Thứ Tư, 18 tháng 7, 2012

Tiểu luận

75 Năm Câu Chuyện Tình Buồn: KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ T.T.Kh? -1

Đỗ Thế Cường

* Xuất xứ của câu chuyện về T.T.Kh:

Hoa tigôn có tên đầy đủ là Antigone do người Pháp đem sang VN những năm đầu thế kỷ 20.Loài hoa này không có hương thơm nhưng đẹp & đầy lãng mạn,là loài hoa dây leo,lá gần giống lá nho bông hoa có những cánh nhỏ ly ti xếp lại tựa như hình trái tim có ba màu trắng,hồng & màu đỏ.Hoa nở từ cuối mùa xuân cho đến độ cuối thu là thời gian đẹp nhất,rực rỡ nhất của loài hoa này dường như nó chợt “lóe sáng” như ngọn đèn sắp tắt để đến mùa đông chỉ còn lại những thân dây leo trông thật điêu tàn…Loài hoa quí phái này được trồng nhiều ở những gia đình khá giả tại các thành phố lớn như Hà Nội-Hải Phòng-Sài Gòn & kể cả ở những Thị trấn nhỏ…thời bấy giờ.

Vào tháng 7 năm 1937 tuần báo Tiểu thuyết thứ bảyHà Nội đăng truyện ngắn mang tên Hoa Tigôn của Nhà văn Thanh Châu,câu chuyện kể về một họa sỹ nghèo nhiều lần về làng Mọc để vẽ tranh phong cảnh,nhìn thấy rồi “tương tư” hình bóng một người con gái sáng nào cũng bắc ghế hái những cành tigôn trước cửa…Bẵng đi vài năm,trong một buổi tiệc của giới thượng lưu & quan chức chính quyền bảo hộ họ gặp lại & nhận ra nhau,nhưng bây giờ cô gái ngày xưa ấy đã trở thành mệnh phụ phu nhân của một ông đã luống tuổi,cuộc hôn nhân tuy môn đăng-hộ đối nhưng lại quá tẻ nhạt…từ đó họ hay qua lại thăm nhau,cùng nhau bình luận về những tác phẩm hội họa của chàng họa sỹ bây giờ đã trở nên nổi tiếng…Rồi đến một ngày,chàng họa sỹ trẻ năm nào nay cũng đã gần bước vào tuổi xế chiều nhận được một phong thư có ép một dây hoa tigôn báo tin người mà ông yêu đã qua đời & cũng từ đó người họa sỹ tài hoa ấy sống lặng lẽ một mình với những bức tranh,những hoài niệm đẹp về một mối tình đã không còn trở lại…Hai tháng sau ngày đăng truyện ngắn nói trên,giữa tháng 9 năm 1937 tòa soạn tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nhận được một bài thơ với nét chữ run run ký tên tác giả là T.T.Kh,đó là bài thơ Hai sắc hoa Tigôn được đăng báo ngày 23 tháng 9 năm 1937.Gần hai tháng sau,tòa soạn lại nhận được một bài thơ nữa cũng vẫn ký tên là T.T.Kh,bài thơ có tựa đề là Bài thơ thứ nhất dù đó là bài thơ thứ hai gửi đến tòa soạn! Bài thơ được đăng ngày 20 tháng 11 năm 1937.Bẵng đi một thời gian khá lâu tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy không còn nhận được thêm bài thơ nào từ thi sỹ có bút danh bí ẩn này,nhưng thật kỳ lạ là cũng trong quãng thời gian đó trên tuần báo Phụ nữ tân văn (Phụ nữ thời đàm-ở phố Hội Vũ-Hà Nội)lại xuất hiện bài thơ Bài thơ đan áo cũng ký tên T.T.Kh… Một năm sau,tòa soạn mới lại nhận được bài thơ có tựa đề Bài thơ cuối cùng ký tên tác giả vẫn là T.T.Kh & được đăng báo ngày 30 tháng 10 năm 1938,trong đó có nhắc đến Bài thơ đan áo nêu trên .Ba bài thơ gửi đến tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy nói lên niềm đau xé lòng về một mối tình ngang trái & đẫm lệ đã làm cho độc giả bàng hoàng sửng sốt,nhiều người trong số đó như tìm được hình ảnh,câu chuyện của chính cuộc đời mình bởi vì sống trong xã hội còn mang nặng tư tưởng “môn đăng- hộ đối” thì những chuyện tình trái ngang như thế là không hiếm gặp & cũng không có gì là khó hiểu…Nhưng đây lại là một trường hợp đặc biệt có thể nói không ngoa rằng:-Là độc nhất vô nhị trong Văn chương-Thi phú của nước nhà từ trước tới nay,bởi chưa từng có trường hợp nào mà ở “đằng sau” bút danh nhưng lại không ai biết được Tên thật của tác giả trong suốt hơn 70 năm qua…Trước khi đi tìm “ẩn số” T.T.Kh là ai? & ai thật sự là người yêu của T.T.Kh? Chúng ta cùng đọc lại những bài thơ bất hủ của Bà.(Lưu ý:-Ngày,tháng,năm của mỗi bài thơ là ngày đăng báo).


HAI SẮC HOA TIGÔN (T.T.Kh)

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương.
Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng:-“Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”.
Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp:”Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”.
Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá,Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường.
Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ.
Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người.
Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai.
Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi!Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng?

23-9-1937


BÀI THƠ THỨ NHẤT (T.T.Kh)

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sỹ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.
Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.
Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.
Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều.
Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.
Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.
Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
-“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.
Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.
Tuy thế tôi tin vẫn có người
Thiết tha theo đuổi nữa,than ôi
Biết đâu tôi một tâm hồn héo
Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi.

20-11-1937


BÀI THƠ ĐAN ÁO (T.T.Kh)

Chị ơi,nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương
Đã xa hẳn quãng đời hương
Đã đem lòng gửi gió sương mịt mùng
Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em
Vẫn còn giá lạnh trong tim
Đan đi đan lại áo len cho chồng
Con chim ai nhốt trong lồng
Hạt mưa nó rụng bên sông bơ thờ
Lưng trời nổi tiếng tiêu sơ
Hay đâu gió đã sang bờ ly tan
Tháng ngày miễn cưỡng em đan
Kéo dài một chiếc áo lam cho chồng
Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời
Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.

16-8- 1938.

BÀI THƠ CUỐI CÙNG (T.T.Kh)

Anh hỡi,tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu.
Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?
Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp thiên hạ thóc mách xem
Là giết đời nhau đấy biết không?
Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung
Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.
Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.
Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời.
Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi,làm sao tối thế này?
Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
Mà người vỡ lở duyên thầm kín
Lại chính là anh,anh của em.
Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh,có một người…

30-10-1938.

*Đôi lời cùng Bạn đọc:

Năm 1994 có người đã vô tình tiết lộ với tác giả Thế Nhật một thông tin “mật” về T.T.Kh ngoài đời thực.Dựa vào đó ông Thế Nhật đã viết thành một cuốn sách với tựa đề khá hấp dẫn: T.T.Kh Nàng là ai?(lúc tái bản đổi tên tác giả là Thế Phong)Khi cuốn sách được phát hành thì gặp phải phản ứng dữ dội của rất đông đọc giả & nhất là của một người trong cuộc công khai phủ nhận nhiều sự việc viết trong cuốn sách,đồng thời khẳng định mình không phải là T.T.Kh bằng hai bức thư ngỏ liên tiếp gửi từ nước ngoài về đăng trên nhiều tờ báo & tạp chí văn học ở trong nước…Gần mười năm sau,năm 2003 nhà văn-luật gia Trần Đình Thu lật giở toàn bộ tư liệu liên quan để xem lại & đã cất công tìm gặp trực tiếp nhà văn Thanh Châu tác giả của truyện ngắn Hoa Tigôn(Ông đã chuyển vào ở quận Tân Bình- tp.Hồ Chí Minh)cũng như gặp được người đã vô tình tiết lộ ra thân phận của T.T.Kh nhằm kiểm chứng tất cả các thông tin có được để viết lại câu chuyện bí ẩn vẫn bao trùm “làn khói bụi” của thời gian này & bài viết cũng đã được đăng nhiều kỳ trên báo Thanh Niên vào giữa năm 2005 với tựa đề Đi tìm tác giả bí ẩn T.T.Kh rồi mới in thành cuốn sách mang tên “Giải mã Nghi án văn học T.T.Kh” vào đầu năm 2007.Tuy nhiên,đối với đông đảo đọc giả thì vẫn còn tồn tại vô số ý kiến trái chiều,thậm chí có nhiều người đã đăng đàn để phản bác lại,nhất là sau khi được đọc nguyên văn hai bức thư ngỏ nêu trên mà Trần Đình Thu cũng công khai trong tác phẩm của mình.Tại sao lại như vậy?Có điều gì khiến cho nhiều người “hoang mang” đến thế khi đã đọc xong toàn bộ tác phẩm khá công phu & nghiêm túc này của Trần Đình Thu?.Liệu nhân vật được tác giả chứng minh là nữ thi sĩ bí ẩn mang tên T.T.Kh có phải là sự thật?Phải chăng “Nghi án văn học T.T.Kh” như cách dùng chữ của Trần Đình Thu vẫn còn là một câu hỏi chưa được “giải mã”?Để trả lời cho những thắc mắc nêu trên chúng ta cùng bắt đầu cuộc “hành trình” khám phá bí ẩn đã tồn tại từ hơn 70 năm qua & cũng là để trả lời cho câu hỏi của rất nhiều người trong chính chúng ta,vậy thực sự:- Ai là T.T.Kh?.Nhằm giúp bạn đọc dễ hiểu,dễ so sánh các sự kiện,các dẫn chứng,phân tích cũng như phần chứng minh cho sự việc liên quan đến các nhân vật,vì thế chúng ta hãy lưu ý hơn một chút đến những dòng chữ in nghiêng,nhất là in đậm hoặc được gạch dưới trong bài viết này.

AI LÀ T.T.Kh ?-PHẦN 1

Như chúng ta đã biết,sau khi gửi đăng báo đúng 4 bài thơ, T.T.Kh không bao giờ xuất hiện nữa…nhưng điều đó lại càng gây nên sự tiếc nuối,sự say mê những vần thơ vừa đắm đuối vừa như cào cấu tâm can của cuộc đời người thiếu phụ bí ẩn này.Người đời không những càng hâm mộ mà còn tò mò muốn biết tác giả là ai,tâm lý đó không chỉ có trong những độc giả thơ bình thường mà ngay cả các tác giả của “Việt Nam thi nhân tiền chiến” Hoài Thanh-Hoài Chân năm 1942 khi viết lời giới thiệu về T.T.Kh cũng đã phải cảm thán:- “… Bốn năm đã qua từ ngày tờ báo vô tình hé mở cho ta một cõi lòng.Ai biết “Con người vườn Thanh” bây giờ ra sao?Liệu rồi đây người ấy có thể lẳng lặng ôm nỗi buồn riêng cho đến khi về nơi chín suối?....Vậy sự thật T.T.Kh có thể là ai?

1-Những lời đồn đại,những bài báo-tác phẩm “Khẳng định” về thân thế T.T.Kh:

Rất nhiều người liên tục “công bố” những thông tin về T.T.Kh .Người thì bảo tác giả là người yêu của thi sĩ Thâm Tâm,người lại bảo rằng đó là người yêu của Nguyễn Bính,thậm chí để cho “nặng ký” hơn có người còn khẳng định T.T.Kh tên thật là Trần thị Khánh là em gái nhà thơ Tế Hanh,có một thời là người yêu của Thâm Tâm!? Đến nỗi sau này Tế Hanh đã phải đăng đàn để chính thức phủ nhận điều đó.Ít lâu sau,câu chuyện về T.T.Kh lại đổi sang một hướng khác:-Khẳng định thơ của T.T.Kh là do Nguyễn Bính & nhất là do Thâm Tâm sáng tác…Căn cứ để có những “công bố” & “khẳng định” nêu trên là: -Vào khoảng cuối năm 1939 đầu năm 1940 Nguyễn Bính có làm một bài thơ nhan đề Cô gái vườn Thanh với lời đề“ Tặng T.T.Kh” & ông có trích dẫn hai câu thơ “Cho tôi ép nốt dòng dư lệ-Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên”của T.T.Kh ngay dưới tiêu đề của bài thơ.Còn với trường hợp của Thâm Tâm thì có vẻ có nhiều “dữ kiện” hơn,ta hãy cùng đọc một trong số đó là của nhà thơ Nguyễn Vỹ (Trong tác phẩm Văn-Thi sĩ Tiền chiến xuất bản năm 1970 tại Sài Gòn,mà trong đó còn thiếu quá nhiều các tên tuổi lớn đúng nghĩa của Thi sĩ thời Tiền chiến): “Năm 1936-1937,ở phố chợ Hôm-HN có một nhóm văn sĩ trẻ với bút hiệu Trần Huyền Trân,Thâm Tâm & vài người khác nữa,ít ai để ý đến họ.Có lẽ vì họ còn quá trẻ…mới bắt đầu viết văn chưa có gì là đặc sắc,lớp văn sĩ (đi)trước không chú ý đến họ…Họ có ra một tờ báo nhỏ lấy tên là Bắc Hà…tờ báo bán không được chạy lắm nhưng cũng có vài mục hài hước nhờ mấy bức vẽ của Tuấn Trình (tên thật của Thâm Tâm) & có nhiều hứa hẹn trên bình diện văn chương.Hăng hái nhất & đóng vai chủ động trong tuần báo là Trần Huyền Trân.Thâm Tâm,biệt hiệu của Tuấn Trình thì vẽ nhiều hơn viết,thỉnh thoảng đăng vài bài thơ,vài mẩu truyện ngắn.Đôi khi thấy vài ba bài thơ tính cách ca dao ái tình của Nguyễn Bính,học sinh lớp nhất,trường tiểu học Hà Đông thi rớt rồi nghỉ học luôn.Tuy không chơi thân,nhưng tôi quen biết Trần Huyền Trân khá nhiều…vì anh trọ ở trong ngõ chợ còn tôi ở một gác trọ cuối phố Khâm Thiên…đôi khi có nhờ tôi viết bài cho báo Bắc Hà “cho vui” vì không có tiền nhuận bút…tôi quen Tuấn Trình là do Trần Huyền Trân giới thiệu…Một buổi chiều gần tối,Tuấn Trình đến chơi nhưng Huyền Trân đi vắng,gặp tôi mới rủ Tuấn Trình về gác trọ…Đêm ấy cao hứng,Tuấn Trình ngà ngà say rượu Văn Điển,kể cho tôi nghe chuyện tình của anh với cô Khánh.Trần Thị Khánh là cô học trò lớp nhất trường tiểu học Sinh Từ (nay là phố Nguyễn Khuyến) thi hỏng,cô ở nhà giúp mẹ nội trợ,nhà cô cũng ở đường Sinh Từ,ngay cạnh Thanh Giám,nơi thờ Đức Khổng Tử…& những tấm bia khắc tên các vị Tiến Sĩ khoa bảng…Cô nữ sinh Trần Thị Khánh là một thiếu nữ đẹp,nét đẹp mơn mởn của một cô gái dậy thì,thùy mị,nết na,nhưng không có gì đặc biệt.Tuấn Trình có người cô nhà ở phố Cửa Nam,gần Sinh Từ.Anh thường đến đây & nhiều lần gặp cô Khánh đi chợ buổi sáng…Tuấn Trình làm quen rồi tặng cô báo Bắc Hà.Cô gái 17 tuổi cảm mến người nghệ sỹ tài hoa,tình yêu chớm nở như cánh tigôn trắng cũng vừa chớm nở trong sân nhà cô…thời kỳ mơ mộng ngắn ngủi trong mấy tháng hè không đem lại chút thỏa mãn nào cho tâm hồn khao khát của Tuấn Trình,chính vào lúc này anh mới lấy bút danh là Thâm tâm & cho cô Khánh biết “Hình ảnh của em,anh ghi sâu vào Thâm Tâm anh”.Trong bài thơ thức đêm làm tặng cô Khánh cũng có câu “…Quên làm sao được thuở ban đầu-Một cánh tigôn dạ khắc sâu…”.Trong những bức vẽ trên tuần báo Bắc Hà vẫn ký tên Tuấn Trình,nhưng những bài thơ lại đều ký tên là Thâm Tâm…điều làm cho chàng nghệ sỹ 19 tuổi đau khổ nhất là cô gái 17 tuổi sống trong vòng lễ giáo nghiêm khắc của gia đình,chưa thật bao giờ đáp ứng đúng với tình yêu tha thiết của Tuấn Trình-Thâm tâm…Cô thường nói: “Thầy,mẹ em nghiêm lắm…”.(toàn bộ cuộc tình)chỉ có hai lần là cô đến nơi hẹn,nhưng cũng không được lâu …cả hai lần họ gặp nhau đều ở trong vườn Thanh giám.Lần thứ nhất,một đêm trăng, Khánh lẻn băng qua đường vào vườn Thanh Giám…lần gặp thứ hai nàng có hỏi:Anh định bao giờ đến xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.Chàng họa sỹ bối rối trước câu hỏi bất ngờ,chàng lơ đễnh bảo:-“Anh chưa nghĩ đến việc ấy vì…”.Câu chuyện bị bỏ dở nơi đây.Khánh không hỏi gì hơn nữa…chàng đứng lại khẽ kéo Khánh vào lòng,nhưng nàng khẽ buông ra.Tuấn Trình âu yếm nhìn nàng:-“Hình ảnh của em,nụ cười của em,sẽ mãi mãi ghi sâu vào lòng dạ của anh,vào thâm tâm anh.”Trần thị Khánh cười như để tạ ơn & xin từ giã.Tuấn Trình trằn trọc suốt đêm.Khánh muốn giấu chàng một điều gì quan trọng chăng?...Thế rồi một hôm chàng họa sỹ đa tình nhận được một bức thư của người yêu,không,của người hết yêu báo tin nàng sắp lấy chồng…thư do cô bạn gái của Khánh đem đến tòa soạn báo Bắc Hà trao tận tay Tuấn Trình,cô bạn hỏi “ông Tuấn Trình” chứ không gọi Thâm Tâm….trong thư cô nói dù rất buồn vì một tình yêu dang dở,rằng cô mãi mãi yêu anh nhưng phải giữ tròn chữ hiếu,không dám cãi lời mẹ,cha…Khánh không nói một câu nào về vị hôn phu,không cho biết ngày cưới & cuối thư ký tắt:Kh.Bức thư của Kh chấm dứt đột ngột cuộc tình duyên thật sự không mấy thơ mộng của họa sỹ Tuấn Trình & Trần Thị Khánh. Sau nhờ dò hỏi Tuấn Trình biết được chồng cô khánh là một nhà buôn giàu có ở phố Hàng Ngang,39 tuổi,góa vợ & không có con.Trong câu thơ Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi…đó chỉ là nhận xét mỉa mai của Thâm Tâm,so sánh tuổi 20 của mình với người chồng cô khánh…Nhưng trên thực tế & theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình thì người chồng cô Khánh giầu sang & trẻ đẹp chứ không phải là một ông già...Đêm trước ngày cô Khánh lên xe hoa,Thâm Tâm tổ chức tại tòa soạn báo Bắc Hà một tiệc thịt chó,uống Mai Quế Lộ,mời Trần Huyền Trân,Nguyễn Bính & Vũ Trọng Can tham dự.Họ say sưa,ngâm thơ,làm thơ cười đùa cho đến khuya rồi lăn ra ngủ trên đất.Người đau khổ trong việc tình duyên dang dở này không phải là cô Khánh.Trái lại,cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô.Trần Huyền Trân đã gặp cô đang hí hởn với chồng vào ăn kem ở tiệm Blanche Neige(Kem Bạch Tuyết-Bờ Hồ) hai lần,hai ông bà nhìn nhau & cười với nhau ra vẻ âu yếm lắm.Khánh đã có thai & được chồng săn sóc,nâng đỡ lên chiếc xe Citroen,lúc về còn đi một vòng quanh hồ hoàn Kiếm.Trần Huyền Trân kể lại cảnh âu yếm đó cho Tuấn Trình nghe & kết luận :con Khánh nó cho cậu leo cây,cậu còn si nó làm gì nữa,thêm nhục.Người đau khổ dĩ nhiên là Tuấn Trình,chàng yêu nhớ đơn phương,mặc cảm của một nghệ sỹ nghèo bị người yêu bỏ rơi,lại còn bị mấy thằng bạn trẻ chế nhạo nhất là Vũ trọng Can.Vì một chút tự ái văn nghệ với mấy người bạn kia.Tuấn trình đã phải thức một đêm,theo lời anh,làm một bài thơ đề là Hai sắc hoa Tigôn,ký tên T.T.Kh với thâm ý để Trần Huyền Trân & Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...cho nên giọng thơ hoàn toàn là giọng thơ lãng mạn của Tuấn Trình & lời thơ khác hẳn những lời tâm sự trong bức thư cuối cùng của Kh báo tin cô sắp lấy chồng.cô Khánh không biết làm thơ,chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác.Tuấn Trình đã nói quả quyết với tôi như vậy,sau khi nhận được một bức thư của Khánh,bức thư cuối cùng tỏ ý không bằng lòng anh mượn tên cô để làm thơ kể chuyện tình duyên cũ,có thể làm hại đến cuộc đời cô Thâm Tâm lấy những lời nghiêm khắc giận dữ của người yêu cũ để làm ra Bài Thơ cuối cùng...

