Có thể nói, không một công chức Việt Nam XHCN nào từng được cầm trong tay một tháng lương đúng với nghĩa của nó. Các thế hệ chiến tranh đã đành. Nhưng với các thế hệ sau này mà vẫn thế thì thật phi lý quá (!?). Nhưng đồng thời cũng có một thực tế vô lý hơn thế. Đó là hầu hết công chức Việt Nam đều có mức sống cao hơn so với mặt bằng xã hội, rất nhiều người giàu có đến mức khiến các đồng nghiệp của họ bên Trung Quốc và một vài nước ASEAN phải ghen tị! Vì sao vậy?
Khi
đồng lương không đủ sống, tham nhũng trở thành lối sống.
Cái
lý mà các nhà lãnh đạo đất nước này vẫn dùng để giải thích vì sao chưa thể cấp
đủ lương công chức là "Đất nước ta còn nghèo". Nhưng chẳng lẽ họ không biết
rằng nhiều nước khác nghèo hơn mà vẫn trả lương đầy đủ cho công chức của họ?
Ngay bản thân Việt Nam thời phong kiến nghèo hơn bây giờ nhiều vẫn trả đủ lương
công chức đấy thôi! Thật khó hiểu vì sao cái lý do vô lý đó vẫn tồn tại đến
tận bây giờ khi đất nước đã chính thức xếp hạng trung bình thế giới.
Có thể đó chỉ là một phép tính sai lúc đầu do lối tư duy tiểu nông muốn "rẻ mà tốt"(?) Nhưng kinh nghiệm của hơn 1/2 thế kỉ chẳng lẽ chưa đủ họ để nhận ra rằng cắt xén tiền lương công nhân viên chức là biện pháp hửu hiệu nhất để phá hỏng tận gốc rể một hệ thống công quyền, đơn giản là vì đội quân công chức “thiếu đói” sẽ tìm mọi cách để “bù đắp” lại phần lương còn thiếu của họ?. Thật ra, tệ nạn tham nhũng đã có mầm mống từ thời bao cấp khi đồng lương của cán bộ công nhân viên chức (tức là toàn bộ những người làm công ăn lương nhà nước) được trả bằng 2 phần: tiền mặt và hiện vật. Nhưng không phải ai cũng có nhu cầu sử dụng các đồ vật giống nhau nên người ta đem ra đổi chác, nhượng, bán vòng vo . Hình thái “chợ đen” đã ra đời từ đó. Tệ nạn ăn cắp sản phẩm , nguyên vật liệu từ các cơ sở sản xuất tuồn ra chợ đen cũng bắt đầu từ đó. Bệnh "làm láo báo, cáo hay" và nhiều thói hư tật xấu cũng bắt đầu từ đó.
Khi những sai lầm trong chính sách giá-lương-tiền bắt đầu từ cuối những năm 1970 đã dẫn đến tình trạng lạm phát phi mã kéo dài. Đó là một thời kỳ chuyển tiếp đầy kịch tính khi tem phiếu bị cắt bỏ chỉ còn lại đồng lương đang mất hết giá trị thực. Tình huống bắt buộc mọi cán bộ công nhân viên phải nhao ra đường kiếm sống. Giáo viên trốn giờ chính khóa để đi dạy thêm; y bác sĩ bán thuốc lậu hoặc vòi tiền bệnh nhân; cảnh sát trở thành “anh hùng núp” tìm người phạt vạ; nhân viên công sở cũng không kém cạnh với nhiều chiêu kiếm tiền, kể cả buôn lậu, thông đồng, câu kết, v.v… Nghĩa là Toàn bộ hệ thống các cơ quan công sở nhà nước từ trung ương xuống địa phương, các đơn vị sản xuất cũng như phi sản xuất, từ dân sự đến các lược lượng vũ trang, đều tập trung lo “cơm áo gạo tiền”. Cái gọi là "ba lợi ích"(cá nhân - tập thể - nhà nước) đã ra đời từ đó. Trên danh nghĩa đơn vị xí nghiệp, cơ quan sẵn quyền hạn và cơ sở vật chất trong tay mà “làm ba lợi ích” thì thôi rồi Lượm ơi! Nói là “ba lợi ich” nhưng người ta chỉ nhằm vào lợi ích cá nhân là chính, lấy lợi ích tập thể làm bình phong che chắn để câu kết, thông đồng cùng nhau "rút ruột" từ lợi ích nhà nước. Nói cách khác, mọi hành vi , tham ô, lãng phí,thậm chí tham nhũng dưới cái tên mĩ miều "tập thể" đều trở nên sạch sẻ, khó phát hiện, phát hiện rồi cũng khó mà xử lý. Khi đem ra kiểm điểm báo cáo, chúng được gọi bằng cái tên chung là "tiêu cực". Ranh giới giữa tiêu cực và thành tích chỉ khác nhau ở cách diễn gải, nào là "góp phần cải thiện đời sống", "tinh thần vượt khó khăn" , "lá lành đùm lá rách", bla, bla.... Vậy là êm thấm cả làng.
