thực hiện lựa chọn nhà thầu xây lắp dưới hình thức đấu thầu hạn chế, nhưng thực sự là chỉ định thầu xây lắp.
4. Lựa chọn tổng thầu xây lắp là người nhà (em ruột) của Tổng Giám đốc.
5. Không thực hiện các hoạt động quản lý dự án, quản lý nhà thầu xây lắp theo quy định của pháp luật Nhà nước.
6. Mua đất để thực hiện dự án không thông qua đấu thầu, không thẩm định giá trị đất theo quy định của pháp luật.
7. Gây thiệt hại nặng đến tài sản của Nhà nước và cổ đông.
Cụ thể các sai phạm như sau:
4/1. Sai phạm trong việc cố ý tổ chức mời thầu khi chưa hoàn thành thiết kế kỹ thuật, khối lượng, tổng dự toán, quy cách thiết bị lắp đặt:
Trong giai đoạn triển khai thực hiện dự án chung cư An Dương Vương – Điện lực, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý tổ chức mời thầu khi hoàn toàn chưa hoàn thành các điều kiện theo quy định của pháp luật Nhà nước về hồ sơ mời thầu như:
1. Hồ sơ thiết kế kỹ thuật thi công;
2. Tổng dự toán được duyệt (do chưa có thiết kế kỹ thuật thi công);
3. Tổng khối lượng mời thầu;
4. Quy định cho nhà thầu về tiêu chuẩn và quy cách thiết bị lắp đặt.
Trong thực tế, Ban lãnh đạo Công ty PST đã có hành vi dùng thiết kế cơ sở (thiết kế cơ sở chỉ có giá trị dùng xin phép xây dựng) với khối lượng, tổng dự toán không đầy đủ để lập hồ sơ mời thầu.
Việc chỉ dùng thiết kế cơ sở để lập hồ sơ mời thầu của Ban lãnh đạo Công ty PIST đã làm dẫn đến các hậu quả như sau:
1. Trong quá trình xét thầu và thương thảo hợp đồng, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã phải liên tục chấp thuận các thay đổi có lợi cho nhà thầu và hoàn toàn phụ thuộc vào ý kiến đề xuất của nhà thầu.
2. Trong quá trình tổ chức thi công, nhà thầu liên tục tạo ra và yêu cầu Ban lãnh đạo Công ty PIST thanh toán nhiều khối lượng phát sinh, làm đội giá thành xây lắp, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước.
Qua nhiều thông tin, cho đến thời điểm hiện tại Ban lãnh đạo Công ty PIST đã nhiều lần giải quyết thanh toán khối lượng phát sinh cho nhà thầu xây lắp với số tiền lên đến hàng tỷ đồng, làm tăng cao giá trị tổng mức đầu tư dự kiến ban đầu.
3. Việc không quy định chi tiết về quy cách và chất lượng của thiết bị lắp đặt trong công trình của Ban lãnh đạo Công ty PIST đã dẫn đến việc: trong quá trình tổ chức thi công, nhà thầu đã đưa vào nhiều vật liệu, thiết bị lắp đặt giá trị thấp hơn nhiều so với chi phí mà PIST phải chi trả, để hưởng lợi lớn từ việc này.
4/2. Sai phạm trong việc cố ý không thực hiện việc tổ chức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn nhà thầu xây lắp theo quy định của pháp luật:
Mặc dù giá trị gói thầu rất lớn, theo thông tin từ Website của đơn vị trúng thầu Tổng công ty xây dựng số 1, giá trị gói thầu xây dựng này là 96,1 tỷ đồng, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý không tổ chức đấu thầu rộng rãi theo quy định của pháp luật Nhà nước (Việc không tổ chức đấu thầu rộng rãi của Ban lãnh đạo Công ty PIST có thể được kiểm chứng qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua tờ báo về đấu thầu, trang tin đấu thầu của Bộ Kế hoạch Đầu tư trước ngày khởi công dự án 09/07/2009, hoàn toàn không có bất cứ một thông tin nào về việc tổ chức đấu thầu gói thầu này).
Trong thực tế, khi tổ chức mời thầu hạn chế gói thầu này, Ban lãnh đạo Công ty PIST chỉ mời duy nhất một nhà thầu là Tổng công ty xây dựng số 1.
Trong quá trình mời thầu, chào thầu và xét thầu, thương thảo hợp đồng, Ban lãnh đạo Công ty PIST cùng với nhà thầu đã tổ chức ngả giá kín với nhau, về mặt hình thức hoàn toàn theo hình thức chỉ định thầu, về mặt bản chất việc này ẩn chứa rất nhiều uẩn khúc.
4/3. Sai phạm trong việc lựa chọn nhà thầu xây lắp là em ruột Tổng giám đốc, trái với quy định của pháp luật nhà nước về phòng chống tham nhũng:
Nhà thầu tổng thầu thi công gói thầu này là Công ty CP xây dựng số 1 – Việt Quang do ông Đinh Thái Quang làm Tổng giám đốc, ông Đinh Thái Quang là em ruột bà Đinh Ngọc Hà Tổng giám đốc Công ty CP Đầu tư – Thương mại – Dịch vụ Điện lực (tham khảo tại GCNĐKKD số 0304654396 do Sở KHĐT Tp. HCM cấp ngày 14/03/3008, thay đổi lần 2 ngày 01/08/2009 cho Công ty CP xây dựng số 1 – Việt Quang).
4/4. Sai phạm trong việc không thực hiện công tác quản lý dự án, quản lý nhà thầu theo quy định của pháp luật:
Trong quá trình thực hiện đầu tư xây dựng dự án này, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã hoàn toàn không thực hiện các quy định quản lý dự án, quản lý nhà thầu theo quy định của pháp luật Nhà nước. Cụ thể:
1. Không tổ chức bộ máy Ban quản lý điều hành dự án.
2. Không thực hiện công tác giám sát chất lượng vật liệu, chất lượng công trình thường xuyên.
3. Không tổ chức thí nghiệm cường độ vật liệu, khả năng chịu lực của hạng mục xây lắp.
4. Phó mặc công tác chất lượng công trình, cũng như tiến độ công trình cho nhà thầu xây lắp. Đến thời điểm hiện tại, công trình đã chậm tiến độ hơn 01 năm và vẫn chưa hoàn thành.
Trong thực tế, để bảo vệ các khuất tất của mình, Ban lãnh đạo Công ty PIST, mà cụ thể là bà Đinh Ngọc Hà – Tổng giám đốc, đã gây sức ép buộc ông Mai Đức Độ - Giám đốc Kế hoạch – Đầu tư, một chuyên viên có kiến thức và rất nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực quản lý xây dựng phải nghỉ việc (ông Mai Đức Độ là chuyên viên nhiều năm của Phòng Quản lý xây dựng – Công ty Điện lực 2);
Sau khi buộc ông Mai Đức Độ phải nghỉ việc, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã sử dụng duy nhất một cán bộ làm công tác quản lý dự án này; Đáng lưu ý là cán bộ này do nhà thầu xây lắp giới thiệu cho Ban lãnh đạo Công ty PIST; hơn nữa, hiện nay cán bộ này vẫn đồng thời cùng làm việc và hưởng lương tại Công ty PIST và Tổng công ty xây dựng số 1, điều này càng bộc lộ những khuất tất trong đầu tư xây dựng dự án này.
4/5. Sai phạm trong việc mua đất để thực hiện dự án không thông qua đấu thầu, không thẩm định giá theo quy định của pháp luật:
Trong việc tổ chức mua khu đất tọa lạc tại số 226/51 đường An Dương Vương, phường 16, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh để thực hiện dự án chung cư An Dương Vương – Điện lực, Ban lãnh đạo Công ty PIST hoàn toàn không tổ chức đấu thầu mua sắm, không tổ chức trưng cầu thẩm định giá tài sản theo quy định của Nhà nước, để làm căn cứ định giá mua.
4/6. Thiệt hại do những sai phạm của Ban lãnh đạo Công ty PIST gây ra từ dự án chung cư An Dương Vương – Điện lực:
Do nhiều sai phạm của Ban lãnh đạo Công ty PIST trong quá trình triển khai đầu tư xây dựng dự án chung cư An Dương Vương – Điện lực, đã dẫn đến những thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, của cổ đông, cụ thể như sau:
1. Do giá thành quá cao, dẫn đến giá bán sản phẩm quá cao, nên phần lớn sản phẩm căn hộ không tiêu thụ được. Trong thực tế, từ thời điểm năm 2009 đến hiện tại, số lượng căn hộ đã bán được là 35/99 căn hộ, với khách mua chủ yếu là một số cán bộ của EVNSPC, số cán bộ này buộc phải mua do sức ép của lãnh đạo EVNSPC.
2. Đối với các tầng dịch vụ (03 tầng): không thể cho thuê được.
3. Với giá sản phẩm đang được Ban lãnh đạo Công ty PIST chào bán hiện nay, trong trường hợp sản phẩm được tiêu thụ hết, dự án này cũng sẽ không có lợi nhuận. Tuy nhiên, do chất lượng của công trình thấp hơn nhiều so với giá sản phẩm đang được Ban lãnh đạo Công ty PIST chào bán, nên muốn tiêu thụ được hết sản phẩm, trong tương lai Ban lãnh đạo Công ty PIST sẽ buộc phải hạ giá chào bán cho phù hợp với thực tế của chất lượng xây dựng; Trong trường hợp này, chắc chắn dự án này sẽ đem lại một số lỗ không nhỏ (tham khảo phụ lục 6: trang 12, Báo cáo tình hình HĐSXKD của PIST năm 2011).
5. Sai phạm trong việc mua bán đất giữa Công ty PIST với Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang:
Trong hoạt động mua bán đất giữa Công ty PIST với Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang, được che dấu dưới vỏ bọc các dự án đầu tư tại Huyện Củ Chi, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật như sau:
1. Tổ chức mua bán đất nông nghiệp trái pháp luật với một đơn vị không có chức năng là Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang.
2. Tùy tiện trong việc sử dụng vốn thuộc sở hữu Nhà nước trong việc mua sắm tài sản: việc mua bán đất nông nghiệp giữa Công ty PIST không thực hiện thông qua đấu thầu, không thông qua thủ tục thẩm định giá theo quy định.
3. Có dấu hiệu bất minh trong việc cử đại diện phần vốn góp trong thủ tục tham gia vào làm thành viên của HTX Hà Quang.
4. Gây thiệt hại nặng đến nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước: do giá trị của tài sản đã mua bị giảm giá trong thực tế.
5. Che dấu và công bố thông tin sai sự thật một thời gian dài.
Cụ thể các sai phạm như sau:
5/1. Những sai phạm của Công ty PIST trong việc mua bán đất với Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang:
Nội dung được Ban lãnh đạo Công ty PIST coi là: Hoạt động đầu tư của Công ty PIST vào các Dự án “Dự án Khu biệt thự làng vườn kết hợp du lịch sinh thái (36 ha) tại huyện Củ Chi”, “Dự án Khu biệt thự làng vườn và du lịch sinh thái (13 ha) tại huyện Củ Chi”, “Dự án đầu tư Khu Điều dưỡng và Dịch vụ tổng hợp”, trong thực tế chỉ là vỏ bọc để che dấu những hành vi vi phạm pháp luật trong việc mua bán đất giữa Công ty PIST với Hợp tác xã Hà Quang với nhiều khuất tất ẩn chứa bên trong.
Những hành vi vi phạm pháp luật của Công ty PIST trong vụ việc này, có thể được nêu cụ thể như sau:
1. Theo quy định của pháp luật, khi thực hiện đầu tư các dự án có phần vốn thuộc sở hữu Nhà nước chiếm từ 30% trở lên (tất cả các Dự án đầu tư của Công ty PIST đều ở trong trường hợp này), Công ty PIST bắt buộc phải thực hiện thông qua hình thức đấu thầu, trong trường hợp đối với các Dự án không đủ điều kiện đấu thầu bắt buộc phải thông qua việc trưng cầu thẩm định giá tài sản của các đơn vị có chức năng để làm cơ sở cho việc mua tài sản.
Trong thực tế, việc ký hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Công ty PIST với HTX Hà Quang thực chất chỉ là biến tướng của hợp đồng mua bán đất, hoàn toàn không phải là hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Việc mua bán đất giữa Công ty PIST với HTX Hà Quang đã hoàn toàn không được Công ty PIST thực hiện việc trưng cầu thẩm định giá của cơ quan chức năng trước khi mua tài sản, dùng kết quả thẩm định giá làm cơ sở mua tài sản. Việc làm này hoàn toàn trái với quy định của pháp luật Nhà nước.
2. Theo quy định của pháp luật, việc Công ty PIST tham gia vào Dự án của HTX Hà Quang phải được thực hiện bằng hình thức tự nguyện trở thành xã viên của HTX Hà Quang (Luật Hợp Tác Xã: “(Điều 5) Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của HTX: (Khoản 1: mọi cá nhân, hộ gia đình, pháp nhân có đủ điều kiện theo quy định của Luật này, tán thành điều lệ HTX đều có quyền gia nhập HTX; xã viên có quyền ra HTX theo quy định của Điều lệ HTX; (Điều 17) Điều kiện trở thành xã viên: (Khoản 2) Hộ gia đình, pháp nhân có thể trở thành xã viên theo quy định của Điều lệ HTX. Khi tham gia HTX, hộ gia đình, pháp nhân phải cử người đại diện có đủ điều kiện như với cá nhân tham gia”, đồng thời nội dung của các hợp đồng hợp tác góp vốn của HTX Hà Quang cũng đã chứng minh rõ điều này.
Trong tất cả các báo cáo Công ty PIST chỉ ghi “Đã ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với HTX Hà Quang”, thực chất hợp đồng hợp tác kinh doanh này là hợp đồng góp vốn dưới hình thức tự nguyện gia nhập thành xã viên của HTX Hà Quang của Công ty PIST.
Việc trở thành xã viên của HTX Hà Quang đã được thực hiện bởi pháp nhân Công ty PIST hay là do một số cá nhân trong Công ty PIST dùng vốn Nhà nước đứng tên xã viên cá nhân trong HTX Hà Quang, cho đến thời điểm hiện tại là một khuất tất cần làm rõ, do Ban lãnh đạo Công ty PIST hoàn toàn che dấu, không công bố về thông tin này.
Về việc này, có thể giả định 02 trường hợp:
a. Trong trường hợp Công ty PIST tham gia trở thành xã viên, theo quy định của pháp luật, Công ty PIST bắt buộc phải cử người đại diện phần vốn của PIST tại HTX Hà Quang. Tuy nhiên, theo thông tin của chúng tôi có được, từ trước đến nay, hoàn toàn không có bất cứ một đại diện nào của Công ty PIST trong danh sách xã viên của Hợp tác xã Hà Quang. Việc không có đại diện của Công ty PIST trong danh sách xã viên của HTX Hà Quang là một minh chứng rõ cho việc mua bán đất giữa PIST và HTX Hà Quang, về bản chất chỉ là hợp đồng mua đất trái pháp luật, cùng với nhiều khuất tất trong đó.
b. Trường hợp Công ty PIST dùng vốn doanh nghiệp, trong đó có phần vốn thuộc sở hữu Nhà nước, cho cá nhân đứng tên xã viên là cố ý làm trái quy định quản lý kinh tế của Nhà nước, có dấu hiệu của hành vi tham ô tài sản.
5/2. Những thiệt hại do Ban lãnh đạo Công ty PIST gây ra từ những sai phạm trong việc mua bán đất với HTX Hà Quang:
Từ những sai phạm trong việc mua bán đất giữa Công ty PIST với HTX Hà Quang, có thể khẳng định rằng Ban lãnh đạo Công ty PIST đã đưa doanh nghiệp đối diện với khả năng hiện thực trong việc làm mất vốn, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại Công ty PIST.
Việc kết luận như trên là hoàn toàn có cơ sở, dựa trên các thông tin sau:
1. Trong thời gian thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh, thực chất là hợp đồng góp vốn, mua đất trái pháp luật với HTX Hà Quang, Công ty PIST đã nhiều lần thanh toán tạm ứng cho HTX Hà Quang với số tiền rất lớn, theo số liệu không đầy đủ, tổng số tiền Công ty PIST đã thanh toán tạm ứng cho HTX Hà Quang ước tính khoảng hơn 20 tỷ đồng.