Còn đây là bài viết của Bùi Viết Tân(đăng trong Tạp chí Văn nghệ kháng chiến số tháng 5 năm 1951): “Cuối năm 1949,trong một chuyến đi dài ngày từ Liên Khu 3 lên Việt Bắc,tôi có dịp đồng hành với thi sĩ Thâm Tâm(Nguyễn Tuấn Trình)…chúng tôi là những người lữ hành ngày nghỉ,đêm đi.Trong lúc nghỉ ngơi anh Thâm Tâm thường tâm sự với tôi những chuyện tâm tình liên quan với thơ.Chẳng hạn chuyện nhân vật gây nguồn cảm hứng để anh sáng tác bài thơ nổi tiếng Tống Biệt Hành là một người tên Phạm Quang Hòa,trước 1945 thoát ly gia đình ra đi lên chiến khu làm cách mạng.Tôi đã hỏi anh Thâm Tâm,nhân vật Phạm Quang Hòa ở đâu,còn sống không?Anh Thâm Tâm cho biết Phạm Quang Hòa ra đi & trở về & đang tiếp tục cuộc sống của một người trai thời loạn.Nhân vui chuyện,tôi có hỏi anh Thâm Tâm về chuyện những bài thơ ký tên T.T.Kh.

-Theo ý ông thì những bài thơ này của ai?
-Người ta nói là của người tình Thâm Tâm.Phải vậy không anh?
-Ông có đọc bài thơ ký tên Thâm Tâm đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy số 307,ra ngày 4 tháng 5 năm 1940 chứ?
-Đã có đọc,có phải bài Các Anh không nhỉ?
-Đúng thế,tất cả đều liên quan tới một chuyện tình,nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh là do mình sáng tác ra cả thôi.
-Như vậy là Nguyễn Bính cũng bị vào “xiếc” trong câu chuyện này?
-Chuyện này chỉ có mình & Trần Huyền Trân biết thôi.Nguyễn Bính là một nhà thơ tài hoa nhưng “ngây thơ” lắm.
-Câu chuyện này có liên quan gì tới đất Thanh Hóa không anh?
-Địa danh vườn Thanh trong thơ là nói tới đất Thanh Miện ở Hải Dương,quê hương của trái vải.Nhưng Nguyễn Bính lầm tưởng là Thanh Hóa…do đó mới có chuyện vui vẻ.
-Tại sao anh sáng tác những bài thơ ký tên T.T.Kh hay như vậy mà lại không làm loại thơ này nữa?
-Vào những năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40,bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời & muốn làm một cuộc đổi đời.Chính bài Các Anh rồi sau đó là bài Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”

Gần đây nhất,ngược lại với Nguyễn vỹ & Bùi Viết Tân thì tác giả Hoàng Tiến (bài đăng trên tuần báo văn nghệ cuối năm 1989) lại viết như sau: “…Ông Hoài Thanh năm 1941 có soạn cuốn Thi Nhân Việt Nam( xuất bản năm 1942,tác phẩm trên là của hai ông, còn Hoài Chân nữa chứ không phải chỉ một mình Hoài Thanh.Tên lần xuất bản đầu tiên là Việt Nam Thi Nhân Tiền chiến,những lần tái bản sau mới có tên gọi Thi Nhân V.N & bổ xung thêm một số nhà thơ khác xuất hiện vào cuối thời kỳ tiền chiến)cũng trích dẫn T.T.Kh với ghi chú: “sau khi bài thơ kia đăng rồi,xóm nhà văn bỗng xôn xao,có đến mấy người nhất quyết T.T.Kh chính là người yêu của mình & người ta đã phê bình rất náo nhiệt.Có kẻ không ngần ngại cho những bài ấy là những áng thơ kiệt tác”.Hôm nay,xin công bố với bạn đọc một thông tin chúng tôi được biết về T.T.Kh,người kể còn sống,mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp chúng tôi thấy cần phải công bố ngay vì nó có lợi cho việc làm văn học sử sau này.Số là vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay(Kỷ tỵ 1989)chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội.Cùng đi có nhà thơ Lương Trúc thuộc lớp nhà thơ trước C.M tháng tám,năm nay đã 74 tuổi(tên thật là Phạm Quang Hòa)bạn thân với các nhà thơ Thâm Tâm,Nguyễn Bính & Trần Huyền Trân…Nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu & tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm về Họ,Tên tác giả Hai sắc hoa Tigôn được công bố dưới đây.Cùng nghe hôm đó với tôi có nhà thơ Trần Lê Văn & nhà thơ Tú Sót.T.T.Kh tên thật là Trần Thị Khánh,người yêu của Thâm Tâm.Hai người yêu nhau nhưng biết không lấy được nhau,hẹn giữ kín mối tình,để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này.Cô Khánh đọc Tiểu thuyết thứ bảy in truyện ngắn Hoa Tigôn của Thanh Châu…xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng(qua)bài thơ Hai sắc hoa Tigôn & gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy…Tiếp đó để giải thích lý do viết bài thơ Hai sắc hoa Tigôn cô Khánh gửi đến một bài nữa với tiêu đề là Bài thơ thứ nhất & viết riêng tặng Thâm Tâm Bài thơ đan áo.Lại càng xôn xao,nhiều người cho là nam giới giả danh,nhiều người nhận ra người yêu của mình,trong số đó có Nguyễn Bính.Thâm Tâm hồi đó còn trẻ,với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăng Bài thơ đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh chính là người yêu của mình.Tất nhiên là không có sự đồng ý của T.T.Kh & thế là T.T.Kh giận.Cô viết bài thơ lấy tiêu đề là Bài thơ cuối cùng…Sau này Thâm Tâm có viết bài thơ Các Anh để trả lời T.T.Kh…”

Còn nhiều nữa những “Tác Phẩm” những bài viết tương tự nhằm cố sống,cố chết ghép bằng được cho Thâm Tâm phải là T.T.Kh hay chí ít T.T.Kh cũng phải là “Người Tình” của Thâm Tâm hay Nguyễn Bính (công bằng mà nói,Nguyễn Bính chỉ “bị” ghán ghép ở giai đoạn đầu của “nghi án” này mà thôi)đó là còn chưa kể lực lượng báo “lá cải” nhiều vô số ăn theo câu chuyện này nhất là ở Miền Nam trước năm 1975.Ở đây chỉ lược trích ba “tác phẩm” tiêu biểu & được nhiều người bám lấy nhất để “minh chứng” cho nhận định của họ về bí ẩn văn chương này suốt hơn 70 năm qua.

2- Nguyễn Bính có thể là T.T.Kh hoặc là người yêu của T.T.Kh được không? :

Đối với Nguyễn Bính,việc chỉ dựa vào lời đề tặng T.T.Kh ngay dưới tiêu đề của bài thơ Cô gái vườn Thanh & mấy câu thơ có vẻ hơi “dây mơ rễ má” với câu chuyện tình của T.T.Kh trong bài thơ nêu trên: -Truyện xưa hồ lãng quên rồi

Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh
Bao nhiêu gian khổ vì tình
Cớ sao Giống hệt chuyện mình năm xưa…

hay: …Phải chăng mình có nên ngờ
Rằng người năm ấy bây giờ là đây…mà vội cho rằng T.T.Kh chính là người yêu của ông thì quả là quá vội vàng,võ đoán & là một “chứng cứ”quá yếu.Hơn 70 năm trước vấn đề “môn đăng-hộ đối”đã góp phần tạo nên vô số những cuộc tình ngang trái cho nên khi xuất hiện những bài thơ đầy ai oán của T.T.Kh thì rất nhiều người sống ở thế hệ đó như thấy được hình ảnh,cuộc đời của chính mình & Nguyễn Bính cũng không phải là ngoại lệ,có thể điều đó đã làm ông cảm thán mà viết bài thơ Cô gái vườn Thanh như một việc “họa” lại những bài thơ của T.T.Kh chăng?... trong “Ghi chép dọc đường”có kể về “nguyên mẫu” cô gái trong bài thơ Người hàng xóm nổi tiếng của ông: “Cô nết na,có vẻ đẹp thùy mị,hơi bẽn lẽn,giỏi chăn tằm,dệt cửi,nhà dù không nghèo lắm nhưng cũng chẳng được học hành gì…Về sau cha,mẹ cô gả cho một nhà khá giả trong vùng…”.Một cô gái “chân quê” đúng nghĩa như vậy liệu có thể làm nổi những bài thơ da diết như T.T.Kh không?Về phần Nguyễn Bính ngay trong những câu thơ trích dẫn ở trên cũng cho ta thấy bản thân ông cũng đã tự hồ nghi không dám chắc mà như tự hỏi lại chính mình rồi,ông viết “cớ sao giống hệt” chứ nào có khẳng định điều gì?Ngay như chỉ có mỗi cái địa danh Vườn Thanh nằm ở đâu mà đã có ít nhất hai người viết khác nhau (Nguyễn Vỹ & Bùi Viết Tân) ấy thế mà người đời lại cứ vin vào đó coi như một trong những “bằng chứng” để kết luận T.T.Kh là người yêu của ông thì quả thật là quá buồn cười…(nên nhớ,quê Nguyễn Bính là ở làng Thiện Vịnh-h.Vụ Bản-t.Nam Định).Trong bước đường phiêu du khắp nơi làm thơ,uống rượu sau này ông đã gặp,đã yêu rất nhiều & cũng có không ít những mối tình ngang trái.Nhưng đó là thời gian “hậu T.T.Kh” còn vào thời điểm những năm trước & trong “thời T.T.Kh” thì chưa có ai nói hay viết rằng cô Trần Thị Khánh hay một cô nào đó(ngoài cô gái “chân quê” nêu trên)là người yêu của Nguyễn Bính…Cho nên cái gọi là “cô gái vườn Thanh” hay địa danh vườn Thanh chẳng có liên quan gì tới ông cả vì hoàn toàn không có cơ sở & thiếu lô gích…Vậy còn câu hỏi T.T.Kh có phải chính là Nguyễn Bính?Trên đời này,chúng ta làm bất cứ điều gì cũng cần phải có mục đích,thế thì mục đích của Nguyễn Bính khi “núp bóng” T.T.Kh là gì?Để nổi tiếng hơn chăng?có lẽ sẽ chẳng có ai lại dại dột làm cái điều có thể gọi là ngớ ngẩn như vậy & chúng ta sẽ chẳng bao giờ tìm ra được “mục đích” của việc này là gì,bởi vì đặt sự việc đó vào hoàn cảnh nào ta cũng dễ dàng tìm thấy được sự vô lý,nhất là đối với một nhà thơ đầy tài năng & nhân cách như Nguyễn Bính. Bây giờ chúng ta xét đến nội dung,hay cụ thể hơn là xét đến “giọng thơ” của các tác giả.Chúng ta cũng đã biết là nhà văn,nhà thơ nào cũng có lối hành văn,giọng thơ mang nét “đặc thù” của người đó,giống như bên âm nhạc thì “kiểu”ca khúc của Trịnh Công Sơn khác với Trần Tiến hay khác với Phú Quang v.v…Ta hãy tìm hiểu “giọng thơ” của Nguyễn Bính,của Thâm Tâm để có cơ sở so sánh với thơ của T.T.Kh.

Tác giả Hoài Việt,một người cầm bút trước năm 1945,từng quen biết với Thâm Tâm, Nguyễn Bính…một người có vài tác phẩm nghiên cứu về các nhà văn,nhà thơ thời tiền chiến,ông viết như sau: “…Thâm Tâm,Nguyễn Bính,Trần Huyền Trân hồi đó là ba thi sĩ chủ chốt trong một nhóm thơ được các văn hữu mệnh danh là các nhà thơ xóm áo bào gốc liễu …cả ba đều xuất thân từ tầng lớp dân nghèo,không được học hành trường lớp chính qui nhiều,vì thế ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với họ hầu như không có gì,ngược lại họ là những người được học nhiều chữ hán,chữ nôm ở những ngôi trường làng hay tại nhà các ông Đồ,cả ba người từng thuê nhà ở chung để viết văn,làm thơ,làm báo…”Chính vì những lẽ đó mà trong thơ của họ thường xuất hiện rất nhiều từ cổ,từ Hán-Việt...riêng Nguyễn Bính thì ảnh hưởng bởi những điều đó không nhiều, ngoài vài bài thơ như Hành Phương Nam ra,còn lại thơ ông mang rất đậm “chất quê” từ ngôn ngữ lẫn hình ảnh với một phong cách rất ca dao…Vào khoảng thời gian từ năm 1932 đến 1938 “Làng” thơ Việt cố gắng tìm một sự thay đổi căn bản,đó là tìm sự thay thế thể loại thơ Đường luật gò bó bằng một thể loại thơ tự do mang “hơi hướng” phương tây,đó chính là phong trào Thơ mới.Tuy nhiên,vẫn có sự phân hóa khá rõ nét, một số nhà thơ muốn cách tân một cách mạnh mẽ cả nội dung lẫn hình thức,trong khi một số khác lại không muốn bị “tây” hóa quá nhiều về mặt nội dung mà chỉ muốn đổi mới về mặt hình thức thể hiện mà thôi. “Nếu như Xuân Diệu đạt đến đỉnh cao của ảnh hưởng từ thơ Pháp thì Thâm Tâm lại quay về với hồn thơ Đường luật,còn Nguyễn Bính thì chìm đắm trong kho tàng ca dao-dân ca Việt Nam để góp phần tạo nên dòng thơ Việt thời Tiền chiến…”
Trong khi đó thì thơ T.T.Kh lại mới từ ngôn ngữ lẫn hình ảnh,trong thơ của Bà không hề có những từ Hán-Việt như:Ly khách,ải xa,trường thành,cô phụ,đoạn trường,ác tà,giang thôn…như Thâm Tâm,hay đặc chất quê,chất ca dao:Tơ vương,buồng the,hoa chanh,vườn chanh,giời mưa,giầu cau…của Nguyễn Bính.Đặc biệt những nhà thơ như Thâm Tâm,Nguyễn Bính thường dùng lối viết ẩn dụ “ý tại ngôn ngoại”của lớp nhà thơ “cổ điển” khi muốn nói về tình yêu đôi lứa,còn T.T.Kh thì lại nói toạc ra:-Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết…-Người ấy thường hay vuốt tóc tôi…-Tôi chờ người đến với yêu đương…Bây giờ ta hãy cùng đọc mấy đoạn thơ tả cảnh:

“Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành”
(T.T.Kh)

“Hơn một loài hoa đã rụng cành
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”
(Xuân Diệu)

“Thu sang trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn”
(Nguyễn Bính)

“Bừng sáng Xuân bay tang tảng sương
Canh gà heo hút nẻo giang thôn
Chài ai gấp gấp giăng giăng bạc
Tiếng mác qua giời,dịp sáo non”
(Thâm Tâm)

Cùng là những câu thơ tả cảnh,nhưng rõ ràng hai đoạn thơ trên của T.T.Kh & Xuân Diệu “mới” hơn rất nhiều,nghiêng về dòng thơ ảnh hưởng nền thơ Pháp mà “Thế Lữ là người khơi nguồn nhưng Xuân Diệu mới là người “đẩy” lên cho đến tận cùng…” chúng ta cùng đọc mấy đoạn thơ tình:

“Lòng em như quán bán hàng
Dừng chân cho khách qua đàng mà thôi
Lòng anh như mảng bè trôi
Chỉ về một bến chỉ xuôi một chiều”
(Nguyễn Bính)

Ngay cả khi viết thơ tình Nguyễn Bính cũng vẫn không “bỏ” được “chất giọng” thơ chân chất Chân quê & lối nói ẩn dụ.Trong khi đó,thơ của T.T.Kh lại “hiện đại” hơn rất nhiều:

“Người ấy thường hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”
(T.T.Kh)

“Anh biết yêu em đã muộn màng
Nhưng mà ai cưỡng được tình thương?
Ngậm ngùi tặng trái tim lưu lạc
Anh chỉ xin về một chút hương…”
(Xuân Diệu)

Đến đây chúng ta có thể kết luận rằng “giọng thơ” của T.T.Kh hoàn toàn xa lạ với “giọng thơ”của Nguyễn Bính mà lại rất gần gũi với chất thơ của Xuân Diệu ông “vua thơ tình” trong phong trào thơ mới thời bấy giờ.Để dẫn chứng thì còn rất nhiều & tốn thời gian vô ích, nếu tìm đọc thêm thơ của Nguyễn Bính thì chúng ta sẽ phát hiện ra không mấy khó khăn gì.Cho nên bảo rằng T.T.Kh có liên quan gì đó với nhà thơ Nguyễn Bính là hoàn toàn thiếu thuyết phục!...

còn tiếp.
Đỗ Thế Cường


Ngày đăng: 03.07.2012





















nguồn_vanchuongviet.org:http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18846
---------------------------------------------------------------------------------
75 Năm Câu Chuyện Tình Buồn : KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ T.T.Kh? -2
Đỗ Thế Cường

3-Thâm Tâm có thể là T.T.Kh hoặc là người yêu của T.T.Kh được không? :

Công bằng mà nói, nếu ta đọc riêng một trong những bài viết nêu trên (của Nguyễn Vỹ, Bùi Viết Tân, Hoàng Tiến hoặc của ai đó nữa…) vào những thời gian, không gian khác nhau thì không phải là không “có lý” trong một chừng mực nhất định, nhất là lại chỉ đọc lướt qua và chỉ một lần. Ngoài ra còn phải kể đến “hiệu ứng gơben” nhà tuyên truyền đại tài của Đức quốc xã, đó là:-“Một sự việc, dù không có thật cứ nói đi nói lại nhiều lần sẽ trở thành sự thật! Nhất là sự lan tỏa của hiệu ứng truyền khẩu với cái “Tôi” để bảo lãnh cho “sự thật” đó của những người ưa thì thầm…”.Chả thế mà “bí ẩn” về T.T.Kh đã tồn tại được hơn 70 năm sau kể từ ngày đó. Nhưng khi ta đọc cả ba bài viết nêu trên cùng một lúc và đọc thật kỹ thì cũng sẽ thấy ngay được vô số điều vô lý. Không những trong cùng một bài viết có những chi tiết “đá hậu” nhau mà cả ba bài viết khi “đặt cạnh” cũng “đá” nhau không kém. Ta lấy ví dụ(dù hơi khập khiễng) :-Có ba cái bình sứ Bát Tràng được làm thủ công với cùng một mẫu, nếu để riêng rẽ ở ba phòng khác nhau thì sẽ rất khó phân biệt được cái nào đẹp hơn cái nào, chi tiết nào của cái bình nào không được “chuẩn” như hình mẫu.v.v…Nhưng nếu để cả ba cái bình ấy bên cạnh nhau thì sự phân biệt lập tức trở nên rất dễ dàng.