Có thể đó chỉ là một phép tính sai lúc đầu do lối tư duy tiểu nông muốn "rẻ mà tốt"(?) Nhưng kinh nghiệm của hơn 1/2 thế kỉ chẳng lẽ chưa đủ họ để nhận ra rằng cắt xén tiền lương công nhân viên chức là biện pháp hửu hiệu nhất để phá hỏng tận gốc rể một hệ thống công quyền, đơn giản là vì đội quân công chức “thiếu đói” sẽ tìm mọi cách để “bù đắp” lại phần lương còn thiếu của họ?. Thật ra, tệ nạn tham nhũng đã có mầm mống từ thời bao cấp khi đồng lương của cán bộ công nhân viên chức (tức là toàn bộ những người làm công ăn lương nhà nước) được trả bằng 2 phần: tiền mặt và hiện vật. Nhưng không phải ai cũng có nhu cầu sử dụng các đồ vật giống nhau nên người ta đem ra đổi chác, nhượng, bán vòng vo . Hình thái “chợ đen” đã ra đời từ đó. Tệ nạn ăn cắp sản phẩm , nguyên vật liệu từ các cơ sở sản xuất tuồn ra chợ đen cũng bắt đầu từ đó. Bệnh "làm láo báo, cáo hay" và nhiều thói hư tật xấu cũng bắt đầu từ đó.
Khi những sai lầm trong chính sách giá-lương-tiền bắt đầu từ cuối những năm 1970 đã dẫn đến tình trạng lạm phát phi mã kéo dài. Đó là một thời kỳ chuyển tiếp đầy kịch tính khi tem phiếu bị cắt bỏ chỉ còn lại đồng lương đang mất hết giá trị thực. Tình huống bắt buộc mọi cán bộ công nhân viên phải nhao ra đường kiếm sống. Giáo viên trốn giờ chính khóa để đi dạy thêm; y bác sĩ bán thuốc lậu hoặc vòi tiền bệnh nhân; cảnh sát trở thành “anh hùng núp” tìm người phạt vạ; nhân viên công sở cũng không kém cạnh với nhiều chiêu kiếm tiền, kể cả buôn lậu, thông đồng, câu kết, v.v… Nghĩa là Toàn bộ hệ thống các cơ quan công sở nhà nước từ trung ương xuống địa phương, các đơn vị sản xuất cũng như phi sản xuất, từ dân sự đến các lược lượng vũ trang, đều tập trung lo “cơm áo gạo tiền”. Cái gọi là "ba lợi ích"(cá nhân - tập thể - nhà nước) đã ra đời từ đó. Trên danh nghĩa đơn vị xí nghiệp, cơ quan sẵn quyền hạn và cơ sở vật chất trong tay mà “làm ba lợi ích” thì thôi rồi Lượm ơi! Nói là “ba lợi ich” nhưng người ta chỉ nhằm vào lợi ích cá nhân là chính, lấy lợi ích tập thể làm bình phong che chắn để câu kết, thông đồng cùng nhau "rút ruột" từ lợi ích nhà nước. Nói cách khác, mọi hành vi , tham ô, lãng phí,thậm chí tham nhũng dưới cái tên mĩ miều "tập thể" đều trở nên sạch sẻ, khó phát hiện, phát hiện rồi cũng khó mà xử lý. Khi đem ra kiểm điểm báo cáo, chúng được gọi bằng cái tên chung là "tiêu cực". Ranh giới giữa tiêu cực và thành tích chỉ khác nhau ở cách diễn gải, nào là "góp phần cải thiện đời sống", "tinh thần vượt khó khăn" , "lá lành đùm lá rách", bla, bla.... Vậy là êm thấm cả làng.