2. Số tiền Công ty PIST đã thanh toán cho HTX Hà Quang với đơn giá mua đất tại thời điểm chuyển tiền tương ứng với đơn giá 500.000 đồng/m2 đất.
3. HTX Hà Quang đã giao lại cho Công ty PIST giữ một số Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nông nghiệp chưa được chuyển nhượng (theo thông tin chưa kiểm chứng được Công ty đang giữ khoảng hơn 80 GCNQSDĐNN chưa chuyển nhượng, và phần diện tích đất này không nằm ờ trong khu đất 36,4 ha mà HTX Hà Quang đang được cho phép thực hiện dự án “Dự án khu làng nghề hoa cảnh – cá cảnh – cây cảnh).
4. Hiện nay, với quyết định của UBND Tp. HCM không cho phép chuyển mục đích sử dụng cho toàn bộ khu đất 495 ha tại xã Trung An và xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, trong đó kể cả phần diện tích 36,4 ha mà HTX Hà Quang được chấp thuận cho triển khai tiếp dự án làng nghề từ mục đích sản xuất nông nghiệp sang đất ở, không được xây biệt thự để kinh doanh bất động sản, giá trị của phần đất nông nghiệp mà Công ty PIST đã không còn đủ giá trị như tại thời điểm mua.
5. Do chủ trương của UBND Tp. HCM hiện nay đang tạm thời không cho chuyển nhượng đất tại khu vực này, nên sự chiếm hữu số GCNQSDĐNN hiện tại của Công ty PIST chỉ mang tính chất tượng trưng, không có giá trị thực tế.
6. Theo thông tin từ một số cán bộ lãnh đạo Huyện Củ Chi, hiện nay HTX Hà Quang chưa hoàn tất việc đền bù cho dân tại các khu vực đất nói trên; Trong trường hợp này, khả năng mất trắng toàn bộ tài sản của Công ty PIST là hoàn toàn hiện thực.
5/3. Những thông tin Ban lãnh đạo Công ty PIST đã công bố về các Dự án Khu biệt thự nhà vườn tại Củ Chi:
Trong một khoảng thời gian dài, từ năm 2008 đến nay, Ban lãnh đạo Công ty PIST với thủ đoạn tạo ra các thông tin không có thật về các Dự án của Công ty tại Củ Chi để công bố những thông tin hoàn toàn sai sự thật, nhằm che dấu những hành vi vi phạm pháp luật về việc mua bán đất giữa Công ty PIST với Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang.
Cụ thể các thông tin Ban lãnh đạo PIST đã công bố như sau:
1. Tham khảo phụ lục 3: trang 4, trang 5, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2008 và kế hoạch năm 2009 của PIST:
1/1. “Dự án đầu tư Khu Điều dưỡng và Dịch vụ tổng hợp (HĐQT đã đồng ý chủ trương thực hiện): Dự án có quy mô 5 ha, nằm trong quy mô chung 36 ha đã được chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan chức năng; Đã có thuận quy hoạch chung; Đang xúc tiến thủ tục phê duyệt 1/2000 và 1/500; Dự án đã được phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chi tiết 1/2000 theo quyết định 10860/QĐ-UBND của UBND huyện Củ Chi vào ngày 17/04/2009”.
1/2. “Dự án hợp tác đầu tư Khu biệt thự vườn 31 ha tại Củ Chi (HĐQT đã đồng ý chủ trương thực hiện):Dự án có quy mô 31 ha, nằm trong quy mô chung 36 ha đã được chấp thuận chủ trương đầu tư của cơ quan chức năng; Đã có thuận quy hoạch chung, đang xúc tiến thủ tục phê duyệt 1/2000 và 1/500; Đã có kết quả thẩm định nhiệm vụ quy hoạch 1/500 số 4513/KQTĐ-SQHKT; Dự án đã được phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chi tiết 1/2000 theo quyết định 10860/QĐ-UBND của UBND huyện Củ Chi vào ngày 17/04/2009; Dự án dự kiến thực hiện trong vòng 3 năm từ năm 2009 -2011”.
2. Tham khảo phụ lục 4: trang 5, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2009 và kế hoạch năm 2010 của PIST:
2/1. “Dự án hợp tác đầu tư Khu Biệt thự vườn 31 ha tại Củ Chi: Dự án trước đây có quy mô 31 ha tuy nhiên được cơ quan chức năng điều chỉnh quy mô thành 36 ha; Đã phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch chi tiết 1/2000 khu làng nghề Hà Quang 495 ha tại định 10860/QĐ-UBND ngày 17/04/2009 của UBND huyện Củ Chi; Sở QHKT Tp. HCM thống nhất nội dung đồ án QHCT 1/500 khu làng nghề và chuyển UBND huyện Củ Chi thẩm định và phê duyệt; Đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500 tuy nhiên đang tiếp tục điều chỉnh quy hoạch 1/500 để đạt hiệu quả kinh doanh cao hơn; Đã ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với HTX Hà Quang”.
2/2. “Dự án đầu tư Khu điều dưỡng và Dịch vụ tổng hợp: Dự án trước đây có quy mô 5 ha, nằm trong quy mô chung 36 ha tuy nhiên theo quy hoạch 1/500 vừa phê duyệt không còn phù hợp do đó Công ty đang thương thảo với HTX Hà Quang để chọn một vị trí mới với quy mô khoảng 11 ha để đầu tư kết hợp Khu điều dưỡng trong khu biệt thự nhà vườn”.
3. Tham khảo phụ lục 5: trang 4, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2010 và kế hoạch năm 2011 của PIST:
3/1. “Dự án Khu biệt thự làng vườn kết hợp du lịch sinh thái (36 ha) tại huyện Củ Chi: Đã ký kết hợp đồng hợp tác kinh doanh với HTX Hà Quang; Đã được phê duyệt quy hoạch chi tiết 1/500; Hiện đang tiến hành san lấp các ao và làm đường tạm; Đã trình cơ quan chức năng thẩm định thiết kế cơ sở, đang hiệu chỉnh hồ sơ theo ý kiến góp ý để trình duyệt lại”.
3/2. “Dự án Khu biệt thự làng vườn và du lịch sinh thái (13 ha) tại huyện Củ Chi: Đây là dự án công ty đầu tư 100% vốn; Đã ký hợp đồng tư vấn xin thủ tục đầu tư dự án và gửi văn bản đến chính quyền địa phương xin thuận chủ trương đầu tư”.
4. Tham khảo phụ lục 6: trang 9, Báo cáo tình hình hoạt động năm 2011 và kế hoạch năm 2012 của PIST:
4/1. “Dự án khu biệt thự vườn kết hợp với du lịch sinh thái (36ha) tại Huyện Củ Chi: HTX Hà Quang đã thực hiện đền bù được 29,23ha/36,4 ha; Hiện UBND Tp. Hồ Chí Minh đã cho phép chuyển mục đích sang đất thổ cư với diện tích 300 m2/3.000m2 (theo thông báo số 69/TB-VPTU ngày 17/06/2011)”.
4/2. “Dự án khu biệt thự làng vườn và du lịch sinh thái (13ha) tại huyện Củ Chi: Đây là dự án Công ty đầu tư 100% trên cơ sở nhận chuyển nhượng QSD đất của HTX Hà Quang. Hiện nay 7,92ha/13,55ha đã có sổ hồng, trong đó đã chuyển quyền sừ dụng đất cho PIST là 12.129,2 m2.
5/4. Thực trạng về dự án làng nghề của Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang:
Hoàn toàn trái với những thông tin sai sự thật về các Dự án tại Củ Chi như Ban lãnh đạo Công ty PIST đã công bố như đã dẫn chứng, sự thật về Dự án do Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang thực hiện là dự án có rất nhiều sai phạm, được các phương tiện thông tin đại chúng công bố các thông tin, với các nội dung cụ thể như sau:
1. Hợp tác xã Nuôi trồng thủy sản Hà Quang (HTX Hà Quang) là đơn vị kinh tế tập thể được thành lập tại đại hội xã viên ngày 27/04/2003, gồm 7 thành viên chính thức, vốn điều lệ 1 tỷ đồng, do ông Nguyễn Nhung làm chủ nhiệm.
2. Ngày 07/12/2004, UBND TP. Hồ Chí Minh có công văn số 7567/UB-CNN chấp thuận cho HTX Hà Quang hợp tác với Câu lạc bộ cá cảnh thành phố triển khai đầu tư xây dựng Khu làng nghề cá cảnh, hoa lan, cây kiểng tại xã Trung an, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi.