3a/Trần Thị Khánh có phải là T.T.Kh?:

Đọc thật kỹ cả ba bài viết trên, nó gợi cho ta cái cảm giác như thể ta chót mua cho thằng con đôi giầy nên ta phải bằng mọi cách “cố” nhét đôi chân của nó vào bằng được dù cho đôi giầy đó có rộng hay chật. Chúng ta cũng đã thấy rằng T.T.Kh là một câu chuyện tình ngang trái ,trong khi đó câu chuyện do Nguyễn Vỹ kể lại, chưa biết thật hư thế nào thì rõ ràng đây là một câu chuyện phụ tình và một điều quan trọng là tình yêu mà cô Khánh dành cho Thâm Tâm không lấy gì gọi là một tình yêu say đắm để đến nỗi nhưng biết không lấy được nhau rồi xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng (qua) bài thơ Hai sắc hoa Tigôn và gửi đăng Tiểu thuyết thứ bảy như ông Hoàng Tiến đã viết.Trong cả cuộc tình hai người chỉ gặp nhau có hai lần ngắn ngủi và phải rất bí mật, có nghĩa là cả gia đình,họ hàng,hàng xóm,bạn bè của cô Khánh chắc chắn không biết hay chưa kịp biết và chồng của cô Khánh lại càng không thể biết,trong khi(theo ông Nguyễn Vỹ) cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cô,thế thì liệu có “điên” không khi chính cô Khánh viết những bài thơ ký tên T.T.Kh khóc than cho mối tình duyên “dang dở” của mình để rồi lại phải“Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ-Người ấy cho nên vẫn hững hờ” hay“Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá”. Còn một chi tiết nữa,đó là mới gặp nhau có lần thứ hai (hồi đó thì làm gì đã có điện thoại di động hay internet để dù không gặp vẫn có thể “buôn”với nhau hàng ngày?) mà cô Khánh đã Anh định bao giờ đến xin thầy,mẹ cho chúng mình...”.Thời “hiện đại” như ngày nay, xin hỏi các bạn gái của chúng ta có tin được không? Các bạn có “làm” được như cô Khánh không? Nên nhớ vào thời điểm có câu chuyện đó thì việc “đến xin với thầy,mẹ…” có nghĩa là phải cưới đến nơi rồi đấy và phải do các bậc “phụ huynh” đến nói chuyện chứ đâu phải là“Anh định bao giờ…” lẽ ra ông Nguyễn Vỹ phải viết là Anh định bao giờ đưa Thầy,u anh đến…mặc dù như thế cũng đã là quá đường đột rồi, không như ngày nay có thể chàng trai đến nhà chơi vài lần rồi mới dám ngỏ lời với cô gái hay ít nhất cũng cần phải có cả một quá trình qua lại mới có thể Anh định bao giờ …Còn nếu cho rằng cô Khánh nói vậy để ngầm nhắc và đề phòng người yêu trách cứ sau này rằng “Đấy,tôi đã bảo mà anh không chịu đến nói chuyện sau này tôi có lấy chồng thì đừng có mà trách…” thì việc gán cái mẹo ấy cho một cô gái 17 tuổi sống cách nay hơn 70 năm liệu có quá là khả ố hay không?...Nếu chỉ xét riêng về bảng chữ cái thì có vẻ T.T.Kh đúng là Trần Thị Khánh,thế nhưng một cô gái đang vô cùng hạnh phúc với chồng liệu có dám “nửa công khai” danh tính để tưởng nhớ về một mối tình ngang trái và đầy nuối tiếc như vậy không?Vì điều đó chỉ có thể xảy ra khi người thiếu phụ gặp bất hạnh trong hôn nhân (đấy là chúng ta đang cố tình nói ngược lại những gì ông Nguyễn Vỹ đã viết,rằng Trần Huyền Trân kể với…) và chuyện này cũng chẳng khác gì nhiều năm trước có vài tờ báo trong nước nhân việc có ca sĩ hải ngoại phát biểu gì đó: “…cô ca sĩ KL chuyên hát nhạc Trịnh…”.Viết như thế thà nói toạc ra là ca sĩ Khánh Ly cho nó nhanh. Hơn nữa cô Khánh không biết làm thơ,chưa bao giờ làm thơ cả! và cô ghét những bài thơ của Thâm Tâm nữa là khác.Chúng ta tìm mãi cũng chẳng bao giờ thấy được lý do và mục đích gì để tin rằng cô Trần Thị Khánh là T.T.Kh,vì điều đó hoàn toàn phi lý!.Chúng ta chỉ có thể tin rằng,việc cô Trần Thị Khánh là người yêu của Thâm Tâm là có thể có thật và chỉ có vậy mà thôi.!

3b/T.T.Kh có thể là Người yêu của Thâm Tâm được không?:

Lý do để nhiều người vin vào “rằng thì là” T.T.Kh là người yêu của Thâm Tâm quả là rất buồn cười nếu như không muốn nói là quá vớ vẩn,nó giống như toán học chứ không phải là một câu chuyện văn chương:A=C ; C=B suy ra thì đương nhiên A=B, đó là vì Trần Thị Khánh “chính là” T.T.Kh vậy thì T.T.Kh “phải là” người yêu của Thâm Tâm mà không có bất cứ cơ sở nào như đã phân tích ở trên.Ông Hoàng Tiến viết: Thâm Tâm hồi đó còn trẻ,với tính hiếu thắng của tuổi trẻ ông đã gửi báo Phụ nữ đăng Bài thơ đan áo để minh chứng với thiên hạ rằng T.T.Kh chính là người yêu của mình….” chúng ta cùng đọc lại vài khổ thơ trong Bài thơ đan áo:

Chị ơi!nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thưong…”

hay:

“…Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai…”

Ô hay, rõ ràng là “Chị ơi” vậy mà ông Hoàng Tiến cố gán là: “…Viết riêng tặng Thâm Tâm…để minh chứng với thiên hạ” thì quả thật không còn gì để nói nữa và hóa ra ông cũng chỉ “nghe hơi nồi chõ” như người ta rồi phóng tác ra câu chuyện cho thêm ly kỳ mà thôi.Đáng lẽ,ông Hoàng Tiến nên viết: T.T.Kh viết tặng người chị và Thi sĩ Thâm Tâm để nói lên tâm sự của lòng mình thì còn khả dĩ chấp nhận được. Đấy là chúng ta đã cố mà hùa theo quan điểm của ông,chứ thực ra với riêng bài thơ này nó không hề có tác dụng “minh chứng” như ông đã cố áp đặt…có thể ông Hoàng Tiến định dùng câu thơ:

Chỉ có ba người đã đọc riêng

Bài thơ đan áo của chồng em trong Bài Thơ cuối cùng của T.T.Kh để cố hướng bạn đọc tin rằng Thâm Tâm muốn chứng minh T.T.Kh là người yêu của mình chăng?... Nhưng ông lại cố tình quên một chi tiết vô cùng quan trọng là:-Bài thơ đan áo đã xuất hiện trước Bài thơ cuối cùng những vài tháng,vậy thì nó “chứng minh” cái nỗi gì?Hơn nữa,đã “…nhưng biết không lấy được nhau,hẹn giữ kín mối tình,để đỡ phiền đến gia đình của nhau sau này” mà lại tự dưng“ xúc động tự thổ lộ câu chuyện riêng” với lý do khơi khơi chỉ vì vừa đọc truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu, trong khi điều quan trọng nhất để một người nào đấy có được cảm xúc sáng tác nên những vần thơ buồn đến nao lòng như thế là cần phải có“hoàn cảnh đặc biệt” vì một tình yêu ngang trái thì tác giả lại không chứng minh được mà viết như vậy thì quả là quá võ đoán và khiên cưỡng.

3c/Thâm Tâm có phải là T.T.Kh?:

Song song với những bài viết, lời kể như đã dẫn chứng ở trên,người ta còn dựa vào hai bài thơ vốn có quá nhiều dị bản là bài thơ Các AnhMàu máu Tigôn được cho là của Thâm Tâm để cho rằng chính Thâm Tâm là T.T.Kh.(đáng chú ý là dưới tiêu đề của bài thơ Màu máu Tigôn có đề là: “Gửi T.T.Kh tác giả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn). Tuy nhiên nếu đọc kỹ những bài thơ thật sự của Thâm Tâm sáng tác ta sẽ thấy “giọng thơ” của hai bài này quá khác so với thơ Thâm Tâm, chúng ủy mị,yếu đuối quá và “mới” quá…nội dung thì cũng chỉ xoay quanh những đối thoại của tác giả với người con gái nào đó lúc thì tên là Khánh,lúc chỉ viết tắt là K, hoàn toàn không thấy chi tiết nào cho thấy Thâm Tâm làm thay cho người mình yêu để mang tên T.T.Kh…Chúng ta cùng đọc vài đoạn trong hai bài thơ nêu trên:

“Các Anh hãy chuốc thật say
Cho tôi những cốc rượu đầy rồi im…”
“…Vết xe trong xác pháo xưa

Nàng đi có bốn bài thơ trở về…”
(Bài Các Anh)

“Người ta trả lại cánh hoa tàn
Thôi thế duyên tình cũng dở dang
Màu máu tigôn đà biến sắc
Tim người yêu cũ phủ màu tang…”

“…Anh biết làm sao được hỡi Trời
Dứt tình bao nỡ, nhớ không thôi
Thôi em hãy giữ cành hoa úa
Kỷ niệm ngàn năm một cuộc đời”
(Bài Màu máu Tigôn)

Nhưng cũng vẫn trong hai bài thơ đó lại có những câu thơ “gây sốc” như sau:

“…Miệng chồng Khánh gắn trên môi
Hình anh mắt Khánh sáng ngời còn mơ…”
(Bài Các anh)

“…K…Hỡi! Người yêu của tôi ơi!
Nào ngờ em giết chết một đời
Dưới mồ đau khổ anh ghi nhớ
Hình ảnh em hoài mãi thế thôi…”
(Bài Màu máu Tigôn)

Mấy câu thơ trên có thể nói rằng vô cùng thô thiển, câu dưới lại như “réo tên” người mình yêu cho thiên hạ cùng nghe thì liệu có phải là thơ của một thi sĩ đúng nghĩa, nhất lại là của một nhà thơ tầm cỡ như Thâm Tâm? Nhiều người cũng đã cho rằng: “Hai bài thơ trên không chắc là của Thâm Tâm, có thể ở đây có một sự tạo dựng hoặc thêm thắt nào đó nhằm tạo thêm sự ly kỳ cho độc giả.điều đó không phải là không có lý. Phải chăng vì vậy mà trong những lần tái bản về sau các tác giả của Thi Nhân Việt Nam đã loại bỏ hai bài thơ nêu trên? Hơn nữa như ta đã biết thơ Thâm Tâm thuộc trường phái “cổ điển”dù ông có cố gắng trong trào lưu “thơ mới”nhưng qua các tác phẩm thơ của ông thì ta thấy cũng chỉ dừng lại ở mức độ “nửa cổ điển” mà thôi. Trong khi thơ của T.T.Kh-Xuân Diệu-Thế Lữ-Vũ Hoàng Chương…đích thực là của những nhà thơ “tân thời”. Theo bài viết của Bùi Viết Tân: “Vào những năm cuối thập niên 30 bắt đầu thập niên 40,bọn mình tìm ra lối thoát cho cuộc đời và muốn làm một cuộc đổi đời.Chính bài Các Anh rồi sau đó là bài Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…” thì rõ ràng tác giả chỉ cố muốn thuyết phục mọi người tin rằng những bài thơ “tân thời” mang tên T.T.Kh là do Thâm Tâm làm ra chứ hoàn toàn thiếu kiến thức về thơ(dù câu văn đã trích dẫn cũng khá lủng củng và không rõ nghĩa,nhưng ta cũng hiểu ý nhà thơ Thâm Tâm-nếu đúng lời ông nói,là ông cũng đã cố gắng “đổi mới”cách thể hiện theo đúng trào lưu thời bấy giờ).Thể hành cũng chỉ là một trong nhiều “chi nhánh” của thể thơ Đường luật cho nên nói rằng “.. Tống biệt Hành là chứng tích của sự đổi thay này…”quả là không thuyết phục…

Trở lại với câu chuyện của Nguyễn Vỹ ta thấy ngay rằng đây là một mối tình “cho” nhiều hơn “nhận” và vô cùng thiếu vắng sự lãng mạn, không gian,thời gian cũng chỉ là có mỗi hai lần gặp nhau ngắn ngủi. Vậy thì với những “chất xúc tác” như thế,lại là “nạn nhân” của một mối tình phũ phàng cộng thêm những lời kể “như xát muối” vào lòng của Trần Huyền Trân,rồi “… Nhưng trên thực tế và theo lời những người hàng xóm ở phố Sinh Từ nói với Tuấn Trình…” và “…cô đầy đủ hạnh phúc với người chồng rất chiều chuộng cônghĩa là chồng cô Khánh là một người đàn ông hơn hẳn mình thì liệu ông có thể tưởng tượng ra được một hoàn cảnh tình duyên ngang trái và đầy nước mắt như của T.T.Kh để làm ra bài thơ cỡ như Hai sắc hoa Tigôn và những bài thơ sau này hay không?. Hơn nữa,với mục đích “… để Trần Huyền Trân và Vũ Trọng Can tin là của Khánh làm,để thương tiếc mối tình tan vỡ...”(Nguyễn Vỹ) mà lại là: “…nhưng thật ra thì những bài thơ ký tên T.T.Kh là do mình sáng tác ra cả thôi.-Chuyện này chỉ có mình và Trần Huyền Trân biết thôi…” (Bùi Viết Tân).Thật là quá buồn cười vì khi đặt hai trích đoạn của hai tác giả trên cạnh nhau,lập tức chúng ta được thấy chúng “đá” nhau như thế nào và chúng ta cũng nhận ra rằng với cái “mục đích” như ông Nguyễn Vỹ đã viết(cứ tạm cho đúng là như vậy) thì Thâm Tâm quả là quá lẩm cẩm, vì những người bạn đó của ông thừa biết cũng như chứng kiến mối tình của ông với cô Khánh(nếu có) là như thế nào và cũng thừa biết cô Khánh không có khả năng làm thơ, vậy thì Thâm Tâm “lừa” được ai? mà thực ra cũng chẳng để làm gì cả. Còn trong bài viết của Hoàng Tiến có chi tiết “…người kể còn sống,mà cách đây bốn năm vẫn còn gặp…” thế nhưng tại sao ông không “Công bố ngay” mà lại phải để đến tận “… vào dịp hội Đền Bà Tấm năm nay(Kỷ tỵ 1989)chúng tôi rủ nhau sang Phú Thụy dự hội”mới công bố?Thì ra vì ông đang cố gắng đưa ra những cái gọi là “chứng cứ” như “nhà thơ Lương Trúc là người cung cấp tư liệu và tất nhiên ông sẽ sẵn sàng chịu trách nhiệm …” để cho thêm phần xác tín vì thế ông mới bị lúng túng trong việc sắp xếp thời gian tính như vậy, bản thân ông Phạm Quang Hòa (Lương Trúc) sau khi từ biệt bạn để đi làm cách mạng,dẫn đến nguồn cảm hứng để Thâm Tâm sáng tác nên bài Tống biệt hành nổi tiếng thì thực tế kể từ đó họ không hề gặp lại nhau, mà Thâm Tâm thì lại mất sớm từ năm 1950,có lẽ sau này vì ân tình,vì thương nhớ bạn,ông Lương Trúc mới tìm và sưu tầm lại những tác phẩm của Thâm Tâm chăng? mà với thời gian quá lâu ngày,lại trong tình trạng loạn lạc vì chiến tranh thì chắc cũng không thiếu sự “tam sao thất bản”… Từ những dữ kiiện đã phân tích,giúp ta có thể hiểu ra rằng cả ba bài viết đã dẫn, thực ra cũng chỉ là một câu chuyện “nghe nói” được người nọ truyền tai người kia lúc trà dư tửu hậu mà thôi. Ngoài ra, theo những người bạn thân,những người có điều kiện gần gũi với nhà thơ Thâm Tâm như nhà thơ Vũ Cao(tác giả của bài thơ Núi Đôi)cùng làm báo Vệ Quốc Quân(tiền thân của báo QĐND ngày nay)cho biết thì ông “…là người có tình cảm kín đáo,nghiêm túc…ngay như bài Tống biệt hành anh,em nhắc đến Thâm Tâm rất cảm kích nhưng vốn là người khiêm tốn,anh không thích kể đi kể lại .tiếc là anh đi sớm quá lúc anh còn muốn có những bài thơ mới, khác với hơi thơ cũ…” thế thì những đoạn “đối thoại” mang nặng sự khoe khoang, mà lại với một người vừa mới quen trong bài viết của Bùi Viết Tân liệu có đáng tin không? và đây hãy xem ông Hoài Anh viết tiếp: “…Sau ngày giải phóng Thủ Đô năm 1954,tôi gặp các nhà thơ Trần Huyền Trân và Nguyễn Bính mới ra tập kết (ông mất năm 1956 tại quê nhà).Tôi kể lại việc tôi được đọc bài báo viết về mối tình của Thâm Tâm với T.T.Kh,tức bà Khánh thì (cả) hai ông đều nói (là) chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ…ít lâu sau tôi vào thư viện của Viện khoa học xã hội tại Hà Nội thì thấy tờ Tập san Nhân Loại số 108 ra ngày 11/7/1958 tại Sài gòn…thời kỳ này báo chí tại Sài Gòn thường đăng các bài viết(hoặc đăng lại) bài của các cây bút miền Bắc di cư. Vấn đề T.T.Kh lại được khai thác làm rùm beng cũng như chuyện của nhiều nhà văn khác trong số đó có không ít chuyện thất thiệt để câu khách…”