Trong
bổi cảnh cùng quẩn của đất nước, cái gọi là “đổi mới” đã ra đời như một cứu
cánh (chứ có "sáng suốt" gì đâu?). Và nó đã giúp tránh được một sự sụp đổ. Nhưng
đáng tiếc, không hiểu vì lý do gì, nó vẫn không hề đụng chạm đến chế độ tiền
lương không đủ sống - một trong những nguyên nhân sâu xa của tham nhũng tập thể
ở đất nước giàu truyền thống đoàn kết chiến đấu này cho đến tận ngày hôm nay(?).
Chỉ khác là khi nguồn của cải vật chất và vốn nước ngoài đổ vào ngày càng nhiều
đã tao ra nhiều cơ hội mới cho tham nhũng lan tràn và ăn sâu bám rể hơn bất cứ
thời kỳ nào. Đây là thời kỳ mà “chùm khế ngọt” bị nhiều bên thi nhau trèo hái
hàng ngày. Bọn họ có thể là cán bộ công nhân viên chức, có thể là dân thường,
cũng có thể là bên đối tác nước ngoài v,v… Không chỉ những kẻ có chức quyền, mà
ngay cả những người lái xe tải hoặc người gác rừng, thủ kho, đầu bếp, v.v… cũng
đều có cơ hội. Dĩ nhiên ai có nhiều lợi thế hơn sẽ gặt hái được nhiều hơn. Đó
là một thời nhộn nhạo tranh tối tranh sáng vô cùng thuận lợi cho các loại tội
phạm từ ăn cắp vặt đến tham nhũng có tổ chức. Thời đó thậm chí đã xuất hiện một
cách biện hộ nực cười rằng tham nhũng giúp rút ngắn quá trình tích lũy tư
bản(!?)
Quá
trình phân hóa giàu nghèo thực sự đã bắt đầu từ đó. Trong khi đại bộ phận dân
chúng và công chức cam chịu và chờ đợi, số còn lại chớp cơ hội và nhanh chóng
giàu lên, thậm chí có vốn để đầu tư vào những hoạt động sinh lời đang được nhà
nước khuyến khích. Một số lặng lẽ chuyển sang khu vực tư nhân trong khi số ở lại
trở thành “doanh nhân nhà nước”, và họ tạo thành những thế lực mới trong nền
“kinh tế thị trường theo định hướng XHCN” mà trong đó việc câu kết, thông đồng
giữa họ với nhau trở nên càng thuận tiện. Các dự án đầu tư, đặc biệt các dự án
có vốn nước ngoài và lĩnh vực đất đai-bất động sản là những lựa chọn béo bỡ
nhất.
Đến
nay tệ nạn tham nhũng không chỉ dừng lại ở mức độ ăn cắp vặt hay tham ô tập thể,
mà đã trở thành những thế lực ngầm chi phối đời sống chính trị-kinh tế-xã hội
của đất nước bằng các thủ đoạn thông đồng câu kết đan xen vô cùng tinh vi, phức
tạp.
Tham
nhũng tập thể muôn năm!
Tệ
nạn tham nhũng ở Việt Nam mang một đặc thù khác với tệ nạn tham nhũng trên thế
giới, đó là “tham nhũng tập thể”. Nó hiện diện ở mọi nơi từ công sở đến các
đơn vị sản xuất và cả các lực lượng vũ trang, ở tất cả các cấp độ từ TW xuống
địa phương. Nó vừa là ”nguồn sống” của tất cả những người làm công ăn lương nhà
nước, vừa là hậu cứ của các thế lực tham nhũng xuyên quốc gia. Nó không chỉ được
tập thể che chở mà còn được nhà nước "thể chế hóa" bằng các quy định hoặc luật
lệ bất thành văn. Cái gọi là phần “mềm” đã từ lâu là một bộ phận cấu thành tiền
lương công chức, và thực chất đó là phần “lậu” đã được hợp thức hóa. Nó quen
thuộc đến nỗi không còn ai thấy đó là sai trái. Mới đây một vị phó GĐ trong 3 dự
án bị nhà tài trợ Đan Mạch nghi tham nhũng đã thản nhiên biện bạch một cách trơn
tuột rằng “Cán bộ khoa học hiện
nay không thể sống bằng lương được, vì thế khi có dự án thì họ phải làm thêm
thông qua các hợp đồng này. Bản thân tôi cũng nhận hai khoản, một là lương của
viện, một là khoản “bù lương” mà phía Đan Mạch đã chấp thuận là 300 đôla/tháng,
chứ không phải hai lương như kiểm toán nói” (theo BáoTT ngày 3/6/2012).