3. Thực hiện chỉ đạo của UBND TP, ngày 31/05/2005, Sở Tài nguyên Môi trường đã có văn bản gửi Sở NN & PTNT, UBND huyện Củ Chi, phối hợp với chủ đầu tư tiến hành xác định ranh giới, diện tích đất phù hợp với quy hoạch chi tiết được duyệt để thực hiện dự án đầu tư khu làng nghề cá cảnh, hoa lan, cây kiểng của HTX Hà Quang.
4. Ngày 10/07/2006, UBND huyện Củ Chi, UBND xã Trung An, xã Phú Hòa Đông đã xác nhận bản đồ khu trang trại kinh tế vườn, làng nghề hoa, cây kiểng, cá cảnh với quy mô 495 ha, trong đó diện tích ở xã Phú Hòa Đông là 69 ha, diện tích ở xã Trung An là 425 ha.
5. Mặc dù chưa có quyết định giao đất của UBND TP nhưng HTX Hà Quang đã tự ý tiến hành san lấp mặt bằng khoảng 62.000m2, trong đó 12.000m2 là đất công và đã triển khai xây dựng một số hạng mục: đắp đường đất đỏ, cải tạo tuyến đường nội bộ, tổng chiều dài 870m, dựng cột và kéo điện phục vụ sản xuất đồng thời cho dựng 9 nhà cột gỗ, mái ngói không vách dùng để tiếp khách, 3 nhà cột gỗ, mái ngói tường gạch cấp 4 và 1 nhà kho mái tôn vì kèo sắt không vách và trang bị hồ kiểng để nuôi cá. UBND xã Trung An đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính và ngày 22/01/2008, UBND huyện Củ Chi ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động xây dựng, quản lý công trình hạ tầng đô thị và quản lý đất đai đối với HTX Hà Quang, đồng thời buộc HTX Hà Quang tháo dỡ, hoàn trả lại hiện trạng ban đầu đối với các hạng mục xây dựng không phép.
6. Theo quy chế hoạt động làng nghề thì vốn của làng nghề do chủ nhiệm HTX Hà Quang giao từng thời kỳ và kết nạp xã viên góp vốn mới phải thông qua HTX. Vì vậy, HTX phải tiến hành đại hội xã viên để quyết định việc tăng số lượng xã viên mới và tăng vốn điều lệ, phải thông báo cho cơ quan cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế, hoạt động của HTX Hà Quang không phù hợp với GCNĐKKD vì theo giấy phép HTX chỉ có 7 xã viên, vốn điều lệ là 1 tỷ đồng. Trong khi đó, HTX Hà Quang đã tiếp nhận đơn đăng ký của 567 người, với số tiền góp vốn là 94.474.500.000 đồng. Chưa kể, trong số 567 đơn xin tham gia HTX có 48 người có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội, Hải Phòng, Nghệ An, Bình Định, Phú Yên.
7. Mặc dù chưa được giao đất và không có chức năng thỏa thuận bồi thường đất, san lấp, xây dựng, phân lô bán nền nhưng HTX Hà Quang đã cố ý phân chia diện tích 110 ha mới chỉ được thuận địa điểm thành hàng nghìn lô (mổi lô rộng 1.000 m2), với mục đích dùng để xây biệt thự, trồng hoa, cây cảnh hoặc nuôi cá cảnh.
8. HTX Hà Quang đã tự ý tiến hành việc “xẻ đất làng nghề” xây biệt thự dưới hình thức kêu gọi các nhà đầu tư làm hợp đồng góp vốn với nội dung: “Chỉ cần góp vốn 400 – 600 triệu đồng, quý khách sẽ trở thành xã viên của dự án phát triển làng nghề biệt thự cây cá cảnh tại huyện Củ Chi. Mỗi xã viên sẽ được sở hữu một ngôi nhà (diện tích xây dựng 150 – 250 m2) trong khuôn viên đất 1.000 m2 (diện tích 25m x 40m) mà phần lớn để trồng hoa, cây cảnh, nuôi cá cảnh”
9. Việc góp vốn thông qua hình thức cá nhân làm đơn xin gia nhập HTX, nộp tiền góp vốn để được HTX chuyển giao đất vườn, ao, có cơ sở hạ tầng tại khu vực triển khai dự án và số tiền góp vốn tương ứng với số diện tích đất được giao. HTX tự đưa ra 4 loại khung giá: 300.000 đồng/m2, 400.000 đồng/m2, 450.000 đồng/m2, 500.000 đồng/m2.
10. Theo hợp đồng góp vốn ký kết giữa HTX với cá nhân tham gia góp vốn để nhận được một diện tích đất nông nghiệp theo định suất, HTX Hà Quang chịu trách nhiệm lập thủ tục chuyển mục đích sử dụng từ đất vườn sang đất ở để xây dựng nhà theo quy hoạch tỷ lệ 1/500 được duyệt, xã viên phải thực hiện nghĩa vụ tài chính khi thực hiện chuyển mục đích sử dụng đất, phải xây dựng nhà theo mẫu quy hoạch được duyệt. Hợp đồng góp vốn còn ghi nhận việc thay đổi xã viên mới chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của HTX và theo quy định của HTX (khi quy hoạch 1/500 được duyệt, xã viên được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người tham gia mới phải làm đơn xin gia nhập HTX và cam kết thực hiện quy chế làng nghề.
11. Tháng 5/2008 Thanh tra Sở Tài nguyên Môi trường đã có kết luận thanh tra về các sai phạm về tình hình sử dụng đất của HTX Hà Quang.
12. Căn cứ kết luận thanh tra tình hình sử dụng đất của Thanh tra Sở TNMT, Phó Chủ tịch UBND Tp. Hồ Chí Minh Nguyễn Trung Tín đã chỉ đạo: HTX Hà Quang khẩn trương phối hợp với đơn vị tư vấn có chức năng lập đồ án quy hoạch chi tiết 1/2000 và 1/500 đối với phần diện tích 30 ha được UBND TP chấp thuận cho triển khai thí điểm dự án đầu tư xây dựng khu làng nghề cá cảnh, hoa lan, cây kiểng tại xã Trung An, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi, trình UBND huyện Củ Chi và Sở QHKT phê duyệt theo đúng quy định của pháp luật. Phần diện tích 465 ha còn lại, giao UBND huyện Củ Chi, sở QHKT lập đồ án quy hoạch chi tiết 1/2000, việc quy hoạch vị trí cụm dân cư trong khu vực 495 ha do UBND huyện Củ Chi và sở QHKT quyết định. HTX phải tạm ngưng toàn bộ việc san lấp mặt bằng, việc thỏa thuận bồi thường, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các hộ dân và các công việc liên quan đến dự án, chờ quy hoạch chi tiết của cơ quan có thẩm quyền và hoàn tất các thủ tục pháp lý của dự án. UBND Tp. HCM giao UBND huyện Củ Chi kiểm tra chặt chẽ việc huy động vốn của HTX Hà Quang, chịu trách nhiệm không để phát sinh hậu quả khó khắc phục.
13. Ngày 24/06/2008 Thanh tra Tp. Hồ Chí Minh đã lập Đoàn thanh tra tình hình sử dụng đất của HTX Nuôi trồng thủy sản Hà Quang (tại xã Trung An, Phú Hòa Đông, huyện Củ Chi). Theo kết luận thanh tra của Thanh tra Tp. Hồ Chí Minh, việc HTX Hà Quang tiến hành bồi thường vượt quá phạm vi 30 ha đất được UBND Tp. Hồ Chí Minh thuận địa điểm, đồng thời tiến hành san lấp mặt bằng 6 ha trong khi quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/2000 của dự án Khu trang trại kinh tế vườn với quy mô 495 ha chưa được phê duyệt là chưa đúng với Điều 103 Nghị định 81/NĐ-CP về thi hành Luật Đất Đai. Cũng theo Thanh tra TP HCM, việc huy động vốn góp của các cá nhân xin gia nhập HTX tuy không sai Luật HTX năm 2003, nhưng nội dung hợp đồng góp vốn có những điều khoản về việc chuyển mục đích sử dụng đất ở, giao đất và cấp GCNQSDĐ cho người góp vốn là chưa phù hợp với quy định của Luật Đất Đai vì hiện nay dự án đầu tư chưa được phê duyệt.