Như vậy, chỉ trong số những người được coi là “gần gũi” với Thâm Tâm nhất như Phạm Quang Hòa (nói là thơ T.T.Kh là do cô Khánh sáng tác)-Nguyễn Vỹ ( kể rằng do chính Thâm Tâm viết)-Trần Huyền Trân-Nguyễn Bính (thì bảo chưa nghe thấy chuyện ấy bao giờ )đã nói lên nhiều điều và minh chứng cho sự thiếu chính xác và thiếu cơ sở nếu như không muốn nói là bịa đặt của các thông tin về T.T.Kh trước đây,cho nên điều đó chỉ có tính cách là những tin đồn mà thôi..Chính vì tất cả những điều đã phân tích,đã dẫn chứng ở trên mà chúng ta có thể nói rằng:- Trước năm 2004 câu hỏi T.T.Kh là ai trong suốt gần 70 năm qua vẫn chưa có câu trả lời…


AI LÀ T.T.Kh ?-PHẦN 2

1-Nhà văn Thanh Châu “nút thắt” của vấn đề:

Những năm 1930-cho đến trước năm 1945 của Thế kỷ trước, song song với phong trào Thơ mới của các Thi sĩ thì “bên” văn xuôi là những tác phẩm văn học nổi bật của nhóm Văn sĩ trong Tự lực văn đoàn. Ta có thể kể tên những tác phẩm tiêu biểu như: -Hồn bướm mơ tiên,Nửa chừng xuân của Khái Hưng-Tắt lửa lòng của Nguyễn Công Hoan-Đoạn Tuyệt của Nhất Linh hay Gánh hàng Hoa của Nhất Linh-Khái Hưng.v.v…Phần lớn là của những nhà văn trong nhóm “Thất tinh”-Tự Lực Văn Đoàn gồm: -Ba anh em nhà Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh)-Nguyễn Tường Long(Hoàng Đạo) -Nguyễn Tường Lân (Thạch Lam) cùng hai anh,em Khái Hưng-Trần Tiêu và Thế Lữ,Tú Mỡ. Sau này kết nạp thêm Xuân Diệu mới gọi là “Bát tinh”-những vì sao chói sáng trên văn đàn nước nhà thời kỳ 1932-1939…Sáng tác của họ toàn là những câu chuyện tình đẫm lệ cả và những tiểu thuyết đó cũng ra đời vào khoảng thời gian trước-trong và sau “thời kỳ T.T.Kh” không lâu…Thế nhưng chẳng thấy có bất cứ nhà thơ “nặc danh” nào xuất hiện,cho dù trong tác phẩm Gánh hàng Hoa cũng có những đoạn nói về loài hoa Tigôn…Về sau tác phẩm này được chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh, còn Tắt lửa lòng được chuyển thể thành vở cải lương nổi tiếng có tên Chuyện Tình Lan và Điệp, song tất cả cũng chỉ có vậy. Thế nhưng vào tháng 7 năm 1937 sau khi tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy đăng truyện ngắn Hoa Tigôn thì một hiện tượng lạ lùng đã xảy ra.Công bằng mà nhận xét thì truyện ngắn Hoa Tigôn của nhà văn Thanh Châu so với các tiểu thuyết nêu trên còn kém xa cả về văn phong lẫn cốt chuyện,bản thân tên tuổi nhà văn Thanh Châu cũng không thể nổi tiếng bằng. Ấy thế mà thật kỳ lạ,truyện ngắn Hoa Tigôn của ông vừa mới ra đời được khoảng hai tháng thì “lập tức” xuất hiện bài thơ Hai sắc hoa Tigôn của một tác giả “nặc danh” mang mấy chữ cái T.T.Kh cứ như thể muốn “đối đáp” lại.Đến đây,chúng ta có nhận ra một điều gì đó bất thường không?.Có vẻ câu nói của một nhà khoa học:“chẳng có gì tự nhiên sinh ra…” rất phù hợp trong trường hợp này…Chúng ta đã có thể nói rằng:-Không có Truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không có bài thơ Hai sắc hoa Tigôn và 3 bài tiếp theo hoặc không có nhà văn Thanh Châu thì sẽ không có T.T.Kh.?

2-Nỗi lòng của nhà văn Thanh Châu:

Mùa thu năm 1939 (tức là một năm sau ngày T.T.Kh xuất hiện đầy đủ với 4 bài thơ) nhà văn Thanh Châu viết một tùy bút có nhan đề Những cánh hoa Tim đăng trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy (chúng ta cần biết là:-Truyện ngắn hay tiểu thuyết là có thể từ một “nguyên mẫu” nào đó có thật rồi tác giả hư cấu thêm cho hấp dẫn hoặc là hư cấu hoàn toàn như tiểu thuyết Khoa học viễn tưởng. Còn Phóng sự,ghi chép,nhật ký hay tùy bút… phải là những sự việc có thật,tác giả chỉ có thể sắp xếp lại cho có thứ tự về không gian,thời gian để “kể lại”giúp người đọc dễ hiểu mà thôi). Dưới tiêu đề Những cánh hoa Tim ông trích dẫn một câu thơ của T.T.Kh: Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ bên dưới lại trích dẫn một đoạn văn trong tiểu thuyết Gánh hàng Hoa: Hoa leo Tigôn sắc đỏ, sắc hồng,sắc trắng năm nào cũng vậy, một mùa tàn lại một mùa nở.Nó chẳng giống lòng trắc ẩn của con người. Rồi ông viết:“…Có ai để ý đến một thứ hoa của dây leo,mỏng manh và nhẹ nhàng như giấy,dáng hoa chum chúm như một thứ quả khi chưa xòe cánh?...những dây hoa tigôn đã điểm màu trắng, màu hồng, màu đỏ vào giữa đám lá xanh non và sáng sáng,có những thiếu nữ vui như bướm với những bàn tay nhẹ,gỡ dần những dây hoa ấy để thay cho những hoa hôm trước trong phòng khách đã tàn…Một mùa thu cũ,tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng đi trước một giàn hoa.Đó là thời kỳ tôi vừa ốm dậy,buổi chiều thường đi vơ vẩn trong sân…bỗng nhiên,nhìn những cánh hoa đỏ trong tay,tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu. Tôi nghĩ đến những đoạn tình duyên đau khổ ở đời.Những tiếng nức nở dài như tiếng cầm đề não nuột trong bài thơ “Thu” của thi sĩ Verlaine…buổi chiều lạnh chớm thu,đã thấy thoáng hiện ra trong đầu cái hình ảnh tưởng là mờ nhạt từ lâu của người quen cũ. Tôi nghĩ đến chia rẽ,đến phân ly,đến những bức thư cuối cùng viết vội vàng trong đêm vắng,dưới ánh nến chập chờn,trong đó người ta gói cả một tấm lòng tuyệt vọng lẫn với những cánh hoa thường tặng. Tôi nghĩ đến những xác chết trong tim mệt mỏi vì yêu của những người đàn bà có chồng,đã yên vui,đã nguôi quênVì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái.Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu …Tối hôm đó,tôi viết trong cơn sốt rét và hai tuần sau cái truyện ngắn Hoa tigôn của tôi đã in trên mặt báo sau này.Truyện có gì đâu:Một họa sỹ đi vẽ về qua làng Mọc,gặp một thiếu nữ hái hoa như tôi cũng đã từng gặp trên kia…Rồi tám,chín năm sau, lúc họa sỹ đã nổi danh mới gặp lại người xưa,người ta nhận ra nhau,thấy mến nhau và sau cùng thấy yêu nhau.Làm thế nào khác được? (người viết truyện cho là định mệnh). Họa sỹ bảo người yêu trốn đi với chàng làm lại cuộc đời, nhưng thiếu phụ là một người đàn bà yếu đuối.Phút cuối cùng nàng sợ,chẳng dám liều bước vào con đường mới mà nàng đoán rằng nguy hiểm.Nàng bị đau đớn dày vò vì đã yếu đuối và từ trần xa người yêu một buổi kia. Họa sĩ được tin,đem những dây hoa tigôn-Thứ hoa giống hình quả tim vỡ mà trước kia nàng hái ở vườn nhà,đặt trên mộ người yêu.Họa sĩ đã già mà cũng không lấy vợ. Nhưng,mỗi mùa thu, mùa hoa tigôn nở nhiều nhất, họa sĩ thường mua thứ hoa kia về để trong phòng vẽ của mình.Truyện có gì đâu? nhưng tôi viết với tất cả cảm giác trong trẻo, chân thành,tươi tốt đã có trong buổi chiều thu ấy,sau buổi đi chơi trong làng Mọc. Có lẽ vì thế,mà cách đây ít hôm, một buổi trưa,có hai người đàn bà đến thăm tôi trong lúc tôi đi vắng và để lại trên bàn những cánh hoa trong truyện.Những người đó,tôi đoán là đã lấy làm bằng lòng câu chuyện tình ảm đạm kia,mà những cành hoa để lại không ngoài cái ý nghĩa thưởng công cho người đã viết…Nhưng điều mà tôi lấy làm sung sướng nhất là cũng dạo ấy, ở tòa soạn nhận được một bài thơ đầu của bà T.T.Kh(bài thơ Hai sắc hoa tigôn) kèm với bức thư xin chữ ký của tôi.Bức thư giảng rõ vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ và bài thơ tả cái tâm sự não nùng,thầm kín của một người đàn bà đã có chồng nhớ lại tình duyên cũ.Bài thơ đó cũng là một cái truyện ngắn:-Một thiếu nữ thường đợi người yêu đến trong buổi chiều thu,dưới một giàn hoa tigôn.Người đàn ông chừng là một kẻ đã đứng tuổi và từng trải thường vuốt tóc nàng và thở dài lo sợ cho cái tương lai đen tối của hai người,trong khi vít những dây hoa ấy xuống:-Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ-Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi… và tôi thấy chán cả cái nghề viết tiểu thuyết.Bởi tôi nghĩ: Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần(thơ)réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được,còn câu chuyện của tôi,có khéo kể lắm,thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi… Được ít lâu bà lại gửi đến một bài thơ nữa… Tôi thấy một cái gì thắc mắc như là một hối hận vì đã vô tình nhắc đến một thứ hoa cũ làm rớm máu quả tim một người đã “tạm yên”.Người ta bảo có một thứ hoa gọi là “kim châm”,tiếng chữ là “liệu sầu hoa”,ăn hoa ấy thì vơi được lòng đau khổ. Lúc này tôi muốn tìm ra loài hoa ấy đem tặng tất cả những người đàn bà đáng thương ở trong cảnh éo le này: -có chồng rồi mà vẫn không quên được tình xưa…Tôi đã nghe bàn tán nhiều về T.T.Kh người ta tò mò muốn biết rõ đời riêng của người đàn bà có cái tâm sự bi thương kia. Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười…Tôi thì tôi chưa được biết mặt,biết tên thực của T.T.Kh,tôi chỉ biết rằng đó là một người đàn bà đã viết nên được những vần thơ đẹp trong lúc thực thà cảm xúc. Còn muốn gì hơn nữa? Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…

Đọc lại những gì ông viết ta có nhận thấy điều gì lạ không?Thứ nhất:-Cái hình tượng ví bông hoa Tigôn nhỏ xíu như là trái tim thì chỉ có hai người dùng là ông(trong truyện ngắn Hoa tigôn). Ông viết: “…Hoa Tigôn hình quả tim vỡ làm mấy mảnh,màu hồng dịu như nhuốm máu đào…” và T.T.Kh: - Bảo rằng:Hoa dáng như tim vỡ… (nên nhớ tác phẩm Gánh hàng hoa xuất bản trước truyện ngắn Hoa Tigôn hơn một năm-tức là từ đầu năm 1936, cũng có nhiều đoạn tả về hoa Tigôn, kể cả đoạn ông đã trích dẫn ở trên thì cũng không có một lần nào “khám phá” ra được hình trái tim như T.T.Kh và ông đã viết). Thứ hai:-Thực ra,ngoài các chi tiết cùng tả về những cánh hoa Tigôn thì“cốt chuyện”của truyện ngắn so với câu chuyện “kể” trong 4 bài thơ của T.T.Kh chỉ Giống nhau ở một sự kiện duy nhất “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi”-có nghĩa là các nhân vật không có được hạnh phúc lứa đôi hay nói cách khác là họ lấy chồng mà không phải vì tình. Còn một bên là hai người đã yêu nhau nhưng không lấy được nhau (T.T.Kh) đằng kia là mới nhìn thấy nhau vài lần, rồi gặp lại khi cô gái đã có chồng rồi mới yêu nhau (mà ở câu chuyện này rõ ràng chỉ là một sự ngoại tình vốn không được chấp nhận,nhất là với xã hội đương thời)…Thế thì ông Thanh Châu dựa vào “nguyên mẫu” nào mà cho rằng“cùng một mối cảm” một cách giản đơn như vậy?trong khi trước và cùng thời gian đó có nhiều truyện đăng báo hay tiểu thuyết còn lâm ly hơn Hoa tigôn của ông Thanh Châu nhiều,đã thế cốt chuyện cũng không khác “của T.T.Kh” là bao (ví dụ như Đoạn Tuyệt của Nhất Linh)tại sao thế?Tại sao chỉ khi Hoa Tigôn ra đời thì mới xuất hiện T.T.Kh?.Thứ ba: -Nếu hoàn toàn là người ngoài cuộc,tức là chẳng biết gì về “đối tượng” thì dựa vào đâu để ông “bênh” người ta đến thế: Người ta thêu dệt nên nhiều chuyện buồn cười và Sao người ta lại cứ muốn làm nhơ bẩn tất cả những gì gọi là trong sạch ở trong cõi đời này?…”trong khi những người “bị” đồn đại lại toàn là nhà thơ tầm cỡ đương thời như Thâm Tâm,như Nguyễn Bính thì cũng có gì đáng gọi là muốn làm nhơ bẩn…như ông Thanh Châu đã viết khá nặng lời? Có điều gì đó bất thường ở đây chăng?

Chúng ta lấy ví dụ thế này: -Mọi người ở các lớp khác cứ khăng khăng khẳng định là bạn A hay đánh nhau và quay cóp trong lớp,các bạn ở lớp khác nghe thì cũng chỉ biết vậy, nhưng nếu ta lại học cùng lớp với bạn A,nhất là lại ngồi gần nhau nữa thì rõ ràng thấy bạn ấy chẳng những không bao giờ quay cóp mà còn chẳng bao giờ đánh nhau với ai,vậy khi nghe được chuyện đó,đương nhiên là ta sẽ bênh bạn mình vì hoàn toàn chắc chắn không sợ người khác bảo là bênh lấy được, cộng với tâm lý thường tình mà ta muốn chứng minh là mọi người đừng có mà “thằng chết cãi thằng khiêng” thì cũng hoàn toàn hợp lý….Thứ tư:-Nội dung của bức thư,ngoài vài câu ông đã tiết lộ thì có vẻ ông viết bài tùy bút này dường như là để nhằm “thanh minh” với ai đó và ông cũng như muốn an ủi ai đó, vì thế mà ông mới thấy … như là một hối hận …chúng ta tạm dừng ở đây để chờ những dữ kiện khác ở các phần sau thì sẽ quay lại phân tích thêm cho rõ phần “lạ lùng”còn lại.

3-Chuyện tình đời thực của nhà văn Thanh Châu:

Nhà văn Thanh Châu (sinh năm 1912)tại thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa) trong một gia đình dòng dõi quan lại, nhưng đến đời ông thì gia cảnh sa sút. Vì thế cuộc sống của gia đình ông khá là chật vật. Ông có người bạn, gia đình có cơ sở kinh doanh buôn bán khá lớn ở Thanh Hóa thời bấy giờ nên kinh tế khá giả hơn gia đình ông rất nhiều, khi cả hai cùng lớn lên vào thời thanh niên thì họ cũng ít có cơ hội gặp nhau,vì người bạn là con trai trưởng nên phải gánh vác việc làm ăn của gia đình đang hồi thịnh vượng…trong một lần đi chung chuyến tàu từ Hà Nội về Thanh Hóa ông gặp lại bạn mình đi cùng cô em gái. Cuộc gặp gỡ định mệnh này đã khởi đầu cho một mối tình đắm say và cũng không ai ngờ rằng nó lại có kết thúc đầy nước mắt và cay đắng về sau…Trở về Thanh Hóa, hai người tiếp tục qua lại với nhau và tình cảm ngày càng thắm thiết và đầy lãng mạn. Gia đình hai bên cũng đều biết việc này. Nhưng cuộc tình duyên không thể đi đến đoạn kết có hậu vì vấn đề “môn đăng-hộ đối” bởi gia cảnh đôi bên là quá khác nhau…Sau cú “sốc” này, Thanh Châu bỏ ra Hà Nội sinh sống, viết văn. Người yêu ông ở lại quê nhà và một thời gian sau thì (phải) lấy chồng. Ở ngoài Hà Nội một thời gian, ông nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết người con gái ông yêu chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng…Từ đó Thanh Châu không bao giờ còn gặp lại người yêu xưa nữa cho đến bốn mươi năm sau,khi Đất nước thống nhất, ông mới vào Sài Gòn để tìm gặp lại Cố Nhân.…


AI LÀ T.T.Kh ?-PHẦN 3

1-Nhà văn Thanh Châu có liên quan gì với T.T.Kh?:

T.T.Kh đã viết nên những bài thơ tình bất hủ về một tình duyên ngang trái,nhưng ai mới là người đã làm cho nàng phải đớn đau đến tột cùng để đến nỗi dám vượt qua cả sự sợ hãi vô hình lẫn hữu hình của vòng lễ giáo mà thốt lên những vần thơ thấm đẫm nước mắt ấy? Ai đã làm cho nàng tan nát cõi lòng trong cái ngày lẽ ra phải là ngày vui nhất của đời người con gái: “Người xa xăm quá,tôi buồn lắm-Trong một ngày vui pháo nhuộm đường” ?. Đây là một câu hỏi quan trọng,nếu giải đáp được câu hỏi này là ta sẽ có được “chìa khóa” để mở ra cánh cửa đi sâu vào những ngóc nghách của câu chuyện bí ẩn này.T.T.Kh viết: Buồn quá hôm nay xem tiểu thuyết

Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai.