Nhưng không chỉ có vậy; một khi đã chấp nhận “bù lương” thì bù bao nhiêu, bù như
thế nào chỉ là câu chuyện của sợi cao su co giản! Đó là lý do tại sao cán bộ
công chức thích "làm dự án".
Nhưng
cũng không chỉ có dự án, mà làm nghề gì ăn nghề đó! Hải quan, thuế vụ, công an
hoặc bất cứ ngành nào có nguồn thu cho ngân sách đều được phép “trích %” từ
nguồn thu để bù vào lương; chính quyền phường xã ăn từ đất; dân hành chính bàn
giấy cũng có cách ăn từ công
văn, giấy
tờ , v.v... . Quan nhỏ ăn nhỏ, quan to ăn to, rào rào như tằm ăn tơ vậy!
Xem
cái cách ăn của Vinashin,Vinalines sẽ thấy họ không chỉ ăn mà phá nhiều hơn cả
phần ăn!
Có lẽ không nước nào trên thế giới lại có quy chế cho phép các cơ quan công
quyền được “làm 3 lợi ích”, "làm kinh tế" như Việt Nam. Đó là những quy chế
không bình thường và chúng là nguyên nhân gây ra tệ nạn tham nhũng tập thể, một
loại hình tham nhũng rất khó chống. Qua cung cách của những vụ tham nhũng phát
lộ gần đây cho thấy hầu hết thủ phạm đầu sỏ đều đã trưởng thành từ tập thể, được
tập thể tán thưởng và đề bạt. Nói cách khác bọn họ đều có một võ bọc của những
tập thể quần chúng và tập thể lãnh đạo nào đó; họ không đơn độc.
Vòng luẩn quẩn lương-lậu
Vẫn
biết có nhiều nguyên nhân dẫn đến tham nhũng. Nhưng trong trường hợp Việt Nam
không thể không tính đến nguyên nhân tiền lương không đủ sống kéo dài hơn 1/2
thế kỷ đủ lâu để làm băng hoại cả một bộ máy công quyền khiến nhà nước phải
liên tục tăng thêm biên chế nhưng không bao giờ có thể hoàn thành nhiệm vụ.
Biên chế ngày càng phình to mất cân đối so với quỹ lương lương ắt dấn đến tình
trang lương vốn đã thấp ngày càng thấp hơn. Ước tính, đội ngũ công chức cả nước
hiện nay đã tăng lên mức 2 triệu người trong tổng số 6 triệu người người ăn
lương nhà nước (kể cả bộ đội và người về hưu).
Tức là cứ 45 người có một công chức, và cứ 15 người có một người ăn lương nhà
nước. Đây là tỷ lệ cao nhất thế giới thì phải (?). Nhưng lương nào có ra lương!
Giá trị đồng lương thực tế liên tục giảm. Ví dụ lương tháng tối thiểu năm 1960
tuy chỉ khoản 15 đồng nhưng có thể mua được gần 2 chỉ vàng, cộng các khoản phụ
cấp, người nhận lương vẫn nuôi sống được gia đình ở mức đạm bạc; trong khi lương
tối thiểu năm 2012 là 1.050.000 đồng chỉ mua được 1/4 chỉ vàng, và chỉ nuôi
sống bản thân trong vòng 1-2 tuần lễ. Cách so sánh đơn giản này cũng cho thấy
tình trạng tương tự đối với các cấp độ lương cao hơn. Mức độ chênh lệch giữa các
bậc lương chính thức không nhiều , ví dụ lương những người lãnh đạo cao nhất
quảng 13 triêu đồng, tức gấp 12 lần lương tối thiểu. Nhưng
mức chệnh lệch trong thu nhập thực tế thì vô cùng lớn, vì các cấp càng cao càng
có nhiều khoản trợ cấp với giá trị gấp hàng trăm lần lương, đặc biệt, chúng được
áp dụng một cách không minh bạch, rõ ràng. Thử
hỏi cán bộ công chức và toàn bộ khối những người làm công ăn lương làm cách gì
để có thể duy trì cuộc sống của họ nếu không tham nhũng?