14. Đầu tháng 5/2009, thường trực UBND TP.HCM sau khi xem xét kết luận thanh tra qua trình sử dựng đất tại Dự án làng nghề cá cảnh – hoa lan – cây cảnh, đã yêu cầu các sở ngành hướng dẫn HTX Hà Quang phải quy hoạch diện tích tối thiểu mỗi thửa đất rộng trên 3.000 m2 để tổ chức sản xuất, không xây biệt thự để kinh doanh bất động sản; quyết định giao quyền sử dụng đất cho từng hộ xã viên chỉ là dùng cho sản xuất nông nghiệp, không chuyển sang sử dụng cho mục đích khác. Ngoài ra, thường trực của UBND TP. HCM còn đề nghị các sở ngành chức năng cần phối hợp chặt chẽ với UBND huyện Củ Chi phải kiểm tra chặt chẽ việc thực hiện chủ trương nói trên, hạn chế tối đa việc tăng dân số, không nhập hộ khẩu đối với người địa phương khác vào xây dựng dự án này. Riêng đối với phần diện tích đất gần 460 ha còn lại của Khu sản xuất nông – lâm – thủy sản kết hợp làng nghề cá cảnh – hoa lan – cây cảnh, thường trực UBND TP. HCM cũng yêu cầu UBND huyện Củ Chi mời chọn nhà đầu tư có năng lực tài chính để thực hiện dự án. Toàn bộ phần diện tích này phải được lập quy hoạch chi tiết 1/2000, theo hướng không quy hoạch thành lô thửa nhỏ để làm nhà ở và kinh doanh bất động sản.
15. Ngày 25/05/2009, Sở TNMT Tp. Hồ Chí Minh thông báo: HTX Hà Quang chỉ được sử dụng 36,4 ha đất tại xã Trung An, huyện Củ Chi cho mục đích sản xuất của Dự án làng nghề cá cảnh – hoa lan – cây cảnh; Không xây biệt thự để kinh doanh bất động sản.
6. Sai phạm trong việc thực hiện Dự án cao ốc Trung tâm thương mại – Văn phòng – Căn hộ tại địa điểm 16 Âu Cơ, phường Tân Sơn Nhì, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh:
Trong việc thực hiện dự án Khu cao ốc Văn phòng – Trung tâm thương mại – Căn hộ tại địa điểm 16 đường Âu Cơ, phường Tân Sơn Nhì, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật cụ thể như sau:
1. Vay tiền không đủ điều kiện đảm bảo.
2. Mua bán lòng vòng tài sản Nhà nước để trục lợi.
3. Gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước.
Cụ thể sai phạm như sau:
6/1. Vay tiền không đủ điều kiện đảm bảo:
Mục đích chính để Ban lãnh đạo Công ty PIST thực hiện dự án này chỉ là để xử lý vụ việc Công ty cổ phần Xây lắp Điện (đã nêu tại mục 1, Phần II: Sai phạm có hệ thống).
Khu đất 16 Âu Cơ, phường Tân Sơn Nhì, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh là tài sản Nhà nước cho Công ty Điện lực 2 (EVNSPC) thuê và Công ty cổ phần Xây lắp Điện quản lý, sau khi nhập vào PIST, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã xin giao đất có thu tiền sử dụng đất theo hình thức chỉ định và đã nộp đủ tiền cho ngân sách Nhà nước.
Để có nguồn nộp tiền sử dụng đất cho UBND TP. Hồ Chí Minh, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã câu kết với Ban lãnh đạo Công ty cổ phần Tài chính điện lực để vay 200 tỷ đồng cho dự án này không có các biện pháp bảo đảm tiền vay theo quy định.
6/2. Mua bán lòng vòng tài sản Nhà nước để trục lợi:
Do mục đích đầu tư không phải là mục đích chính, mà mục đích xóa dấu vết sai phạm tại Công ty cổ phần Xây lắp Điện là mục đích chính, nên từ khi vay 200 tỷ của Công ty CP tài chính Điện lực, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã phải trả khoản lãi vay với số tiền lên đến hơn 29 tỷ đồng trong năm 2011.
Bởi không có tiền trả lãi vay cho Công ty cổ phần tài chính Điện lực, Ban lãnh đạo Công ty PIST sau khi đã nộp xong tiền sử dụng đất đã câu kết với một số cán bộ trong Ban lãnh đạo EVNSPC để bán lại một phần khu đất này cho EVNSPC để lấy tiền trả lãi cho Công ty cổ phần tài chính Điện lực, trong khi EVNSPC hoàn toàn không có mục đích chính đáng nào trong việc sử dụng khu đất này. Hơn thế, việc mua bán này đã được thực hiện khi Công ty PIST chưa hoàn thành các thủ tục để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (tham khảo phụ 6: trang 7, Báo cáo tình hình SXKD năm 2011 của PIST).
Hiện nay, Ban lãnh đạo Công ty PIST đang toan tính đến việc bán lại toàn bộ khu đất này để lấy nguồn tiền thanh toán khoản tiền vay cho Công ty cổ phần tài chính Điện lực.
6/3. Những thiệt hại do Ban lãnh đạo Công ty PIST gây ra từ những sai phạm trong việc thực hiện dự án 16 Âu Cơ, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh:
Tính đến thời điểm hiện tại, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, tài sản của cổ đông tại Công ty PIST ít nhất là hơn 29 tỷ đồng, đó chính là khoản lãi vay phải trả cho Công ty cổ phần tài chính Điện lực trong năm 2011. Đặc biệt khoản tiền này có được từ nguồn vốn của Tổng Công ty Điện lực Miền Nam.
Bên cạnh đó, còn các thiệt hại do phải bán dưới giá thành các căn hộ mua từ dự án Phú Thạnh (những căn hộ này về bản chất không phải được mua từ mục đích kinh doanh, mà được mua với mục đích đền bù cho 11 hộ trong diện giải tỏa tại khu đất 16 Âu Cơ, nhưng do giá quá cao nên các hộ này không nhận, chỉ nhận bằng tiền mặt tại PIST).
Đó là chưa kể đến các thiệt hại đang tiếp tục phát sinh trong năm 2012, do hiện nay vẫn đang tiếp tục phát sinh lãi vay của khoản vay 200 tỷ với Công ty cổ phần tài chính Điện lực chưa tất toán.
7. Sai phạm trong việc mua đất của Công ty TNHH Hoàng Tâm tại Dự án Hoàng Tâm 1 – Tp. Cà Mau:
Trong hoạt động mua bán đất giữa Công ty PIST với Công ty TNHH Hoàng Tâm tại dự án Hoàng Tâm 1, xã Lý Văn Lâm, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật như sau:
1. Mua đất cao hơn nhiều so với giá mặt bằng cùng thời điểm, không thông qua đấu thầu, không thông qua thủ tục thẩm định giá.
2. Gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của cổ đông tại công ty.
Cụ thể sai phạm như sau:
7/1. Thông tin về dự án Hoàng Tâm 1, xã Lý Văn Lâm, Tp. Cà Mau:
Dự án Hoàng Tâm 1, xã Lý Văn Lâm, Tp. Cà Mau, tỉnh Cà Mau do Công ty TNHH Hoàng Tâm làm chủ đầu tư từ năm 2005. Do không có khả năng tài chính nên cho đến hiện nay, dự án này vẫn chưa hoàn tất được cơ sở hạ tầng.
Dự án Hoàng Tâm 1 cũng như nhiều dự án đất nền khác tại khu vực Tp. Cà Mau trong khoảng thời gian từ năm 2005 đến nay đều rơi vào tình trạng hầu như hoàn toàn không thể tiêu thụ được, do vượt quá nhu cầu của khu vực.
7/2. Những hành vi cố ý vi phạm pháp luật của Ban lãnh đạo Công ty PIST trong việc mua đất từ dự án Hoàng Tâm 1:
7/2/1. Mua đất cao hơn nhiều so với giá mặt bằng cùng thời điểm, không thông qua đấu thầu, không thông qua thủ tục thẩm định giá:
Trong việc mua bán một phần diện tích đất trong Dự án Hoàng Tâm, Mặc dù với giá trị hợp đồng lên đến 14,765 tỷ Ban lãnh đạo Công ty PIST đã không thực hiện thông qua đấu thầu, không thực hiện thẩm định giá theo quy định của pháp luật Nhà nước (tham khảo phụ lục 3: trang 5, Báo cáo tình hình SXKD năm 2008 của PIST).
Việc này dẫn đến hậu quả là Ban lãnh đạo Công ty PIST đã mua lại phần đất chưa san lấp với đơn giá ngang bằng với đơn giá của các khu đất tại các dự án đã hoàn tất cơ sở hạ tầng trong khu vực trong cùng thời điểm, cụ thể: Tính cho diện tích 17.059m2, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã mua với giá 14,765 tỷ, tương đương với: 865, 5 ngàn đồng/ m2 (tham khảo phụ lục 3: Báo cáo tình hình SXKD năm 2008 và phụ lục 6: trang 8, Báo cáo tình hình SXKD năm 2011 của PIST).
7/2/2. Gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, của cổ đông tại công ty:
Do Ban lãnh đạo Công ty PIST đã mua lại phần đất trong Dự án Hoàng Tâm 1 – Cà Mau với giá quá cao so với giá thị trường, nên mặc dù đã nhiều lần hạ giá bán nhiều lần hạ giá bán nhưng không thể tiêu thụ được (tham khảo phụ lục 5: trang 4, Báo cáo tình hình SXKD năm 2010 của PIST); Hơn nữa phần đất này hiện nay qua rất nhiều năm thực hiện vẫn chưa hoàn tất phần cơ sở hạ tầng (tham khảo phụ lục 6: trang 8: Báo cáo tình hình SXKD năm 2011 của PIST).
Tại thời điểm năm 2008, khi Ban lãnh đạo Công ty PIST mua lại phần diện tích đất trong Dự án Hoàng Tâm 1 – Cà Mau, là thời điểm giá thị trường bất động sản đang ở mức cao nhất, trong tình hình thị trường bất động sản hiện tại, cùng với chính sách của Nhà nước về việc kéo giảm giá bất động sản quay về mức giá hợp lý, chắc chắn khi tiêu thụ phần diện tích đất đã mua này, sẽ đưa lại cho Công ty PIST một khoản lỗ không nhỏ, việc này tất yếu dẫn đến việc gây thiệt hại tài sản thuộc sở hữu Nhà nước tại Công ty PIST.
8. Sai phạm trong việc liên kết với Công ty TNHH Nam Long thực hiện Dự án khu nhà vườn Cồn Khương – Cần Thơ:
Trong việc cùng Công ty TNHH Nam Long thực hiện dự án Khu nhà ở Cồn Khương, Tp. Cần Thơ, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện những hành vi vi phạm pháp luật cụ thể sau:
1. Dùng nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước cho tư nhân sử dụng trái pháp luật để trục lợi.
2. Gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước.
Cụ thể sai phạm như sau:
8/1. Thông tin về dự án Khu nhà vườn Cồn Khương:
Dự án Khu nhà vườn Cồn Khương (14,7 ha) do Công ty TNHH Nam Long làm chủ đầu tư, có chủ trương đầu tư từ tháng 4/2004, đến ngày 20/12/2011, theo kiểm tra của Sở Xây dựng Cần Thơ, chỉ giải phóng mặt bằng được gần 55% diện tích.
Dự án Khu nhà vườn Cồn Khương của Công ty TNHH Nam Long cũng như nhiều dự án đất nền khác tại khu vực Cồn Khương Cần Thơ từ năm 2005 đến nay hầu như đều không có khả năng tiêu thụ do không hoàn tất được cơ sở hạ tầng chung và vượt quá nhu cầu trong khu vực.
8/2. Những hành vi vi phạm pháp luật của Ban lãnh đạo Công ty PIST trong việc cùng Công ty TNHH Nam Long tham gia dự án Khu nhà vườn Cồn Khương:
8/2/1. Dùng nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước cho tư nhân sử dụng trái pháp luật để trục lợi.
Công ty TNHH Nam Long hoàn toàn không có năng lực tài chính, nhưng cùng thời điểm tham gia việc mua tài sản Công viên nước Cần Thơ, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã dùng nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước tại công ty để giao tiền cho Công ty TNHH Nam Long thực hiện việc đền bù giải tỏa dự án của chính họ. Việc Công ty TNHH Nam Long không có năng lực tài chính, sau nhiều năm che dấu, chính Ban lãnh đạo Công ty PIST cũng đã phải thừa nhận (tham khảo phụ lục 6: trang 8, Báo cáo tình hình SXKD năm 2011 của PIST).
Trong thực tế, toàn bộ giá trị tiền đền bù, giải tỏa cho Dự án Khu nhà vườn Cồn Khương đều do Ban lãnh đạo PIST dùng nguồn vốn Nhà nước để thanh toán, trong khi dự án là của Công ty TNHH Nam Long, đây là một hành vi cố ý vi phạm một cách nghiêm trọng với các quy định của pháp luật Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn thuộc sở hữu Nhà nước;
Việc làm vi phạm pháp luật và khuất tất này đang ẩn chứa nhiều dấu hiệu tham nhũng của một số cá nhân cần được làm rõ, đặc biệt là trong một thời gian dài từ năm 2008 đến nay, Ban lãnh đạo Công ty PIST thường xuyên bưng bít sự thật với những thông tin được công bố công khai là dự án hợp tác với Công ty TNHH Nam Long.
8/2/2. Gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước:
Trong việc Ban lãnh đạo Công ty PIST sử dụng nguồn vốn Nhà nước để thực hiện dự án thay cho Công ty TNHH Nam Long, đã đưa lại những thiệt hại nghiêm trọng cho tài sản của Nhà nước, cụ thể như sau:
1. Hiện nay, với cách sử dụng nguồn vốn Nhà nước không cần tính đến hậu quả xảy ra, nên phần diện tích đã được đền bù giải tỏa không liền thửa (theo kiểu da báo), dẫn đến việc không thể triển khai bất cứ hạng mục nào của dự án.
2. Hiện nay Công ty PIST hoàn toàn không còn tiền để tiếp tục tài trợ cho Công ty TNHH Nam Long, điều này được Ban lãnh đạo Công ty PIST biện minh là: “tạm ngừng rót vốn cho công tác đền bù giải phóng mặt bằng” (tham khảo phụ lục 6: trang 8, Báo cáo tình hình SXKD năm 2011 của PIST).
Việc không thể triển khai tiếp tục dự án này cũng đồng nghĩa với việc hàng chục tỷ đồng của Công ty PIST, trong đó phần lớn là phần vốn thuộc sở hữu Nhà nước có nguy cơ mất trắng.
9. Sai phạm trong hoạt động hạch toán kế toán:
Để che dấu những sai phạm trong hoạt động sản xuất kinh doanh Ban lãnh đạo Công ty PIST đã thực hiện nhiều hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động hành toán kế toán, cụ thể như sau:
9/1. Không hạch toán tiền lãi vay trong Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, che dấu việc làm thất thoát tài sản Nhà nước:
Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý không hạch toán khoản chi phí lãi vay trong nội dung Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của Báo cáo tài chính các năm 2010 và 2011, nhằm che dấu các khoản lỗ có thực đưa lại từ các chi phí này; Trong thực tế, nếu được hạch toán đúng, Công ty PIST trong năm 2011 lỗ ít nhất là hơn 26 tỷ đồng.
Hành vi sai phạm cụ thể như sau:
9/1/1. Nội dung phụ lục 7: Báo cáo tài chính năm 2010:
1. Tại Bảng cân đối kế toán: Mục nợ phải trả ghi:
310 – Nợ ngắn hạn: 63.519.099.058 đồng.
330 – Nợ dài hạn: 201.411.746.167 đồng.
2. Tại Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Mục Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính ghi:
33 – Tiền vay ngắn hạn, dài hạn nhận được: 200.000.000.000 đồng.
3. Tại báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Mục chi phí tài chính ghi:
7 – Chi phí tài chính: Trong đó chi phí lãi vay: 0 đồng.
9/1/2. Nội dung phụ lục 9: Báo cáo tài chính năm 2011:
1. Tại Bảng cân đối kế toán: Mục nợ phải trả ghi:
Nợ ngắn hạn: 206.000.000.000 đồng.
2. Tại Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: Mục Lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính ghi:
33 – Tiền vay ngắn hạn, dài hạn nhận được: 6.000.000.000 đồng.
3. Tại báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh: Mục chi phí tài chính ghi:
22 – Chi phí tài chính: Trong đó chi phí lãi vay: 0 đồng.
9/1/3. Nội dung Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2011:
Tại trang 2, Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2011 ghi: “phải trả lãi vay cho Công ty tài chính điện lực 29 tỷ đồng”.
Kết luận: Việc không ghi chỉ tiêu lãi vay trong báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Ban lãnh đạo Công ty PIST là hành vi cố ý làm trái để che dấu việc Công ty bị lỗ rất lớn trong hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2011.
Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty PIST đúng ra phải được ghi như sau:

Chỉ tiêu
Thuyết minh
31/12/2011 VND
1
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
21
126,567,964,964
2
Các khoản giảm trừ

-
3
Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ

126,567,964,964
4
Giá vốn hàng bán
22
114,563,827,231
5
Lợi nhuận gộp về bán hàng và cung cấp dịch vụ

12,004,137,733
6
Doanh thu hoạt động tài chính
23
3,464,463,897
7
Chi phí tài chính

29,010,941,735

Trong đó: Chi phí lãi vay (tạm tính)

29,000,000,000
8
Chi phí bán hàng

1,588,905,384
9
Chi phí quản lý doanh nghiệp

11,296,770,488
10
Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh

(26,428,015,977)
11
Thu nhập khác
24
608,410,888
12
Chi phí khác
25
809,368,897
13
Lợi nhuận khác

(200,958,009)
14
Tổng lợi nhuận kế toán trước thuế

(26,628,973,986)
15
Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hiện hành
26.1

16
Chi phí thuế thu nhập doanh nghiệp hoãn lại
26.2

17
Lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp

(26,628,973,986)




18
Lãi cơ bản trên cổ phiếu
27


9/2. Hạch toán tiền đầu tư tài chính ngắn hạn không có thật nhằm che dấu việc làm thất thoát nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước:
Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện hành vi vi phạm trong việc ghi nhận khống khoản mục: Đầu tư tài chính ngắn hạn tại Báo cáo tài chính năm 2011, cố ý che dấu sự thật về việc mất cân đối tài sản có và tài sản nợ do thua lỗ, mất vốn, nhằm mục đích che dấu việc làm thất thoát nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước.
Tại Báo cáo tài chính năm 2011, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã ghi nhận khống khoản mục: Đầu tư tài chính ngắn hạn lên đến 45,5 tỷ đồng (tham khảo phụ lục 9: mục 121, bảng cân đối kế toán, Báo cáo tài chính năm 2011 của PIST) ; Trong thực tế trong 06 tháng cuối năm 2011, Công ty PIST hoàn toàn không có bất cứ một hoạt động đầu tư tài chính nào.
Giá trị đầu tư tài chính ngắn hạn được Ban lãnh đạo Công ty PIST, ghi nhận tại khoản mục: Đầu tư tài chính ngắn hạn tại Báo cáo tài chính 06 tháng năm 2011, có giá trị được ghi nhận là: 11,634 tỷ đồng mới là giá trị thật tại thời điểm ghi nhận (tham khảo phụ lục 8: mục 120, bảng cân đối kế toán, Báo cáo tài chính 06 tháng năm 2011 của PIST). Giá trị Đầu tư tài chính ngắn hạn được ghi nhận tại thời điểm 30/06/2011 là giá trị được ghi nhận chuyển tiếp từ năm 2010 chuyển sang, và đã thấp hơn giá trị được ghi nhận tại thời điểm 31/12/2010 do PIST đã thu hồi một số khoản cho vay trong năm 2010.
Trong thực tế, khoản ghi khống tạo ra sự chênh lệch giữa hai số liệu được ghi nhận tại các thời điểm 30/6/2011 và 31/12/2011 khoảng 33,9 tỷ đồng (thời điểm 30/06/2011: 11,634 tỷ; thời điểm 31/12/2011: 45,5 tỷ đồng), chính là để che dấu cho các khoản lỗ do phải trả lãi vay cho Công ty cổ phần Tài chính Điện lực như sau:
1. Trong năm 2010:
- Trả lãi cho khoản vay 60 tỷ đồng: 3.519.099.058 đồng;
- Trả lãi cho khoản vay 200 tỷ đồng: 1.411.746.167 đồng.
2. Trong năm 2011:
- Trả lãi cho khoản vay 200 tỷ đồng: khoảng 29.000.000.000 đồng.
Cụ thể sai phạm như sau:
9/2/1. Nội dung phụ lục 7: Báo cáo tài chính năm 2010:
Mục 120: Đầu tư tài chính ngắn hạn: 22.515.450.033 đồng.
9/2/2. Nội dung phụ lục 8: Báo cáo tài chính 06 tháng năm 2011:
Mục 120: Đầu tư tài chính ngắn hạn: 11.634.380.779 đồng.
9/2/3. Nội dung phụ lục 9: Báo cáo tài chính năm 2011:
Mục 121: Đầu tư tài chính ngắn hạn: 45.500.000.000 đồng.
9/3. Hạch toán hàng tồn kho không đúng sự thật và không đúng theo quy định của pháp luật về chế độ hạch toán kế toán nhằm che dấu việc tham nhũng và làm thất thoát tài sản Nhà nước:
Nhằm mục đích che dấu những hoạt động mua bán, đầu tư thua lỗ và nhiều khuất tất trong thời gian qua, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã cố ý thực hiện hành vi vi phạm pháp luật khi ghi nhận nhiều giá trị tồn kho ảo tại khoản mục: Hàng tồn kho rất lớn trái quy định của pháp luật Nhà nước về hạch toán kế toán trong các Báo cáo tài chính định kỳ, cụ thể như sau:
1. Ghi nhận toàn bộ giá trị đã đền bù tại Dự án Cồn Khương – Cần Thơ: trong thực tế, số tiền này được đền bù cho Dự án của Công ty TNHH Nam Long.
2. Ghi nhận toàn bộ giá trị đã thanh toán cho Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang: thực tế Công ty PIST mới chỉ nhận được 12.129,2 m2 đất nông nghiệp từ HTX Hà Quang, số diện tích đất còn lại dự kiến nhận từ HTX Hà Quang hoàn toàn không có giá trị pháp lý.
3. Ghi nhận toàn bộ giá trị tạm ứng cho Ban quản lý phát triển Phú Quốc: chưa được giao đất.
4. Ghi nhận toàn bộ giá trị tạm ứng đền bù, giải tỏa cho dự án Ninh Thuận: dự án này chưa được giao đất, do Công ty PIST không đáp ứng được các yêu cầu về nộp tiền sử dụng đất và có khả năng lớn bị UBND tỉnh Ninh Thuận thu hồi dự án vì triển khai chậm tiến độ.
5. Ghi nhận chi phí lập dự án, chi phí thiết kế cho dự án Ninh Thuận.
6. Ghi nhận chi phí lập dự án, chi phí thiết kế cho dự án Khách sạn Điện lực Đà lạt.
7. Ghi nhận chi phí lập dự án, chi phí thiết kế cho dự án Khu nghỉ dưỡng Phú Quốc.
8. Ghi nhận chi phí lập dự án, chi phí thiết kế cho dự án 16 Âu Cơ, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh.
9/3/1. Nội dung phụ lục 7: Báo cáo tài chính năm 2010:
Bảng cân đối kế toán: Mục 140: Hàng tồn kho: 312.936.505.290 đồng.
9/3/2. Nội dung phụ lục 8: Báo cáo tài chính 06 tháng năm 2011:
Bảng cân đối kế toán: Mục 140: Hàng tồn kho: 346.442.417.586 đồng.
9/3/3. Nội dung phụ lục 9: Báo cáo tài chính năm 2011:
Bảng cân đối kế toán: Mục 141: Hàng tồn kho: 326.793.245.433 đồng.
III. PHẦN III: KẾT LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG VÀ NHỮNG SAI PHẠM TẠI CÔNG TY PIST:
1. Kết luận về hoạt động của Công ty PIST từ ngày thành lập đến nay:
Chỉ cần căn cứ vào các Báo cáo công khai do Ban lãnh đạo Công ty PIST có thể nhận xét về hoạt động của Công ty PIST trong thời gian qua như sau:
1/1. Đồng loạt mua nhiều tài sản chỉ với mục đích chỉ để sử dụng hết nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước và nguồn vốn của cán bộ công nhân viên ngành Điện, hoàn toàn không phải để kinh doanh:
Được chứng minh thông qua việc Ban lãnh đạo Công ty PIST chỉ quyết định mua lại các tài sản tại các dự án ở trong tình trạng như sau:
1. Đã kinh doanh thua lỗ lớn: như tài sản Công viên nước Cần Thơ.
2. Nhiều sai phạm và tai tiếng: như Dự án HTX Hà Quang, Dự án Công viên nước Cần Thơ.
3. Biết chắc sẽ lỗ lớn khi bán: như Dự án Hoàng Tâm 1 – Cà Mau, Dự án khu nhà vườn Cồn Khương – Cần Thơ.
4. Để xóa dấu vết sai phạm: như Dự án 16 Âu Cơ, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh.
5. Có thể tạo điều kiện tư lợi cá nhân: như dự án Chung cư An Dương Vương – Điện lực, phường 16, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh.
Thông qua các Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh hàng năm do Ban lãnh đạo Công ty PIST công bố hàng năm, càng chứng minh rõ việc này: ngoài một sốt ít căn hộ của Dự án chung cư phường 16, Quận 8 đã bán được, một phần Dự án 16 Âu Cơ đã chuyển nhượng ngược lại cho Tổng Công ty Điện lực Miền Nam, toàn bộ các tài sản còn lại đều không bán được; Đồng thời, trong tương lai, trong trường hợp có bán được cũng chắc chắn sẽ thua lỗ lớ, do giá mua cao hơn giá bán.