Khi xem xét thật kỹ cả bài thơ Hai sắc hoa Tigôn và bốn câu thơ trên, ta sẽ thấy rằng ở khổ thơ đầu dường như nàng đã cố tình làm ra vẻ “nhầm lẫn” khi viết:Thấy ai cũng ví..sau khi xem tiểu thuyết nhưng thực ra là để che giấu điều mà nàng cũng đã biết,đã nhận ra “người quen” qua hình tượng “…chum chúm hình quả tim vỡ,đỏ hồng như nhuộn máu đào” của loài hoa Tigôn miêu tả trong truyện ngắn và với hai khổ thơ sau thì nàng lại như ngầm nói với tác giả rằng:-Nàng không nói bâng cua đâu và nàng chỉ tưởng nhầm Thấy ai cũng ví nếu như loài hoa ấy không phải là những cánh Tigôn mà thôi,chính cái từ Nhưng ấy đã cho chúng ta biết điều đó. Từ những phần trước,ta đã biết nếu không có nhà văn Thanh Châu thì đã không có T.T.Kh hay nói cụ thể hơn là nếu không có truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không có bài thơ Hai sắc hoa tigôn và các bài thơ tiếp theo… Đặt hai tác phẩm trên cạnh nhau,điều dễ nhận thấy đầu tiên là bài thơ như muốn “họa” lại truyện ngắn từ hình thức cho đến nội dung.Bắt đầu là cái tiêu đề: Hoa Tigôn-Hai sắc hoa tigôn .Truyện ngắn mở đầu bằng hình ảnh ông họa sĩ già ngày nào cũng ngẩn ngơ bên những cánh hoa dường như để hồi tưởng lại những ngày tháng êm đềm đã mất…chuyện tình thơ cũng bắt đầu “kể lại” những kỷ niệm êm đềm với loài hoa có cái tên “tây” ấy(vì tiêu đề đã nói rõ là …hoa tigôn nên ở trong những câu thơ không nhắc lại tên hoa nữa):

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương

Cũng từ những phần trước ta đã nhận thấy trước và trong “giai đoạn T.T.Kh” không có bất cứ ai dùng hình tượng “Trái tim” hay “Trái tim vỡ” để chỉ hoa tigôn như nhà văn Thanh Châu và T.T.Kh đã dùng! Câu hỏi được đặt ra là vì sao mà câu chuyện của Thanh Châu và T.T.Kh đều chỉ xoay quanh cái chi tiết “Trái tim vỡ” ấy? Vì lẽ gì mà cánh hoa tigôn lại ám ảnh hai người đến như vậy? Truyện ngắn Hoa tigôn có đoạn: “…trong thư,một dây hoa tigôn nhỏ ép rơi ra: những nụ hoa chum chúm hình quả tim vỡ,đỏ hồng như nhuộm máu đào…” và đây bài thơ viết:

“…Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm phai.

Về phần mình, cũng trong tùy bút Những cánh hoa Tim ông viết: Người đàn ông chừng là một kẻ đã đứng tuổi và từng trải thường vuốt tóc nàng và thở dài lo sợ cho cái tương lai đen tối của hai người,trong khi vít những dây hoa ấy xuống…đây là đoạn nhà văn Thanh Châu đang bình luận về bài thơ Hai sắc hoa tigôn của T.T.Kh,chúng ta tìm khắp tất cả bốn bài thơ đã đăng báo cũng không hề thấy cái chi tiết “…trong khi vít những dây hoa ấy xuống” nằm ở đâu? Phải chăng là ông đang hồi tưởng lại những tháng,ngày ở bên người yêu dưới một giàn hoa tigôn trong sân nhà nàng mà T.T.Kh cũng đã viết trước đó:- “Dưới giàn hoa máu tiếng mưa rung” trong Bài thơ cuối cùng…?

Hay là ông đã khéo tưởng tượng ra “cảnh” này trong khi đang bồi hồi xúc động? Nhưng, như chúng ta cũng đã biết,thể loại tùy bút đâu có cho phép nhà văn hư cấu hay thêm,bớt về một sự kiện nào đó không có thật? Điều đó nói lên rằng có lẽ nhà văn Thanh Châu cũng đã nhận ra“Người xưa” khi đọc những bài thơ ấy khiến ông hồi tưởng như một cuốn “phim đời” chiếu lại mà viết ra như thế chăng?

Hoa tigôn nhỏ bé,loài hoa hình trái tim hầu như luôn hiện diện trong câu chuyện tình buồn này,nó như rụng đầy ở khắp mọi nơi, ở mọi không gian,thời gian mà câu chuyện tình nhắc đến. Trong truyện ngắn,mở đầu là chàng họa sĩ gặp người con gái sáng sáng bắc ghế hái những chùm hoa tigôn để lại trong lòng chàng một tương tư thầm kín cho đến khi hai người gặp lại và bắt đầu một mối tình đắm say và cuối cùng nhận được thông điệp của bi kịch tình yêu là một phong thư báo tang viền đen kèm theo một dây hoa tigôn…Còn trong bài thơ, cánh hoa từ chỗ là niềm vui, niềm mong đợi của người con gái “Tôi chờ người đến với yêu đương” cho đến khi kết thúc một cuộc tình:

“… Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng”

Cho nên nếu có đặt lại tên “Bí ẩn văn chương T.T.Kh” này thành “Bí ẩn tình thơ Hoa tigôn” quả là cũng không sai. Nhưng, như chúng ta cũng đã biết hơn 70 năm về trước thời còn tư tưởng phong kiến rất nặng nề,việc yêu đương trai gái là việc ít được bộc lộ công khai chứ đừng nói là lại làm thơ than vãn cho một tình yêu bẽ bàng của chính mình mà lại dám công khai danh tính trong khi đã có chồng,dù cho tác giả đã “tây” hóa rất nhiều qua những vần thơ mang tư tưởng “tân thời”này (có lẽ ngay cả thời hiên đại cũng vậy thôi) mặt khác,nếu như sau khi truyện ngắn Hoa Tigôn ra đời mà chỉ có duy nhất bài thơ Hai sắc hoa tigôn thì chúng ta còn có thể cho rằng:- chắc là có “ai đó” xúc động vì câu chuyện đọc được mà “cảm thán” làm ra bài thơ để cho vơi bớt nỗi lòng…nhưng thực tế là đã có tất cả những bốn bài thơ, mà các bài thơ đó đều ít,nhiều liên quan đến nhau thì câu chuyện đã trở nên “rất thật” rồi. Lại có người vì vốn dĩ hay nghi ngờ kiểu “đa nghi Tào Tháo”mà cho rằng chắc có ai đó làm ra những bài thơ đối đáp với câu chuyện của nhà văn Thanh Châu cho thêm phần ly kỳ để bán báo. Ta thấy ngay rằng nhận định trên là hết sức vớ vẩn và nông cạn,vì nếu không có cảm xúc thật sự, hay nói cách khác là nếu không có “tâm sự buồn” lại ở trong một hoàn cảnh đặc biệt thì không thể có được những bài thơ như cào xé tâm can đến như thế ,nếu mà cứ “vui như tết” hoặc là loại thơ “đặt hàng” thì chỉ sản sinh ra được những bài thơ như “hô khẩu hiệu” mà thôi,ngay cả những bài thơ tình bất hủ được cho là “lãng mạn cách mạng” cũng đều xuất phát từ những kết cục buồn,hay từ những ước mơ chưa thành… ví dụ:-Bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao hay bài Đợi anh về của ximônôv…đưa thêm ví dụ thì nhiều vô kể,dẫn chứng ra chỉ làm mất thì giờ của bạn đọc. Từ những điều nêu trên,việc T.T.Kh dấu kín danh tính và nhà văn Thanh Châu tôn trọng điều đó của tác giả đã trở nên dễ hiểu,vì thế ông mới viết “… kèm với bức thư xin chữ ký của tôi.Bức thư giảng rõ vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ…” thế thôi chứ không chịu tiết lộ gì thêm về nội dung bức thư mà chỉ có một mình ông biết. Chi tiết xin chữ ký có lẽ cũng chỉ là một động tác giúp “đánh lạc hướng” để cho mọi người tin rằng tác giả thơ giống như một người tỏ lòng ngưỡng mộ tới tác giả truyện ngắn và ngầm “thanh minh” rằng hai người chẳng có “liên quan” gì với nhau hơn là để nhằm “xác định” chắc chắn tác giả của truyện ngắn là ai của tác giả những bài thơ? Như đã phân tích ở các phần trước chúng ta thấy rõ ràng là nếu không có truyện ngắn Hoa Tigôn thì sẽ không thể có bài thơ Hai sắc hoa tigôn và nếu chỉ đơn giản là “…vì sao nẩy ra thi hứng viết nên bài thơ…” thì có lẽ cũng chỉ cần một bài thơ đầu là đủ,đằng này lại là những ba bài thơ (chưa tính Bài thơ đan áo) với nhiều hàm ý vừa trách móc vừa thở than vừa nuối tiếc đến như vậy để làm gì và tại sao?Vì nếu không phải ít nhất là “người quen” thì có ai lại làm như vậy không? Đến đây ta đã có thể hiểu ra rằng nhà văn Thanh châu chính là “người quen” của T.T.Kh vì thế sau bài thơ đó mới có hai bài thơ tiếp theo gửi đăng ở tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy.

2-Người yêu của T.T.Kh có thể là ai?:

Vì đã nhận ra “người quen” rồi cho nên bài thơ thứ hai gửi đăng báo mới viết tiếp điều mà Hai sắc hoa tigôn chưa tiện nói hết,như một lời nhắn nhủ: Từ đấy không mong không dám hẹn

Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.

Bởi nếu không “…Vẫn nhớ em” thì viết ra truyện ngắn Hoa tigôn “nhắc lại” tình yêu cũ (qua hình tượng Hoa tigôn-Trái tim vỡ…) để làm gì? Và cũng trong bài thơ này T.T.Kh không chỉ nhìn nhận những cánh hoa Tigôn với vẻ lãng mạn u buồn của nó mà còn có vẻ giận hờn người đã “vô tình” nhắc đến cánh hoa xưa,khiến lòng Nàng thêm tan nát:

Đang lúc lòng tôi muốn tạm yên
Bỗng ai đem lại cánh hoa tim
Cho tôi ép nốt dòng dư lệ
Nhỏ xuống thành thơ khóc chút duyên.

Từ những câu thơ có tính chất thăm dò và tương đối kín kẽ để không làm lộ mối quan hệ, thế rồi diễn biến của tình cảm khi nhớ lại duyên xưa. Nàng đánh liều khi đối thoại “trực tiếp”như một lời nhắc khéo và cũng là để thanh minh cho sự “lên tiếng” của mình:

Viết đoạn thơ đầu lo ngại quá
Vì tôi còn nhớ hẹn nhau xưa:
-“Cố quên đi nhé câm mà nín
Đừng thở than bằng những giọng thơ”.

Thế nhưng, mãi rồi cũng không thể dằn lòng được nên Bài thơ Cuối cùng đã làm nàng “lộ tẩy”:

Đã lỡ thôi rồi chuyện biệt ly
Càng khơi càng thấy lụy từng khi
Trách ai mang cánh “ti gôn” ấy
Mà viết tình em được ích gì?

Hóa ra nàng đã thừa nhận tác giả của truyện ngắn Hoa Tigôn không phải là “người dưng”,bởi nếu không có quan hệ gì thì sao nàng lại vô cớ đi trách “người ta”?

“Chúng tôi đã có dịp nói chuyện với nhà văn Thanh Châu và chỉ ra với ông chỗ này. Nhà văn Thanh Châu cũng hoàn toàn đồng ý với chúng tôi rằng quả thật câu thơ của T.T.Kh đã có hàm ý trách ông”-(Trần Đình Thu).

Đến đây ta có thể kết luận rằng nhà văn Thanh Châu chính là nhân vật “Ai” và quan hệ giữa tác giả truyện ngắn và tác giả thơ không phải là mối quan hệ “người dưng” mà ít nhất phải là người đã biết rõ về câu chuyện tình ngang trái của nàng…Thế nhưng,trong thơ của T.T.Kh không chỉ có mỗi nhân vật “Ai” mà còn có cả nhân vật “Anh” nữa, không lẽ có những hai nhân vật khác nhau?.Ta hãy đọc những đoạn thơ mà nàng cũng “trực tiếp” đối thoại với người yêu của mình:

Anh hỡi,tháng ngày xa quá nhỉ?
Một mùa thu cũ một lòng đau
Ba năm ví biết anh còn nhớ
Em đã câm lời có nói đâu.

Cũng như những lời tự sự sau này của nhà văn Thanh Châu trong bài tùy bút Những cánh hoa tim: “…tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu…và…Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu… Lúc này tôi muốn tìm ra loài hoa ấy đem tặng tất cả những người đàn bà đáng thương ở trong cảnh éo le này: -có chồng rồi mà vẫn không quên được tình xưa…” và ý nàng cũng như muốn trách: -Sao anh lại quên “lời hẹn” cũ mà viết câu chuyện tình của chúng mình làm gì cho thêm đau đớn lòng nhau thế này và phải chăng hình ảnh cô đơn của ông họa sĩ già ... cứ đến mùa hoa Tigôn nở,không buổi sáng nào ông quên mua một ôm về thay thế hoa cũ trong phòng vẽ,vì thứ hoa ấy chóng tàn. trong truyện ngắn Hoa Tigôn đã ám ảnh nàng,nên T.T.Kh mới viết,như một lời nhắn nhủ tới người yêu xưa?:

Đẹp gì một mảnh lòng tan vỡ
Đã bọc hoa tàn dấu xác xơ
Tóc úa giết dần đời thiếu phụ
Thì ai trông ngóng chả nên chờ.

Và:

Ngang trái đời hoa đã úa rồi
Từng mùa gió lạnh sắc hương rơi
Buồng nghiêm thờ thẫn hồn eo hẹp
Đi nhớ người không muốn nhớ lời.

Thế rồi, vì ở trong một tâm trạng bối rối, nàng đã không còn giữ được bình tĩnh nữa mà quên cả việc giữ gìn danh phận nên mới “nói toạc” ra :

Năm lại năm qua cứ muốn yên
Mà phương ngoài gió chẳng làm quên
Mà người vỡ lở duyên thầm kín
Lại chính là anh,anh của em.

Như vậy là đã rõ, hai nhân vật “Ai” và “Anh” chỉ có thể là một người! hay nói cụ thể hơn là nhà văn Thanh Châu chính là Người yêu của T.T.Kh ! mà có lẽ cũng chẳng cần phải bình luật gì thêm.

3-Về “Bài thơ đan áo” của T.T.Kh:

Như chúng ta đã biết,bài thơ này tác giả viết gửi cho một người chị nào đó để nói lên cảnh ngộ của mình như một hình thức “tựa lên vai chị mà khóc cho vơi nỗi lòng”:

Chị ơi,nếu chị đã yêu
Đã từng lỡ hái ít nhiều đau thương…

Và:

Hay chăng chị mỗi chiều đông
Đáng thương những kẻ có chồng như em…

Một điều quan trọng nữa là ngoài người chị ra thì người yêu của T.T.Kh cũng được biết hay nói đúng hơn là cũng được tặng bài thơ này,ta hãy đọc mấy câu trong Bài thơ cuối cùng:

Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em

Đây là câu chuyện tình duyên ngang trái,yêu mà không lấy được nhau chứ không phải là sự phụ tình của một phía,vì thế việc gửi tặng đồng thời bài thơ nói lên nỗi lòng mình cho người yêu thấu hiểu cũng là điều bình thường và hợp lý (bài thơ này chắc chắn phải được làm trước ba bài thơ kia một thời gian khá lâu).Chẳng thế mà khi tình yêu tan vỡ nàng cũng có hận gì người mình yêu đâu,nàng trách mà cứ như là không trách:

Thuở trước hồn tôi phơi phới quá
Lòng thơ nguyên vẹn một làn hương
Nhưng nhà nghệ sỹ từ đâu lại
Êm ái trao tôi một vết thương.

Vì suy cho cùng trong cuộc tình duyên ngang trái này cả hai đều không có lỗi:

Như con chim nhốt trong lồng
Tháng ngày than tiếc ánh hồng nơi nao
Ngoài trời hoa nắng xôn xao
Ai đem khóa chết chim vào lồng nghiêm
Ai đem lễ giáo giam em
Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời…

Chúng ta dừng lại một chút để tìm hiểu về cái từ “nhà nghệ sỹ”:-Ngày xưa nhà văn, nhà thơ,nhạc sỹ,họa sỹ…hay được gọi chung là văn nghệ sỹ hay nghệ sỹ còn diễn viên,ca sỹ,nhạc công…lại gọi chung là Tài tử (ví dụ ca sĩ Ngọc Bảo thì lại gọi là tài tử Ngọc Bảo).

Quay lại với câu chuyện Bài thơ đan áo,câu hỏi được đặt ra là:-Điều gì đã làm cho T.T.Kh tỏ ra mất bình tĩnh và giận dữ khi Bài thơ đan áo xuất hiện trên Phụ nữ Tân văn khiến cho nàng phải viết tiếp Bài thơ cuối cùng để trách móc người mình yêu:

Chỉ có ba người đã đọc riêng
Bài thơ đan áo của chồng em
Bài thơ đan áo nay rao bán
Cho khắp thiên hạ thóc mách xem

Và dường như vì một điều gì đó đã xảy ra, khiến không thể tự kìm chế,Nàng hơi nặng lời:

Từ đây anh hãy bán thơ anh
Còn để yên tôi với một mình
Những cánh hoa lòng,hừ đã ghét
Thì đem mà đổi lấy hư vinh.

Rõ là giận quá mất khôn nên nàng “quên” mất là chính nàng đã gửi 2 bài thơ đăng báo Tiểu thuyết thứ bảy từ trước đó(dù không lấy nhuận bút) thì báo họ in ra khẳng lẽ đi phát không mà không đem bán? hơn nữa bài thơ lấy tên mình chứ đâu có mang tên “người ta” mà nàng lại bảo là đổi lấy hư vinh?.Điều này chỉ có thể giải thích rằng nàng giận là vì chàng đã lỡ “cho” đi “tặng phẩm” mà nàng chỉ tặng riêng chàng và người chị (Nàng dễ dàng khẳng định ai là người tiết lộ bài thơ trên bằng cách hỏi người chị,có gì là khó?). Ta hãy lấy ví dụ ngày nay, bạn tặng người yêu một món quà,nhưng người ấy không dùng mà lại đem cho người khác,khi biết chuyện thì liệu bạn có dễ dàng bỏ qua không?huống hồ là bài thơ này lại còn chứa đựng hầu như mọi “sự thật”về đời sống hiện tại của nàng cũng như nguyên nhân đã làm tan vỡ cuộc tình của hai người, khi công khai rất dễ làm cho nàng bị lộ diện cho nên với tâm lý của người “trong cuộc” lại mang tâm trạng “thần hồn nát thần tính” khi sống trong vòng lễ giáo phong kiến thì nàng vừa sợ vừa bực mình cũng là điều dễ hiểu:

Tôi oán hờn anh mỗi phút giây
Tôi run sợ viết bởi rồi đây
Nếu không yên được thì tôi chết
Đêm hỡi,làm sao tối thế này?