Để "bù lương" cho toàn bộ đội ngũ công chức "sống được", quỹ lương thực sự của nhà nước ắt phải gấp nhiều lần quỹ lương công khai . Trên thực tế, đa số công chức Việt Nam thường có thu nhập thực tế cao hơn hàng chục lần lương chính thức. Điều này có nghĩa, theo quy luật tổng giá trị tài sản quốc gia không đổi, một giá trị tài sản nhà nước khổng lồ thường xuyên bị thất thoát. Đó là chưa kể những giá trị vô hình bị mất đi do hậu quả của cả quá trình tham nhũng gây ra như chất lượng công trình kém và nhiều dạng lãng phí, v.v.... Tóm lại, 3 nhân tố công chức, tiền lương và tham nhũng luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một vòng luẩn quẩn theo hình xoáy trôn ốc, trong đó quy mô và mức độ tham nhũng của thời kỳ sau bao giờ cũng lớn hơn thời kỳ trước. Đó là lý do tại sao quỹ lương không bao giờ đủ để chi trả cho một biên chế ngày càng phình to.Tuyệt đối không phải là do đất nước nghèo mà do tham nhũng làm nghèo đất nước!
Để "bù lương" cho toàn bộ đội ngũ công chức "sống được", quỹ lương thực sự của nhà nước ắt phải gấp nhiều lần quỹ lương công khai . Trên thực tế, đa số công chức Việt Nam thường có thu nhập thực tế cao hơn hàng chục lần lương chính thức. Điều này có nghĩa, theo quy luật tổng giá trị tài sản quốc gia không đổi, một giá trị tài sản nhà nước khổng lồ thường xuyên bị thất thoát. Đó là chưa kể những giá trị vô hình bị mất đi do hậu quả của cả quá trình tham nhũng gây ra như chất lượng công trình kém và nhiều dạng lãng phí, v.v.... Tóm lại, 3 nhân tố công chức, tiền lương và tham nhũng luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau trong một vòng luẩn quẩn theo hình xoáy trôn ốc, trong đó quy mô và mức độ tham nhũng của thời kỳ sau bao giờ cũng lớn hơn thời kỳ trước. Đó là lý do tại sao quỹ lương không bao giờ đủ để chi trả cho một biên chế ngày càng phình to.Tuyệt đối không phải là do đất nước nghèo mà do tham nhũng làm nghèo đất nước!
Hết
phương cứu chữa hay không muốn cứu chữa?
Do
đã quá quen chung sống với tệ nan tham nhũng, người dân nói chung và bộ phận
công chức bình thường tỏ ra thờ ơ hoặc bất lực trước vấn nạn tham nhũng. Nhưng
đồng thời có một bộ phận công chức, kể cả ở cấp cao, không thật sự thấy cần thay
đổi chế độ tiền lương không đủ sống, vì họ muốn tiếp tục lợi dụng các kẻ hở của
chế độ hiện hành để kéo dài cơ hội tham nhũng. Họ thậm chí cố tình ngăn chặn
tiến trình cải cách. Giả thiết này tỏ ra có lý đối với những quan chức đang nắm
giữ những nguồn tài sản công béo bở hoặc những cương vị mà kẻ khác phải tìm đến
để cống nạp.Những nhóm người này thường có khả năng tự tung tự tác trong các vụ
tham nhũng trị giá tiền nghìn tỷ như PMU 18, Năm Cam, Hành lang Đông Tây,
Vinashin,Vinalines và hàng loạt vu việc đang bị nghi vấn khác. Giả thiết trên
cũng đúng trước thực tế ngày càng nhiều người mua quan bấn chức. Chưa bao giờ
chức vụ lại trở nên “đắt giá” như bây giờ khi người ta sẵn sàng bỏ ra bạc tỷ để
mua một chức vụ đôi khi chỉ là cấp chủ tịch phường, xã , thậm chí chỉ là cấp
trưởng thôn. Họ làm vậy hoàn toàn không phải vì giá trị của đồng lương, mà vì
những món lợi kếch sù sẽ thu được khi ngồi vào chiếc ghế đó. Đó cũng là lý do
tại sao ở Việt Nam ngày nay không quan chức nào chịu từ chức dù kém cỏi hoặc mất
uy tín đến đâu đi nữa.