1/2. Tình hình kinh doanh trong năm 2011 thua lỗ lớn, dự kiến trong năm 2012 thua lỗ lớn hơn:
Thông qua Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2011 và Báo cáo tài chính năm 2011, do Ban lãnh đạo Công ty PIST, hoàn toàn có thể xác định được:
1. Trong năm 2011: Công ty PIST lỗ ít nhất 26 tỷ đồng.
2. Trong năm 2012: Căn cứ vào Kế hoạch năm 2012 (tham khảo phụ lục 6: trang 11, Báo cáo tình hình hoạt động 2011 của PIST): dự kiến PIST sẽ thua lỗ ít nhất tương đương năm 2011.
3. Lưu ý: Trong kế hoạch 2012, Ban lãnh đạo Công ty PIST dự kiến tổng doanh thu là: 180 tỷ đồng, trong đó dự kiến doanh thu từ hoạt động kinh doanh bất động sản là: 115 tỷ đồng; Trong khi đó khoản tiền vay gốc phải thanh toán cho Công ty cổ phần tài chính Điện lực trong năm 2012 của PIST là: 200 tỷ đồng. Như vậy, Ban lãnh đạo Công ty PIST đã tự thú nhận về việc không có khả năng để thanh toán khoản tiền vay này.
1/3. Khả năng phá sản là hoàn toàn hiện thực:
Chỉ tính riêng trong 02 năm: 2011 và 2012, trong điều kiện kinh doanh tốt nhất và khả năng tài chính còn tương đối ổn định, Công ty PIST sẽ thua lỗ, làm mất vốn của Nhà nước khoảng 52 tỷ đồng.
Đối với các tài sản dở dang của Công ty PIST hiện có hiện nay, trong tương lai, khả năng bán được, theo tình hình chung của toàn thị trường, khả năng thu hồi vốn đạt không thể cao hơn 50% số vốn đã bỏ ra.
Như vậy, cùng với khoản lãi vay mà hoạt động SXKD không thể tự thanh toán được, khoản tiền vay gốc 200 tỷ đồng của Công ty Tài chính điện lực không có khả năng thanh toán, khả năng tiêu thụ hàng tồn kho rất kém, một số chi phí được ghi nhận trái pháp luật là hàng tồn kho như: chi phí lập dự án, chi phí thiết kế sẽ hoàn toàn mất trắng khi PIST không còn khả năng thực hiện tiếp dự án; Có thể kết luận chắc chắn rằng khả năng Công ty PIST phá sản trong một tương lai gần là khả năng hoàn toàn hiện thực.
2. Những sai phạm tại Công ty PIST:
Ban lãnh đạo Công ty PIST trong thời gian qua đã có những sai phạm như sau:
1. Câu kết với tư nhân, để tư nhân lợi dụng nguồn vốn thuộc sở hữu Nhà nước để trục lợi.
2. Mua các tài sản không đảm bảo tính pháp lý, không có khả năng thu hồi vốn, làm thất thoát tài sản của Nhà nước.
3. Che dấu sai phạm làm mất vốn Nhà nước của Công ty cổ phần xây lắp Điện.
4. Mua các tài sản với giá cao hơn nhiều so với giá thị trường, có nhiều biểu hiện của việc gửi giá, tham nhũng.
5. Sai phạm nghiêm trọng trong việc quản lý, sử dụng vốn Nhà nước, Luật Đấu thầu.
6. Giao cho người thân thực hiện dự án, vi phạm nghiêm trọng Luật Phòng chống tham nhũng.
IV. PHẦN IV: KIẾN NGHỊ:
Kính thưa Cụ.
Trước tình hình Công ty PIST hiện nay, chúng tôi kinh kiến nghị với Cụ giúp chúng tôi như sau:
1. Kiểm tra, xác minh làm rõ mối quan hệ khuất tất giữa 03 doanh nghiệp: Công ty cổ phần Đầu tư Thương mại Dịch vụ Điện lực với Công ty TNHH Nam Long và Tổng Công ty xây dựng số 1: trong các Dự án:
1/1. Dự án Công viên nước Cần Thơ:
Nội dung các sai phạm thể hiện rõ trong các hồ sơ:
- Hồ sơ chào bán và đấu giá tài sản Công viên nước Cần Thơ đang lưu giữ tại Tổng Công ty xây dựng số 1.
- Hồ sơ liên quan đến Hợp đồng mua tài sản Công viên nước Cần Thơ, các văn bản trao đổi, các biên bản họp giữa Ban lãnh đạo Công ty PIST và Công ty TNHH Nam Long, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST và Công ty TNHH Nam Long – Cần Thơ.
1/2. Dự án Khu chung cư An Dương Vương – Điện lực, phường 16, Quận 8, Tp. Hồ Chí Minh:
Nội dung sai phạm thể hiện rõ trong các hồ sơ:
- Hồ sơ mời thầu, xét thầu, ký kết hợp đồng xây lắp giữa Tổng công ty xây dựng số 1 và Công ty PIST, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST.
- Hồ sơ giao nhiệm vụ tổng thầu xây lắp của Tổng công ty xây dựng số 1 cho Công ty cổ phần xây dựng số 1 – Việt Quang, hiện đang lưu giữ tại CC1 và CC1 – Việt Quang;
- Hồ sơ xử lý và thanh toán khối lượng phát sinh, hồ sơ quản lý công trình chung cư An Dương Vương Điện lực, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST và CC1 – Việt Quang.
1/3. Dự án Khu nhà vườn Cồn Khương – Tp. Cần Thơ:
Nội dung sai phạm thể hiện rõ trong các hồ sơ:
- Hợp đồng liên kết giữa Công ty PIST và Công ty TNHH Nam Long, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST và Công ty TNHH Nam Long.
- Các văn bản trao đổi, các biên bản họp giữa Công ty PIST và Công ty TNHH Nam Long, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST và Công ty TNHH Nam Long.
2. Kiểm tra, xác minh làm rõ mối quan hệ khuất tất giữa Ban lãnh đạo Công ty PIST và Hợp tác xã nuôi trồng thủy sản Hà Quang:
Hồ sơ mua bán đất giữa PIST và HTX Hà Quang:
Nội dung sai phạm thể hiện rõ trong các hồ sơ:
- Hợp đồng mua bán đất giữa Công ty PIST và HTX Hà Quang, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST và HTX Hà Quang.
- Các văn bản trao đổi, các biên bản họp giữa Công ty PIST và HTX Hà Quang, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST và HTX Hà Quang.
3. Kiểm tra, xác minh làm rõ mối quan hệ khuất tất giữa Ban lãnh đạo Công ty PIST và Tổng Công ty Điện lực Miền Nam:
3/1. Vụ việc sáp nhập Công ty cổ phần xây lắp Điện:
Nội dung sai phạm thể hiện rõ trong các hồ sơ:
- Hồ sơ thành lập, hoạt động và giải thể Công ty cổ phần xây lắp Điện, hiện đang lưu giữ tại Tổng Công ty Điện lực Miền Nam và Công ty PIST.
- Hồ sơ quyết toán và sáp nhập Công ty cổ phần xây lắp Điện, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST.
- Các văn bản trao đổi, các biên bản họp giữa Ban lãnh đạo Công ty PIST và Tổng công ty Điện lực Miền Nam, hiện đang lưu giữ tại Tổng Công ty Điện lực Miền Nam và Công ty PIST.
3/2. Dự án 16 Âu Cơ, phường Tân Sơn Nhì, Quận Tân Phú, Tp. Hồ Chí Minh:
Nội dung sai phạm thể hiện rõ trong các hồ sơ:
- Hồ sơ chuyển nhượng phần cao ốc văn phòng trong Dự án cho Tổng Công ty Điện lực Miền Nam, hiện đang lưu giữ tại Tổng Công ty Điện lực Miền Nam và Công ty PIST.
- Hợp đồng chuyển nhượng, hiện đang lưu giữ tại Tổng Công ty Điện lực Miền Nam và Công ty PIST.
3. Kiểm tra, xác minh làm rõ những sai phạm trong các Hợp đồng tư vấn:
Nội dung sai phạm thể hiện rõ trong các hồ sơ:
- Hợp đồng tư vấn trình xin giao quyền sử dụng căn nhà số 5/11 Nguyễn Siêu cho Công ty PIST ký giữa Công ty TNHH Hà Gia và Khách sạn Du lịch Điện lực (theo ủy quyền của Tổng giám đốc PIST): Hợp đồng này có dấu hiệu gửi giá và tham nhũng với tỷ trọng lớn, hiện đang lưu giữ tại Công ty PIST và Công ty TNHH Hà Gia.
- Hợp đồng tư vấn thay đổi công năng Dự án Công viên nước Cần Thơ.
- Hợp đồng tư vấn thủ tục các Dự án tại Huyện Củ Chi.
- Hợp đồng tư vấn thiết kế Dự án phường 16, Quận 8 với Công ty cổ phần 584.1.
- Hợp đồng tư vấn thiết kế Dự án 16 Âu Cơ, Quận Tân Phú với Công ty TNHH thiết kế xây dựng Hồng Ngọc Gia.
- Hợp đồng tư vấn thiết kế Dự án 16 Âu Cơ, Quận Tân Phú với Công ty cổ phần Archipel .
4. Kiểm tra, xác minh làm rõ những thiệt hại do Ban lãnh đạo Công ty PIST đã gây ra tài sản của Nhà nước, của người lao động trong ngành điện có cổ phần trong Công ty PIST.
5. Làm rõ những hành vi cố ý làm trái, cũng như hành vi tham nhũng của từng cá nhân trong Ban lãnh đạo Công ty PIST .

CỔ ĐÔNG CÔNG TY PIST

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001