Rồi như một tiếng thở dài để chia tay vĩnh viễn một mối tình đã không thể cùng nhau đi đến đoạn kết cuối cùng,nàng nhắn nhủ:

Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng

Nhưng điều làm cho nàng lo sợ rồi cũng không thể lấn át đươc tình cảm gần như vẫn còn nguyên vẹn mà nàng đã dành cho người mình yêu,rằng “giận thì giận,mà thương vẫn thương” T.T.Kh viết:

Tôi biết làm sao được hỡi trời
Giận anh không nỡ nhớ không thôi
Mưa buồn mưa hắt trong lòng ướt
Sợ quá đi anh,có một người…

Một câu hỏi nữa lại phải được đặt ra:-Vậy mục đích của ông Thanh Châu “tiết lộ” trên báo Bài thơ đan áo để làm gì? Trước tiên ta có thể khẳng định rằng cái bút danh T.T.Kh khi gửi đăng báo Phụ nữ Tân văn(Phụ nữ thời đàm-ở phố Hội Vũ-Hà Nội) không phải của tác giả bài thơ (trong nguyên bản bài thơ đem tặng) mà là do ông Thanh Châu. Vì là người “trong cuộc” được tặng bài thơ từ trước và biết rõ tác giả là ai nên mới lấy đúng theo bút danh của hai bài thơ đã đăng.Tại sao lại dám khẳng định điều đó? Đơn giản là bài thơ này chỉ tặng duy nhất có hai người thân thiết nhất,gần gũi nhất,tin cậy nhất thì việc gì mà phải dùng bút danh(trừ phi tác giả đã là một nhà thơ chuyên nghiệp và có tiếng tăm)?.Tuy nhiên, việc ai đã lấy bút danh đó không quan trọng bằng trả lời được câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại đi tiết lộ bài thơ của người yêu tặng mình? Ta chỉ có thể lý giải được rằng, khi đọc hai bài thơ đầu là Hai sắc hoa tigônBài thơ thứ nhất chúng ta cũng chỉ “thấy” được một tình yêu say đắm nhưng lỡ làng chứ không hề biết được nguyên nhân nào dẫn đến bi kịch ấy của tình yêu đôi lứa đã làm trái tim người con gái nát tan,thì đây:-Bài thơ đan áo đã cho biết điều đó,không những thế nó còn cho biết tâm tư tình cảm cũng như cuộc sống “thật” sau ngày phải lấy chồng của người con gái ấy và trong những ngày ôm nỗi buồn nơi đất khách quê người với nỗi nhớ khôn nguôi ông cảm thán mà viết ra câu chuyện của đời mình (tất nhiên không thể viết đúng nguyên mẫu vì còn phải giữ cho người mình yêu đã có chồng) và khi nhận ra hai bài thơ của người yêu cũ gửi đăng báo,ông muốn mọi người hiểu đúng nguyên nhân thực sự của cuộc chia ly với tình yêu của tác giả mà vẫn không làm lộ danh tính như “tìm” một sự đồng cảm và chia sẻ của cuộc đời, cũng như ngầm bác bỏ mọi đồn đoán vô căn cứ (thời gian này vốn đã có rất nhiều đồn đoán về xuất xứ của bài thơ Hai sắc hoa tigôn như chúng ta đã biết) ý định tốt đẹp đó vô tình đã làm người ông yêu hờn dỗi vì ông đã “cho” đi “kỷ niệm xưa” của hai người,còn điều lo sợ có lẽ cũng chỉ mang nặng sự “có tật giật mình”của người trong cuộc mà thôi….

Đỗ Thế Cường
Ngày đăng: 11.07.2012

nguồn_vanchuongviet.org:http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18901
---------------------------------------------------------------------------------
75 Năm Câu Chuyện Tình Buồn : KHÁM PHÁ BÍ ẨN: AI LÀ T.T.Kh? -3
Đỗ Thế Cường

AI LÀ T.T.Kh ?

-PHẦN 4

1-T.T.Kh Thật sự là ai? :

Từ các phần trước chúng ta đã biết được xuất xứ và nguyên nhân của sự “xuất hiện” những bài thơ của tác giả T.T.Kh cùng những sự kiện liên quan…Chỉ còn lại một “ẩn số” quan trọng nhất là câu hỏi: T.T.Kh thật sự là ai? Để trả lời cho câu hỏi đó, chúng ta cần phải đặt ra một số “tiêu chuẩn” tối thiểu cần phải có cho “ứng viên”:

a/Phải xuất thân từ một gia đình khá giả (thì mới là “nạn nhân” của vấn đề môn đăng-hộ đối)

b/Được học hành theo lối “tân học” (thì mới chịu ảnh hưởng của nền thơ Pháp như phong trào “thơ mới” đương thời và phù hợp với “giọng thơ”của 4 bài thơ đã đăng báo)

c/Là người yêu của nhà văn Thanh Châu

Như chúng ta đã biết ở phần trước về tình yêu ngoài đời thực của nhà văn Thanh Châu và lý do tại sao hai người yêu nhau mà lại không lấy được nhau…chỉ còn tên của người yêu ông cũng như gia cảnh,sự nghiệp của Bà là chúng ta chưa biết…Người đó là bà Trần Thị Vân Chung sinh năm 1919 trong một gia đình buôn bán khá giả tại thị xã Thanh Hóa (nay là thành phố Thanh Hóa) Bà là con gái thứ ba trong gia đình có tám anh, em (ba trai,năm gái) trên Bà còn một chị gái và anh trai cả chính là bạn của nhà văn Thanh Châu...Cũng như ông Thanh châu,trước Bà có theo học trường Cao đẳng tiểu học Vinh,còn ông Thanh Châu sau đó ra Hà Nội học tiếp trường Đạo và bắt đầu sự nghiệp văn chương trong thời gian này,sau đó một thời gian ông gặp lại bà trong một chuyến tầu từ Hà Nội về Thanh Hóa,bắt đầu cho một mối tình dang dở như chúng ta cũng đã biết…chồng bà là một cử nhân luật, sau này (trước năm 1945) có thời gian làm quan tri huyện rồi cả gia đình di cư vào Miền nam sinh sống,về văn chương bà Vân Chung thường hay làm thơ,viết văn với bút danh là Vân Nương hoặc Tam Nương. Bà tham gia nhóm thơ Quỳnh Dao cùng với nữ sĩ Mộng Tuyết, Tôn Nữ Hỷ Khương, Việt Nữ, Như Hiên…cùng nhau xướng họa như một sinh hoạt tinh thần và cũng có vài bài thơ đăng báo thời kỳ trước năm 1975…năm 1986 Bà cùng các con sang Pháp định cư cho đến nay và vẫn tiếp tục làm thơ, đăng trên các tạp chí tiếng Việt ở nước ngoài…

“Đây là thông tin được chính nhà văn Thanh Châu xác nhận-một điều trước nay chưa từng được tiết lộ bởi người trong cuộc” (trong lần tác giả Trần Đình Thu gặp nhà văn Thanh Châu) cũng như được bà Vân Chung “gián tiếp” xác nhận(trong hai bức thư ngỏ viết tại Pháp ngày mùng 1/10/1994 và 4/11/1994 gửi cho bà Thư Linh đồng thời đăng trên báo Thanh Niên và tạp chí Nguyệt san văn hóa tp.HCM số cuối năm 1994). Cả hai người trong cuộc chỉ đều xác nhận rằng:-Họ chính là người yêu của nhau thuở trước,cũng như hoàn cảnh,sự nghiệp của hai người chứ không hề tiết lộ ai là T.T.Kh hay ai là người yêu của T.T.Kh.

Đó cũng là điều hết sức bình thường và dễ hiểu ở lớp “người xưa” và có nhân cách.Như vậy,so với “tiêu chuẩn” tối thiểu cần phải có theo lôgich của sự việc mà ta đặt ra để phục vụ cho việc “điều tra” bí ẩn văn chương này thì rõ ràng là đã vượt quá cả sự mong đợi vì trên thực tế ngoài cả ba “tiêu chuẩn” trên đều đạt thì bà Vân Chung còn là một thi sĩ…

Bây giờ, từ những thông tin xác thực ngoài đời về mối tình của hai người trong cuộc, chúng ta cùng so sánh với những câu “chuyện thơ” của T.T.Kh xem có gì “tương ứng” không?:

-Sau khi học xong tiểu học Vinh,ông Thanh Châu ra Hà Nội tiếp tục học trong trường Đạo và bắt đầu sự nghiệp văn chương từ giai đoạn này,trên chuyến tàu “định mệnh” ông gặp lại bạn mình đi cùng cô em gái chính là bà Vân Chung,bắt đầu cho một mối tình đầy lãng mạn và đắm say,những buổi chiều tà thường khi vẫn làm cho ta có cái cảm giác thẫn thờ của những nỗi buồn không tên,ấy thế mà người con gái đang yêu lại không bị ám ảnh bởi điều đó mà thay vào là một tâm trạng hồi hộp chờ đợi người yêu tới,một cô gái mới lớn với tình yêu đầu đời thì cảm xúc này của bà Vân Chung khi ấy(nếu có)cũng là rất thật vậy và T.T.Kh cũng như muốn “chia sẻ” cảm xúc của mình:

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương.

-Sống trong một xã hội còn tư tưởng phong kiến rất nặng nề, không phải là ông Thanh Châu không ý thức được gia cảnh nhà mình nếu so với gia cảnh người yêu về vấn đề “môn đăng-hộ đối” phải chăng vì thế mà ông mới “nói” (qua “lời kể” của T.T.Kh) và câu thơ cũng rất trùng khớp với hình ảnh của một người “đứng tuổi” thường vuốt tóc nàng vì trên thực tế ông hơn bà 7 tuổi mà với ngày xưa đã là một khoảng cách khá lớn:- Người ấy thường hay vuốt tóc tôi

Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng:-“Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi”

-Bà Vân Chung khi đó còn trong lứa tuổi đầy mộng mơ nhìn đời toàn thấy mầu hồng thì làm sao mà ngờ được sẽ có ngày cuộc tình đẹp như mơ ấy lại trở nên vô vọng,chia ly? Và ta thấy T.T.Kh cũng đã viết:

Thuở ấy nào tôi đã hiểu gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp:“Màu hoa trắng
Là chút lòng trong chẳng biến suy”

-Mới một mùa thu trước Vân Chung còn sống trong mơ mộng cùng mối tình đầy lãng mạn đầu đời, thế rồi vì Người đó mách anh Chấn nhà chị,sau đó gia đình đi hỏi.Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn…điều mà trước đây không bao giờ ngờ tới thì nay đã thành sự thật,cho nên bà đành phải gạt lệ để ngậm ngùi tiễn biệt người yêu ngược về một phương trời khác, và đây T.T.Kh viết:

Tai ác ngờ đâu gió lại qua
Làm kinh giấc mộng những ngày hoa
Thổi tan tâm điệu du dương trước
Và tiễn người đi bến cát xa.

-Sau khi đành phải nuốt lệ chia ly với mối tình đầu,ông Thanh Châu đã bỏ ra Hà Nội lập nghiệp, bà Vân Chung ở lại quê nhà nếu vẫn còn thầm tưởng nhớ tới người xưa bằng những hình tượng vô cùng lãng mạn của người con gái đang yêu thì cũng là rất đời thường và quả là phù hợp với mấy câu thơ:

Ở lại vườn Thanh có một mình
Tôi yêu gió rụng lúc tàn canh
Yêu trăng lặng lẽ rơi trên áo
Yêu bóng chim xa nắng lướt mành.

Ngày xưa,không biết do đâu mà các Cụ nhà ta hay dùng lối nói tắt địa danh,ví dụ Hải Phòng thì hay gọi là Phòng (đi tầu Phòng,đợi tầu Phòng…) vì thế chi tiết Vườn Thanh có lẽ cũng chỉ là một cách nói hoa mỹ để chỉ địa danh Thanh Hóa,cũng như dùng từ Xứ Thanh mà thôi.

-Đọc lại truyện ngắn Hoa tigôn ta thấy có chi tiết Chàng họa sĩ rủ người yêu cùng mình trốn sang Nhật bản để làm lại cuộc đời,Nàng nhận lời nhưng phút chót lại không thể vượt qua được vòng lễ giáo,để rồi những ngày sau phải sống trong nuối tiếc cho đến lúc nhắm mắt, xuôi tay… Phải chăng T.T.Kh cũng muốn nhắc đến điều tương tự khi cuộc tình duyên của mình không thành?:

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.

-Thực tế thì bà Vân Chung phải lấy chồng là do gia đình ép gả và đây T.T.Kh cũng viết:

- Ai đem lễ giáo giam em

Sống hờ hết kiếp trong duyên trái đời

-Ông Thanh Châu cũng đã đành phải gạt lệ ra đi, vì có ở lại mà nhìn cảnh người yêu bước lên xe hoa về nhà khác thì cũng chỉ thêm đau lòng, chẳng thể nào khác được.Vì thế ngày lấy chồng của Bà mới thật là vô cùng buồn tủi và vô vọng, đó cũng chính là tâm trạng thật trống trải của T.T.Kh:

-Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời gian khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá,Tôi buồn lắm
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường

-Vì nhiều lý do, nhất là ảnh hưởng của vòng lễ giáo họ không còn liên lạc được với nhau như thuở nào và thực tế sau khi mối lương duyên không thành,ông Thanh Châu đã ra ở ngoài Hà Nội lập nghiệp, rồi từ đó họ không còn gặp nhau được nữa, bà Vân Chung một mình ở lại Vườn Thanh cho đến khi lấy chồng trong đau đớn,trong nỗi niềm đắng cay của cả hai người…dường như T.T.Kh cũng muốn “xác nhận” điều đó, giống như một tiếng kêu than xé lòng và cũng đầy ai oán :

-Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi!Người ấy có buồn không
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai tựa máu hồng?

-Hoàn cảnh và nguyên nhân bà và chồng lấy nhau,kể ra thì cũng khá là “tiểu thuyết”:-“…Chị thuật lại là do anh Chấn về Thanh thăm Mẹ,đi qua hiệu chụp hình nhìn thấy ảnh chị,anh Chấn tìm bạn dẫn đến tiệm chụp hình hỏi:-Có biết người này là ai không? Người đó mách anh Chấn nhà chị,sau đó gia đình đi hỏi.Hai Bác đã bằng lòng gả chị cho anh Chấn…” (Trích thư của bà Thư Linh-gửi bà Vân Chung,viết ngày 20/9/1994 tại tp.HCM) và như chúng ta cũng đã biết ông chồng của bà Vân Chung đỗ cử nhân luật, gia đình khá giả hơn hẳn gia cảnh của ông Thanh Châu thì việc gả cho bà cũng là điều dễ hiểu bất chấp là bà có yêu hay không…cho nên T.T.Kh mới than rằng:

-Và một ngày kia tôi phải yêu
Cả chồng tôi nữa lúc đi theo
Những cô áo đỏ sang nhà khác
Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều

Ta thấy ngay rằng chẳng có ai đi lấy chồng vì yêu và được yêu mà lại dùng từ “phải” cả, rõ ràng điều đó nói lên rằng:-Đây là mối lương duyên hoàn toàn do ép buộc và đây chỉ là một tình yêu đơn phương theo kiểu tình yêu “sét đánh” lại được tư tưởng “môn đăng-hộ đối” ủng hộ!… T.T.Kh đã dùng những hình ảnh rất “đắt” để chỉ vài câu thơ thôi là đã lột tả được hình ảnh của một đám cưới buồn,những cô áo đỏ là chỉ mấy cô gái bưng tráp dẫn Dâu và “tháp tùng”cô Dâu về nhà chồng,màu đỏ là “màu vui” màu của sự ấm cúng thế mà ở đây nó lại tương phản với Gió hỡi làm sao lạnh rất nhiều đến thế?...

-Do không có tình yêu đối với chồng,lại luôn tưởng nhớ, sống trong hoài niệm về mối tình đầu vừa mới phải đắng lòng gạt lệ chia ly thì dù bà Vân Chung có khéo cư xử đến mấy,giỏi“đóng kịch”đến mấy thì với thời gian cũng sẽ “giúp”chồng bà cảm nhận được,hiểu ra được vấn đề và khi tình yêu “sét đánh”ấy qua đi,tình yêu một phía cũng khó làm chồng bà “duy trì” được tình cảm như thuở ban đầu,ở đời ai cũng vậy thôi, vì là lẽ thường tình trong tâm lý con người, ta hãy đọc những vần thơ đầy nghẹn ngào của T.T.Kh trước một thực tế cũng thật là chớ trêu như thế:

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người

-Trong bài tùy bút,ông Thanh Châu viết:Cùng một mối cảm mà T.T.Kh có thể viết nên những vần (thơ) réo rắt mãi trong tâm can người như vậy được,còn câu chuyện của tôi,có khéo kể lắm,thì rồi người ta đọc qua một lần rồi cũng sẽ quên đi…khi ta đọc lại những bài thơ của T.T.Kh và so với chuyện tình đời thực của hai người thì thấy rằng,vì bà Vân Chung chính là người ở “trong cuộc” bởi thế mới có được những câu thơ như ông vừa cảm nhận trên kia,còn Thanh Châu, ông chỉ có thể tự tưởng tượng ra cảnh người yêu phải sống bên người chồng không yêu thì làm sao ông “cảm thấu”cho hết được tâm trạng của bà? Đến đây thì câu hỏi tại sao nhà văn Thanh Châu lại viết những dòng tự sự như trên đã trở nên rất dễ hiểu…

-Ngày xưa thị xã Thanh Hóa vốn bé “tí tẹo” nên việc yêu nhau giữa ông Thanh Châu và bà Vân Chung cũng có không ít người biết,phải chăng từ một lý do nào đó chồng bà biết đươc “chuyện ngày xưa”của hai người? Hơn nữa,chớ trêu là ở chỗ người mà mình yêu tha thiết, một tình yêu tinh khôi của tuổi đẹp nhất đầu đời thì lại phải đành nuốt lệ chia xa,kẻ không yêu bỗng chốc trở thành Phu-Phụ và khi người đàn bà không yêu thì họ rất khó thể hiện sự mặn nồng mà người đàn ông nào cũng mong muốn, cho nên đối với chồng thì tình cảm lẽ ra phải có ở những đôi lứa lấy nhau vì tình chỉ có thể trở thành một “nghĩa vụ”…cho nên cái cảm giác vô cùng trống vắng khi đối diện với chính mình ở một nơi xa lạ là một cảm xúc rất đời thường,có lẽ bà Vân Chung cũng không phải là ngoại lệ.Ta hãy cùng “chia sẻ” nỗi niềm đó của T.T.Kh:

Từ đấy thu rồi thu lại thu
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy cho nên vẫn hững hờ

Hay:

Lòng em khổ lắm chị ơi
Trong bao ngờ vực với lời mỉa mai
Quang cảnh lạ, tháng năm dài
Đêm đêm nằm tưởng ngày mai giật mình.