Chữa bệnh gì cũng phải chửa từ nguyên căn của nó. Chữa một mụn nhọt nếu chỉ bôi thuốc đỏ bên ngoài mà không nặn lấy hết cồi thì không bao giờ hết nhọt. Nếu chỉ kêu gọi “phê và tự phê”, thậm chí tìm diệt từng cá nhân tham nhũng thì không khác nào chỉ bóc một phần lớp da bên ngoài. Nói đến tham nhũng ở Việt Nam không thể bỏ qua đặc thù “tham nhũng tập thể”. Nói đến nguyên nhân tham nhũng không thể bỏ qua nguyên nhân của tình trạng lương không đủ sống kéo dài . Và càng sai lầm nếu cho rằng đến nay công chức vẫn sống được và sống tốt hơn trước nên chưa cần đặt ra vấn đề tăng lương!
Nếu
thật sự muốn chống tham nhũng
Vẫn
biết để giải quyết vấn nạn tham nhũng như hiện nay ở Việt Nam không thể làm
nhanh và triệt để trong một thời gian ngắn và bằng một số biện pháp đơn giản.
Nhưng trước hết cần có cách tiếp cận chủ động, tích cực và kiên quyết. Đó là
yếu tố quan trọng quyết định thành công. Giải pháp cụ thể xin nhường lại các nhà
chuyên môn, chuyên ngành. Song làm gì cũng không nên thiếu 4 nhóm biện pháp cơ
bản dưới đây.
a) Hoạch
định một lộ trình hoàn
chỉnh hợp
lý về cắt giảm biên chế song song với việc tăng lương, trong đó biên chế phải
được cắt giảm khoảng ½ so với hiện nay, đồng thời lương tối thiểu phải tăng
lên tương ứng nhằm đảm bảo mỗi cán bộ công chức có thể sống và góp phần (với
lương vợ hoặc chồng) nuôi sống gia đình của họ mà không phải làm việc thêm nào
khác. Mức lương đó phải đủ sức hấp dẫn khiến cho mỗi công chức phải chọn lựa
giữa lương hoặc mất chức do tham nhũng.
Thời gian biểu: không chậm hơn từ 3-4 năm.
b) Thiết
lập lại toàn bộ chế tài để đảm bảo rằng mọi công chức nếu vi phạm tham nhũng
hoặc không hoàn thành nhiệm vụ sẽ bị mất chức ngay lập tức, không thuyên chuyển
sang đơn vị khác. Bộ chế tài này cần có sự đồng thuận của công chức và của nhân
dân, và được Quốc hội phê chuẩn.
c) Chấp
nhận và áp dụng hình thức tham khảo ý kiến của người dân (public opinion poll)
và bỏ phiếu tín nhiệm (credit voting) đối với tất cả lãnh đạo và công chức trực
tiếp liên quan đến những người tham gia bỏ phiếu. Đây là hình thức hầu hết các
nước tiến bộ trên thế giới đã và đang làm, không có lý gì Việt Nam muốn cải cách
tiến bộ mà không áp dụng.
d) Chấp
nhận và thực hiện công khai minh bạch đối với 3 biện pháp nói trên cũng như
toàn bộ chủ trương chính sách và kế hoạch thực hiện. Đây là trách nhiệm của các
cấp đảng và chính quyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm đảm
bảo dư luận và mỗi cá nhân người lãnh đạo và công chức biết rõ về trách nhiệm,
quyền hạn và nghĩa vụ của mình. Trên cơ sở đó thực hiện tốt việc giám sát lẫn
nhau và giám sát của nhân dân.
Những điều trên đây nói là để nói thôi. Ai cũng biết và cũng nói "chống tham nhũng". Nhưng không biết ai chống ai đây? Liệu có ai chịu cầm búa ghè vào chân mình không nhĩ?
Những điều trên đây nói là để nói thôi. Ai cũng biết và cũng nói "chống tham nhũng". Nhưng không biết ai chống ai đây? Liệu có ai chịu cầm búa ghè vào chân mình không nhĩ?
(nguồn_blog_bachviet) http://trankinhnghi.blogspot.com/2012/06/gia-phap-nao-cho-van-nan-tham-nhung-o.html
---------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001