-Thông thường có một tâm lý khá phổ biến, đó là khi buộc phải chia tay với người mình yêu vì bị gia đình ngăn cản với nhiều lý do khác nhau,nhất là quan niệm ngày xưa “Cha,Mẹ đặt đâu con ngồi đấy” thì dù ta không hề có lỗi,nhưng cái cảm giác “tội lỗi” đó không vì thế mà mất đi cộng thêm với tâm lý thương người yêu,thương cả cho số phận mình,muốn “người ấy”cũng vẫn tưởng nhớ đến mình, đồng thời lại sợ ảnh hưởng đến cả vấn đề “danh tiết” nên nó đã tạo ra một tâm lý vô cùng bối rối,day dứt như ở giữa ngã ba đường ,vừa muốn gặp lại vừa sợ gặp “người xưa”vì không biết phải thanh minh,phải an ủi thế nào khi chính mình cũng là nạn nhân,một nạn nhân yếu đuối của thời cuộc…bà Vân Chung có lẽ cũng không nằm ngoài tâm lý đó và ta hãy đọc lời “tự sự” của T.T.Kh:

Từ đấy không mong không dám hẹn
Một lần gặp nữa dưới trăng nghiêm
Nhưng tôi vẫn chắc nơi trời lạ
Người ấy ghi lòng vẫn nhớ em.
hay: Tôi run sợ viết lặng im nghe
Tiếng lá thu khô xiết mặt hè
Như tiếng chân người len lén đến
Song đời nào dám gặp ai về.

-Thời điểm cuối những năm 30 thế kỷ trước ở thị xã Thanh Hóa mới chỉ có cầu cho đường sắt Bắc-Nam do người Pháp xây dựng, còn muốn đi theo đường bộ,đi xe đò mà hồi đó nhà tư sản Bạch Thái Bưởi là người Việt đầu tiên có hãng xe khách và tầu thủy chạy trên một số tuyến đường cạnh tranh với người Pháp cũng như với Hoa kiều… thì những người sống ở thị xã phải vượt sông bằng đò ngang với hình ảnh tiễn người đi bến cát xa, cũng lại rất phù hợp với mấy câu thơ sau:

Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy ngang sông đứng ngóng đò.

Qua những phân tích và dẫn chứng ở trên,quả thật chúng ta thấy rằng bà Vân Chung có một “Nhân thân” đời thật phù hợp với “hoàn cảnh” của T.T.Kh đến kỳ lạ,chúng ta hầu như không thấy có sự khác biệt nào giữa “Câu chuyện trong thơ” so với chuyện tình ngoài đời của họ.Có người nghi ngờ rằng,vào năm 1937-1938 bà Vân Chung mới có 18-19 tuổi thì làm sao sáng tác được những bài thơ hay đến thế? Thắc mắc này không phải là không có lý nhưng nó lại quá phiến diện, bởi lẽ phải lý giải thế nào đây khi hầu hết những nhà văn, nhà thơ thời tiền chiến (tức trước chiến tranh thế giới thứ hai-trước năm 1939 ) cùng thời với Bà đều “thành danh” ở lứa tuổi này, ta có thể kể tên các tác giả đương thời có sự nghiệp văn-thơ từ rất sớm như:-Xuân Diệu (sn 1916)-Nữ sĩ Mộng Tuyết(sn 1918)-Thâm Tâm(sn 1917)-Nguyễn Bính(sn 1918)-Nữ sĩ Anh Thơ(sn 1921-năm 1939 đã được giải thưởng khuyến khích về thơ của Tự lực văn đoàn) hay như tiểu thuyết Tố Tâm của Song An Hoàng Ngọc Phách viết năm 1922 khi ông mới có 17 tuổi...so với ngày nay thì với lứa tuổi mười chín đôi mươi mà đã có những áng thơ-văn như thế thì quả cũng là sự lạ,phải chăng nhờ tập tục “Gái thập tam-Nam thập lục tác hợp Phu-Thê” nghĩa là Gái 13 tuổi-Trai 16 tuổi là dựng vợ-gả chồng mà các bậc tiền bối chững trạc và phát tiết tài năng cũng như sự mơ mộng từ khá sớm như vậy?Hơn nữa,với tình yêu thơ mộng đầu đời lại sớm phải chia ly đã tạo nên một hoàn cảnh hết sức trái ngang và cay đắng “đóng dấu” vào tâm hồn vốn lãng mạn của cô gái Vân Chung thì từ cảm xúc mãnh liệt ấy có trở thành những vần thơ thấm đẫm nước mắt cũng có gì là khó tin đâu?

Trước và trong “thời kỳ T.T.Kh” ông Thanh Châu có viết hai tác phẩm. Một là truyện ngắn Hoa tigôn mà từ đó mới có thơ “họa” lại của T.T.Kh,hai là bài tùy bút Những cánh hoa tim được viết sau khi T.T.Kh đã xuất hiện đầy đủ với bốn bài thơ như muốn “kết” lại câu chuyện…xa Vân Chung ra Hà Nội,ông Thanh Châu đã hết sức sầu thương về mối tình ấy,một sự mất mát và hụt hẫng không gì bù đắp được như ông đã “thú nhận” trong Những cánh hoa tim: “Vì tôi thấy tôi cảm thấu hết được những cái gì là tê tái trong tình ái.Tôi có tất cả tâm sự của một người đã từng chua xót vì yêu…”.Đó chính là sự chua xót về mối tình duyên không thành giữa ông và bà Vân Chung mà nay ông đã xác nhận(với trần Đình Thu).Vào thời gian này, tiểu thuyết Đoạn Tuyệt của nhà văn Nhất Linh( Nguyễn Tường Tam)cũng được xuất bản,có quan điểm đả phá về tập tục phong kiến vẫn ngự trị trong xã hội đương thời,dù với mục đích ấy thế nhưng Nhất Linh vẫn không dám “sắp xếp”cho hai nhân vật Dũng và Loan trốn đi nơi khác để cùng nhau xây tổ ấm mà phải để hai người chia tay nhau, Loan về nhà chồng còn Dũng bước đi phiêu bạt giang hồ. Ấy là do hoàn cảnh xã hội khi đó chưa cho phép có sự cải cách quá mạnh mẽ dù là trong tiểu thuyết,nhà văn chỉ dám “tạo nên” cái chết tai nạn của người chồng như một sự giải thoát cho niềm bất hạnh của nhân vật Loan khi phải sống bên cạnh người chồng giầu sang mà không có tình yêu đôi lứa. Điều đó cũng cho thấy rằng những cô gái dù có “tân học” đến mấy cũng không thể nào thoát ra được ngoài vòng cương tỏa của lễ giáo phong kiến “môn đăng-hộ đối” khi sống trong thời đại ấy.

Hoàn cảnh của ông Thanh Châu và bà Vân Chung cũng tương tự như hoàn cảnh của Dũng và Loan chứ không thể khác được. Tuy là trong truyện ngắn Hoa Tigôn ông Thanh Châu đã “dũng cảm” khi dám “cho” nhân vật họa sĩ Lê rủ người yêu Mai Hạnh trốn sang Nhật cùng mình xây dựng cuộc đời mới,thế nhưng điều đó cũng chỉ là một giấc mơ xa vời khi người yêu của chàng họa sĩ cuối cùng cũng không thể vượt qua được vòng lễ giáo. Cũng trong tùy bút Những cánh hoa tim ông cảm thán: “ Một mùa thu cũ,tôi đã ngắt những bông hoa ấy trong tay và vò nát chúng đi trước một giàn hoa…bỗng nhiên,nhìn những cánh hoa đỏ trong tay, tôi nghĩ đến một quả tim rớm máu…”Thanh Châu vò nát những cánh hoa tigôn nhỏ bé ấy vì lẽ gì? Phải chăng nó chính là “chứng nhân” của tình yêu một thuở giữa ông và bà Vân Chung,những hoài niệm về mỗi bước chân nhè nhẹ dưới giàn hoa Tigôn trước sân nhà trong những buổi chiều hoàng hôn sắp tắt? Cho nên các nhân vật trong truyện ngắn chỉ là cái hình hài bên ngoài để chứa đựng cốt chuyện còn câu chuyện tình buồn của hai người mới chính là “linh hồn” của các nhân vật vậy. Vì thế,nỗi niềm của nhân vật,những hoài niệm đầy u uất,đầy nuối tiếc về những “cánh hoa tim vỡ rơi lả tả mỗi chiều thu” cũng chính là nỗi niềm của nhà văn Thanh Châu và bà Vân Chung người yêu ông,những lý giải đó đã làm cho sự xuất hiện những bài thơ như cào cấu tâm can, như những tiếng kêu than đầy ai oán của T.T.Kh khi truyện ngắn Hoa Tigôn ra mắt bạn đọc trở thành rất dễ hiểu.Vào thời kỳ những năm 30 thế kỷ trước,những cô gái có tâm hồn lãng mạn như bà Vân Chung đều tìm đọc tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy và Phụ Nữ tân văn (Phụ nữ thời đàm-ở phố Hội Vũ-Hà Nội) cũng như những tiểu thuyết tình cảm khác. Vì thế khi đọc được truyện ngắn Hoa Tigôn thì bà Vân Chung cũng đau lòng không kém gì nhân vật trong truyện và chắc chắn bà cũng nhận ra được “người xưa” nhưng không phải chỉ bằng cốt chuyện mà là do những ngôn từ quen thuộc chứa đựng bên trong (như Hoa tigôn-quả tim vỡ- trái tim rớm máu…) hoặc cũng có thể còn ở chi tiết chàng họa sĩ rủ người yêu trốn đi cùng mình…Vì thế,ở trong hoàn cảnh như vậy, nhất là với một người có tâm hồn lãng mạn như bà Vân Chung thì việc làm thơ “đối đáp” lại cũng là điều hoàn toàn có thể giải thích được,nhưng là người thận trọng sau khi biết chắc chắn là “người xưa” rồi thì bà mới gửi tiếp Bài thơ thứ nhất như một dịp để nói hết lòng mình do bài thơ đầu chưa tiện nói hết, còn lý do tại sao lại có Bài thơ cuối cùng thì chúng ta cũng đã biết.

2-Thơ của T.T.Kh ngày nay:

Khi đọc các tác phẩm của nhà văn Thanh Châu cũng như những bài thơ của T.T.Kh ta thấy ngoài sự xuất hiện liên tục của loài hoa “chủ đạo” là hoa Tigôn thông qua hình tượng khá đặc biệt là Trái tim,quả tim…thì chúng ta còn thấy cả hai cũng thường nhắc đến Mùa Thu, chúng ta cũng đã biết mùa thu là lúc bắt đầu của mối tình giữa ông Thanh Châu và bà Vân Chung-đúng như T.T.Kh đã viết:- Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn để rồi Tôi chờ người đến với yêu đương cho đến lúc kết thúc của cuộc tình không biết có phải cũng là một mùa thu hay không?:

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một mùa thu trước rất xa xôi
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.

Nhưng quả thật hình ảnh của mùa Thu cũng đầy lãng mạn và cũng thật đượm buồn,dường như là nó rất hợp với tình yêu dang dở và vì thế mà điều đó có “đóng dấu” vào trái tim của những người trong cuộc cũng không có gì là khó hiểu…bà Vân Chung cũng rất hay làm thơ về mùa Thu,trong những bài thơ của bà thì có đến hơn một nửa là viết về mùa Thu hoặc liên quan đến mùa Thu, phải chăng như những điều vừa phân tích ở trên mùa Thu đã mãi mãi ám ảnh Bà?Chúng ta cùng đọc mấy bài thơ về mùa Thu của Bà mà Trần đình Thu sưu tầm được khi gặp bà Thư Linh:

BÀI THƠ CUỐI THU-1960

Nhớ những mùa thu trước
Êm cảnh thanh bình
Trăng ngà trải lụa thiên thanh
Khuôn hoa e ấp trên cành thắm tươi
Thế rồi
Bão táp mưa sa
Trăng tàn hoa tạ
Mông mênh sầu ngập biển đời
Trời thu lộng gió để người sầu thương

THU CAO NGUYÊN-1960

Lá vàng gió cuốn bay vèo
Giật mình chợt nhớ: Ơ chiều vào thu
Xa xa sương phủ mịt mù
Ạt ào thác đổ âm u núi rừng

VÀO THU-1993

Hơi may se cả bầu trời
Hàng cây lá đã vàng phơi ít nhiều
Nhà ai một mái tịch liêu
Chìm trong làng vắng tiêu điều chiêm bao

Cảm nhận đầu tiên khi ta vừa đọc xong mấy bài thơ trên là nó quá bình thường, không xứng tầm với thơ của T.T.Kh ,thế nhưng điều đó mới là điều đáng mừng vì như vậy mới đúng là… T.T.Kh,đơn giản là bởi chẳng có nhà thơ nào,ngay cả những nhà thơ được mệnh danh là “Chúa tể của thơ tình” thì cũng không thể làm thơ hay cả đời được,dù cho cảm xúc có “dạt dào” đến mấy,thế nhưng cảm xúc của con người lại vốn dĩ chẳng cái nào giống được cái nào,ví dụ như ta đau đớn vì bị chính người yêu ta phụ bạc tất phải khác cảm xúc của kẻ chỉ được nghe người khác kể lại,đấy là trường hợp xấu nhất trong rất nhiều ví dụ về cảm xúc cần phải có để sáng tác ra thơ tình…Như nhà thơ Vũ Cao cả đời chỉ làm được mỗi một bài thơ Núi Đôi là còn mãi với thời gian,sau này ông vẫn làm thơ nhưng có lẽ bản thân tự thấy không hài lòng nên ông không cho xuất bản? Ngay như nhà thơ Xuân Diệu ông chúa thơ tình thì những bài thơ thật sự gọi là hay đến mức “để đời”cũng chỉ đếm chưa hết mười đầu ngón tay,hơn nữa ngoài cảm xúc ra cũng còn cần phải có một hoàn cảnh đặc biệt nào đó và cả hai cái “cộng hưởng” lại thì mới tạo ra được những “tuyệt tác” nổi trội trong vô số những bài thơ vốn của cùng một tác giả. Điều này đã giải thích tại sao bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử lại tuyệt diệu đến thế nếu như không có tấm ảnh chụp bến đò Vỹ Dạ mà người đẹp Hoàng Hoa gửi vào trong lúc Chàng đang vô cùng tuyệt vọng nằm trên giường bệnh…Trường hợp bà Vân Chung- T.T.Kh cũng thế thôi, mấy chục năm trôi qua nỗi buồn,nỗi nhớ rồi cũng dần nguôi ngoai lại sống một cuộc sống bình thường cũng như sự bận bịu vì còn phải lo nuôi dạy con cái…thì còn đâu nữa cảm xúc cũng như hoàn cảnh đặc biệt để Bà có thể sáng tác nên những vần thơ Trác tuyệt như ngày nào? Cho nên ngày nay,có ai đó sáng tác được những bài thơ “giống như”giọng thơ của T.T.Kh và nhận mình là T.T.Kh thì lại chắc chắn không phải là… T.T.Kh.vậy!.Và nếu vẫn còn nghi ngờ thì bắt buộc chúng ta lại phải trả lời cho bằng được câu hỏi:- Liệu ở trong cuộc đời này có ai có “thân phận” phù hợp với T.T.Kh hơn bà Vân Chung không?...

AI LÀ T.T.Kh ?

-PHẦN 5

1-Sự kiện bà Vân Chung bị tiết lộ “Thân phận”:

Khoảng đầu tháng 9 năm 1994 trên Báo Thanh Niên xuất hiện loạt bài đăng nhiều kỳ nhan đề T.T.Kh Nàng là ai? Và bài viết tóm tắt câu chuyện trên của tác giả Thế Nhật in trong tập san Nghệ thuật thứ bảy của nhà xuất bản Văn nghệ tp.HCM.Trước khi in thành sách cùng tên (Sau này khi tái bản chỉ đổi tên tác giả thành Thế Phong). Qua sự tiết lộ vô tình của bà Thư Linh một người bạn gái “vong niên” của bà Vân Chung,làm xôn xao dư luận bạn đọc yêu thơ trong và ngoài nước,dẫn đến phản ứng khá gay gắt của người trong cuộc là bà Vân Chung qua bức thư ngỏ gửi bà Thư Linh đồng thời cũng gửi đăng trên Nguyệt san văn hóa số 9/94 và Báo Thanh Niên vào tháng mười một cùng năm. Mặc dù trước đó,ngày 20/9/1994 bà Thư Linh cũng đã viết thư gửi sang Pháp cho bà Vân Chung nhằm thanh minh cho một sự việc đã rồi: “Chị Vân Nương thân mến,em in xong tác phẩm Những dòng thơ hoa chưa kịp gửi tặng chị thì được anh Thế Phong và Trần Nhật Thu (Thế Nhật là tên ghép từ chữ lót của hai tác giả ở lần xuất bản đầu) đem tới tặng tập T.T.Kh Nàng là ai?.Em giở ra đọc mới hay: Chỉ vì coi bài thơ Hoa Tim trong tập Những dòng thơ hoa mà ra chuyện! Xin Chị đừng buồn nhé.Em xin Chị bình tĩnh đọc lại những diễn biến vì sao em nói ra T.T.Kh là ai?Sau khi ở nước ngoài về,em có ý định ở lại nước nhà,bạn bè hay lui tới tụ họp nói chuyện văn chương.Hôm đó có anh,chị Như Hiên-Thanh Vân,Thế Phong,Quốc Văn và một vị nào đó nữa.Em nghe anh Thanh Vân nhắc tới T.T.Kh rằng anh ấy đã tới thăm tại nhà,khi nghe ai đó hỏi: -Nay T.T.Kh còn trẻ không?anh Thanh Vân nói:-Già và không còn đẹp nữa,thơ thì xuống lắm,xem rồi cũng không hay. Em thì chị lạ gì,rất thẳng thắn,hơn nữa T.T.Kh em coi là thần tượng nên em nhíu mày nói:- Có thể T.T.Kh anh quen là giả đó vì tôi cũng được biết T.T.Kh,thơ nay vẫn tuyệt vời và còn đẹp lắm!anh Thanh Vân cứ nhất định cãi người Anh quen là T.T.Kh thật và hỏi em:-Người chị biết là ai?.Em bực bội nói là:-Chị Vân Nương chứ ai!thế rồi câu chuyện đứt quãng vì có người mới tới,Thanh Vân và Như Hiên ra về.Đêm đó em ngồi viết về chuyện tình của T.T.Kh với tựa đề Hoa Tim và chú thích: Gửi người chị thơ phương xa Tôi vô cùng mến yêu,ý em gửi tặng chính Chị vì em vẫn chưa thể quên năm anh Chấn chưa đi cải tạo về,một chiều mùa thu chị lên chơi, em cùng chị luận bàn về sắc thái của các Nữ sĩ, khi nhắc tới ba bài thơ về Hai sắc hoa tigôn,em nhớ trước đây chị bảo em chị ở Thanh Hóa.Chị nhớ có lần em đã hỏi một chị bạn cũng ở Thanh Hóa có biết T.T.Kh là ai không? Chị ấy bảo không biết nhưng nghe người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm và giỏi thơ,nhưng đã lấy một ông quan huyện.Lúc đó em mới hỏi chị:-Tên Vân Nương là bút hiệu hay chính tên chị?Chị bảo:-Tên mình là Trần Thị Vân Chung.Chị có nhớ em nói ngay:-Thì ra T.T.Kh là chị rồi! Chị cười:-Ai nói với Thư Linh thế?Em trả lời có người nói lâu rồi (ý bà Thư Linh muốn nói đến lời chị bạn ở trên?) Nhưng sao nghe nhiều bài nào là Nguyễn Bính,nào là Thâm Tâm nhận…vậy là ai? Chị lại cười:-Họ nói bậy thôi!...Chị còn cho em biết:-Cách đây ít lâu Anh bạn cũ ấy vào Nam tìm chị mãi không thấy, sau tìm được nhà chị Minh, chị Minh sang kêu chị (lúc đó anh Chấn còn bị giữ ở ngoài Bắc) Chị sang tới nơi, khi gặp nhau, không hiểu sao chị khóc,Anh bạn xưa có nói rằng tìm mãi không được tin tức chị, nhiều khi lên cả xe bus tìm chị nữa,em bảo rảnh sẽ viết về chị.Chị bảo:-Thư Linh đừng viết,anh Chấn hay ghen lắm,nên em hứa sẽ không viết.Có những mẩu chuyện rời rạc như anh Thế Phong hỏi:-Chắc khi xưa chị Vân Nương đẹp lắm? Em trả lời: Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới? Em đâu dè Thế Phong và Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai? Căn cứ (cả) vào bài thơ Hoa tim của em.Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị và người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…Em và Chị đã ra ngoại quốc thì bạn bè thân ở xa gặp ôm hôn để tỏ lòng mến thương cũng chuyện thường thôi,nhưng trong bài thơ em đâu có nói ôm hôn,nên em phôn đòi cải chính thì sách đã in mất rồi! Mấy đêm nay em thức trắng bực mình giận anh Thế Phong đã không bỏ những dòng vớ vẩn đó,em tin Chị cũng sẽ bực mình và giận em….Hôm qua em gặp chị Như Hiên,chị tỏ ra bất bình về chuyện này nói sẽ gửi đăng bài một tờ báo lá cải nào đó,phóng tác từ tập T.T.Kh Nàng là ai? của Thế Nhật để gửi sang bắt chị phải cải chính. Như Hiên còn nói chỉ có Như Hiên mới có quyền được nói về chị thôi.Em hiểu Như Hiên,tức vì chị ở trong Quỳnh Dao sao chị không tâm sự với chị ấy mà em là người ngoài Quỳnh Dao lại được biết!Đời có những người quen nhau mấy chục năm mà vẫn không thể coi nhau là tri kỷ được. Em không biết tình chị đối với em từ nay như thế nào? có giảm đi không? Nhưng riêng em lúc nào cũng kính yêu chị và coi chị là thần tượng của lòng em,dù vì chuyện này mà chị có giận em thì em cũng xin tạ lỗi cùng chị. Em tin rằng các cháu đã sống với văn minh Âu Tây sẽ hiểu và luôn kính trọng yêu quí mẹ.Người con gái lớn lên gặp người ý hợp tâm đầu,yêu nhau nhưng hoàn cảnh phải xa nhau,mối tình tuổi thơ thật trong trắng. Khi lấy chồng chị vẫn yêu chồng,yêu con, không hề có điều khuất tất thì mối tình đó rất cao thượng có chi đâu mà phải cải chính,làm như chị không hay biết,đó là chị đã thấu chữ vô thường vậy và như thế là chị đã không giận em…Chị Hỷ Khương rất cảm thông với em về chuyện này, riêng Như Hiên tỏ vẻ khó chịu nói:-“Nếu không phải là em thì chị ấy đã viết báo cải chính rồi” Em thì chị lạ gì,em bảo:-Cứ viết để em cũng sẽ viết theo những gì em đã biết.Nếu vụ này rùm beng lên thì âu cũng là do bài thơ Hoa tim mà ra,đúng là nghiệp thơ của em chị ạ. Một lần nữa em mong chị đọc kỹ cả hai tập thơ và hiểu cho em rằng vẫn luôn tôn trọng chị chứ không có ý gì khác…”

Đến đây chúng ta hãy tạm thời “quên” những phân tích, chứng minh ở các phần trước để cùng lý giải cho những câu hỏi mới phát sinh từ lá thư này.Trước hết,lá thư được viết vào năm 1994 bà Vân Chung đã 75 tuổi, thế mà bà Thư Linh lại viết thơ nay vẫn tuyệt vời và còn đẹp lắm! Mới đọc qua thì thấy có vẻ hơi vô lý, nhưng nếu ta để ý đến tâm lý phụ nữ một chút thì sẽ thấy rằng ai mà chẳng thích khen đẹp,dù có là một bà già? Vì thế đây chỉ là một lời khen có tính chất xã giao của bà Thư Linh cũng là điều dễ hiểu. Câu hỏi thứ hai là:-Dựa vào đâu mà bà Thư Linh biết được T.T.Kh quê ở Thanh Hóa mà đi hỏi chị bạn? Lý giải cho điều này chúng ta phải lưu ý đến câu thơ cũng tốn rất nhiều giấy mực: Ở lại vườn Thanh có một mình…xoay quanh địa danh này như chúng ta cũng đã biết có nhiều cách giải thích khác nhau,nào là Thanh Giám ngoài Hà Nội, nào là đất Thanh Miện-Hải Dương rồi lại Xứ Thanh-Thanh Hóa…của nhiều thế hệ nhà thơ cũng như bạn đọc yêu thơ và bà Thư Linh còn là một người làm thơ tất nhiên cũng không thể không biết về câu chuyện đó,cho nên khi đọc được tất cả những “xuất xứ” của câu chuyện về thơ T.T.Kh bà cũng tò mò không kém mọi người,nhưng khác với những người chỉ yêu thơ mà không có khả năng làm thơ bà hiểu thế nào là cảm xúc cũng như hoàn cảnh cần phải có để một nhà thơ có thể sáng tác được những bài thơ buồn đến thế,vì lẽ đó khi đọc Nguyễn Vỹ kể về Thâm Tâm có thể cũng làm bà ngờ ngợ nhưng không lý giải được,tuy không sinh hoạt cùng trong nhóm thơ Quỳnh Dao nhưng bà cũng thường xuyên tiếp xúc với họ,cùng nói chuyện,bàn luận về văn-thơ. Phải chăng những lần như vậy với khả năng tâm lý của người phụ nữ họ cũng không mấy tin vào những gì mà ông Nguyễn Vỹ đã viết? Hơn nữa khác với ngoài Bắc những năm chiến tranh, ở trong Nam vẫn đều đặn xuất bản những sáng tác chủ yếu về tình yêu đôi lứa của các nhà văn,nhà thơ nhất là của các văn thi sĩ miền Bắc di cư,việc họ dùng từ Xứ Thanh để chỉ đất Thanh Hóa là không hiếm gặp chứ chưa có ai gọi đất Thanh Miện, hay Thanh Giám là Xứ Thanh bao giờ.Như vậy vì đã không mấy tin câu chuyện của Nguyễn Vỹ(dù không có đủ tư liệu như ngày nay để phản bác) và cái từ Vườn Thanh lại có vẻ “gần gũi” hơn với từ Xứ Thanh thì cũng giúp cho bà Thư Linh tạm thời “loại” được hai địa danh đầu,vì thế chỉ còn lại Thanh Hóa là khả dĩ nhất với trường hợp T.T.Kh,cho nên điều đó đã tạo “động lực” để bà đặt câu hỏi “nghi vấn” với chị bạn quê Thanh Hóa chứ không phải câu hỏi khẳng định là hoàn toàn hợp lý.Tiếp theo những phân tích ở trên, lại là chị,em thân thiết lâu ngày qua những lần tiếp xúc,tâm sự dù bà Vân Chung có khéo che dấu đến mấy thì cũng phải có lúc vô tình bộc lộ về cuộc sống vợ-chồng không được hạnh phúc mà với một người cùng giới lại vốn có sự nhậy cảm của một nhà thơ thì không khó để bà Thư Linh “nắm bắt” được điều đó,cho nên khi nghe bà Vân Chung nói rõ tên mình, cộng với lời kể của chị bạn thì bà Thư Linh gần như khẳng định ngay: -Thì ra T.T.Kh là chị rồi! là điều có thể chấp nhận được.Một câu hỏi nữa lại được đặt ra:-Sao đã khẳng định… là chị rồi! mà bà Thư Linh lại còn hỏi: Nhưng sao nghe nhiều bài nào là Nguyễn Bính,nào là Thâm Tâm nhận…vậy là ai? Tâm lý chung, trong chúng ta khi một sự việc đang trong “tầm tay” thì có ai mà lại không muốn được nghe chính người trong cuộc khẳng định lại với mình? Vả lại đây là câu hỏi nghi vấn chứ đâu phải là câu hỏi khẳng định.? Vì thế điều này cũng là hoàn toàn hợp lý. Nhưng tại sao chị,em đã chơi với nhau khá lâu mà bà Thư Linh không biết tên thật phải để đến lúc đó mới hỏi lại? Cũng rất đơn giản là,dù có cùng là dân miền Bắc nhưng sống lâu ngày ở miền Nam thì ắt bà Thư Linh cũng phải “nhập gia tùy tục” vì ở trong này họ không gọi tên “cúng cơm” mà là gọi theo thứ tự (sinh trước,sinh sau trong gia đình) cho nên hiếm có ai dám đường đột đi hỏi tên người ta bao giờ nhất lại là người thuộc lớp “cổ xưa” như bà Vân Chung, hơn nữa ở miền Bắc hay miền Nam thì các cụ gia đình khá giả cũng thường hay gọi theo tên Hiệu…cho nên việc bà Thư Linh nhân dịp đó mới hỏi tên thật của bà Vân Chung cũng không có gì là lạ.Câu hỏi cuối cùng,một câu hỏi vô cùng quan trọng và ít nhiều cũng góp phần khẳng định về thân thế của bà Vân Chung- T.T.Kh là: Người ở Thanh đồn tên cô ta là Chung đẹp lắm và giỏi thơ,nhưng đã lấy một ông quan huyện liệu có đáng tin?.Như chúng ta cũng đã biết,thị xã Thanh Hóa ngày xưa vốn nhỏ bé nên ắt hẳn có nhiều người biết về mối tình giữa bà Vân chung và ông Thanh Châu cũng như việc bà Vân Chung bị ép gả chồng như thế nào,hơn nữa ở một thị xã dù là nhỏ bé thì cũng không thể chỉ có một mình nhà bà Vân Chung là giầu có,suy rộng ra thì chắc chắn cũng không phải chỉ có mình bà Vân Chung mới đọc Tiểu thuyết thứ bảy và Phụ Nữ tân văn mà còn có nhiều người khác cũng biết và đọc những tờ báo này.Vì thế khi truyện ngắn Hoa tigôn của ông Thanh Châu ra đời và mấy tháng sau lại xuất hiện hai bài thơ ký tên T.T.Kh thì chắc chắn nhiều người ở Thanh Hóa cũng đọc được,trong số đó có người nhận ra ông Thanh Châu cùng quê hương mình và cùng nhau xì xào bàn tán nhưng chỉ ở phạm vi hẹp,có lẽ thời gian đầu sự việc cũng chỉ dừng lại như vậy.Thế nhưng khi Bài thơ đan áo đến tay bạn đọc thì người ta mới xâu chuỗi các sự kiện và nhận ra rằng,cô gái vừa lấy chồng nhà giầu,người yêu cũ của ông Thanh Châu chính là T.T.Kh cứ thế tin đồn lan rộng ra,đến nỗi T.T.Kh đã phải thảng thốt “kêu” lên trong Bài thơ cuối cùng: -Là giết đời nhau đấy biết không? Hoặc: -Nếu không yên được thì tôi chết mà quên cả giữ ý tứ,đây là câu thơ khiến nhiều thế hệ bạn đọc chê dở cũng là điều dễ hiểu vì quả thật là ta không thấy được “chất thơ” ở trong đó.Và cũng trong tâm trạng hoảng loạn , T.T.Kh như ngầm nhắc người yêu hãy chấm dứt câu chuyện này:

Giận anh em viết dòng dư lệ
Là chút dư hương điệu cuối cùng.

Còn việc bà Vân Chung giỏi thơ khiến nhiều người biết cũng không có gì là lạ,bởi vì với tâm hồn lãng mạn của những cô gái gia đình khá giả, lớp “tân học” thời bấy giờ hay tìm đọc Tiểu thuyết thứ bảy và Phụ Nữ tân văn thì bạn bè cùng trang lứa thường tụ tập cùng nhau xướng họa văn thơ cũng là điều dễ hiểu và câu chuyện đồn đại đến tai bạn bà Thư Linh có lẽ là ở giai đoạn sau này khi chồng bà Vân Chung đã ra làm quan tri huyện.Đến đây chúng ta có thêm cơ sở để khẳng định rằng việc Bài thơ đan áo xuất hiện ngoài ý muốn đã làm bà Vân Chung không những giận người yêu cũ vì “cho đi” bài thơ bà tặng riêng ông và chị gái mình mà nỗi lo sợ việc bại lộ danh tính không phải chỉ là “thần hồn nát thần tính” nữa mà đã là sự thật.Những phân tích ở trên cũng như từ các phần trước đã góp phần cho chúng ta hiểu ra rằng tại sao ba bài thơ sau lại không hay bằng bài thơ đầu Hai sắc hoa Tigôn,bởi lẽ với cảm xúc khác nhau, hoàn cảnh ra đời khác nhau theo từng “cung bậc” tình cảm và thực tế diễn ra như chúng ta vừa diễn giải đã chứng minh điều đó và đến đây điều thắc mắc bấy lâu nay của nhiều thế hệ đọc giả cũng đã được giải đáp một cách thỏa đáng!?...

Sự việc bà Như Hiên bảo:-chỉ có Như Hiên mới có quyền được nói về chị thôi. Cũng đã được bà Thư Linh lý giải khá đầy đủ trong lá thư rồi, ở đây chúng ta chỉ nói thêm một chút về tâm lý thường tình của một nhóm bạn chơi chung với nhau,nhất lại là phụ nữ thường ít khi chấp nhận việc người khác “thân” với người kia hơn mình,tâm lý muốn mình luôn được chú ý,được là nhân vật “trung tâm” hay ít ra cũng được coi là gần gũi với người nào đó nhất trong nhóm so với những người khác,nhất là người đó lại là bạn “đến sau” đã thế lại còn biết về những điều bí mật trước cả mình thì phản ứng đó của bà Như Hiên cũng là điều không mấy lạ lùng và tâm lý,tính tình con người ta là rất khác nhau cho nên bà Thư Linh được Chị Hỷ Khương rất cảm thông với em về chuyện này cũng là rất đời thường vậy…

2-Tác phẩm “T.T.Kh Nàng là ai?” trong con mắt bạn đọc:

Khi tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai? của tác giả Thế Nhật xuất bản, hầu hết ý kiến của độc giả cho là chuyện “lá cải” để câu khách.Tại sao lại thế? Chúng ta cùng đọc để xem người “ngoài cuộc” Phan Đức nói gì: “Cảm tưởng đầu tiên của tôi khi đọc cuốn T.T.Kh Nàng là ai? của Thế Nhật do NXB Văn hóa thông tin ấn hành là:-Cuốn sách chưa kết thúc được một nghi án văn học tồn tại hơn nửa thế kỷ,thì lại tạo ra một nghi án mới:-Tác giả Hoa tigôn có phải là người tình của T.T.Kh? và Nữ sĩ Vân Nương có phải là T.T.Kh hay không?Trước khi cuốn sách của Thế Nhật được xuất bản,tôi được đọc một bài,cũng của chính tác giả Thế Nhật in trong tập Nghệ thuật thứ bảy (9-94)của nhà xuất bản Văn nghệ tp.HCM nhan đề: “Chưa ai biết.Chưa ai viết:-Nữ sĩ T.T.Kh thực sự là ai?.Ở đây,tôi không đề cập tới nội dung bài báo trên của Thế Nhật.chỉ nói một điều :-Người viết quá ẩu.Trong bài viết,tác giả đã cho công bố một bức ảnh(ở trang 4) và chú thích:-“ Bà T.T.Kh và người bạn chụp trong vườn cam tại Mỹ Tho năm 1984-Bà T.T.Kh cầm trái cam” Sự thật người cầm trái cam là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.Nhưng có lẽ Thế Nhật cố tình chú thích sai đi để có thể viết câu sau đây: “Bà T.T.Kh tay cầm trái cam mà tôi nghĩ đó là trái cấm của EVA đã đưa cho chàng ADAM” (trang 9).Chi tiết trên dù nằm ngoài cuốn sách T.T.Kh Nàng là ai? nhưng người ta vẫn thấy sửng sốt, nghi ngờ sự trung thực và thận trọng của tác giả Thế Nhật trong lúc lấy tài liệu.

Mới đây,tôi có dịp gặp chị Phạm Minh Chi sinh năm 1954,là con gái thứ ba của ông,bà Hà Thượng Nhân(Phạm Xuân Ninh) và Trần Thị Anh Minh (em gái bà Vân Chung). Chị Phạm Minh Chi hiện ở 333/14/8 Lê Văn Sỹ-Q.Tân Bình-tp.HCM gọi bà Vân Nương bằng bác, chị Chi trước là giáo viên dạy Pháp văn, nay đã nghỉ.Chị cho biết:

-“Sau khi đọc cuốn T.T.Kh Nàng là ai? Tôi thấy sách viết thiếu đứng đắn và sai quá nhiều. Ví dụ,gia đình bác Vân Nương có tám người:-Bác cả rồi đến một bác gái,bác Vân Nương là thứ ba…vậy mà sách nói sai nhà chỉ có năm người, bác Vân Nương là trưởng nữ. Hay như đoạn sách nói sau giải phóng, bác Vân Chung “ở Sài Gòn buôn bán nhỏ,chạy vạy tảo tần nuôi con”Kỳ thực lúc đó,các anh chị của tôi đã thành gia thất cả rồi và có người sống ở nước ngoài. Đoạn nói “Phu quân(tức Bác trai)mê một thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc” là hoàn toàn bịa đặt,bôi nhọ cả người đã chết. Đoạn tả ông Thanh Châu vào tìm xin gặp bác Vân Chung ,vừa viết sai sự thật vừa viết theo lối rẻ tiền,câu người đọc. Cuộc gặp diễn ra ở nhà bác Vân Chung,sách lại bảo ở nhà tôi.Người Cô họ tôi dẫn ông Thanh Châu đi gặp bác Vân Chung sách lại nói Mẹ tôi dẫn Bác đi gặp ông Thanh Châu,những chi tiết,sự việc đơn giản ấy về gia đình Bác tôi rất dễ kiểm chứng mà người viết còn viết sai sự thật,huống hồ tin làm sao được chuyện tác giả Thế Nhật bảo bác Vân Chung là T.T.Kh” Vậy Thế Nhật căn cứ vào đâu để đưa ra những thông tin ấy?...Tác giả Thế Nhật khẳng định: “Chúng tôi phải cảm ơn bà Đ.T.L nhiều,bởi vì không có bà thì sẽ không có cuốn sách này” (trang 84).Vậy nguồn thông tin gốc là nơi bà Đ.T.L theo bài trả lời của bà Nghiêm phái-Thư Linh(tức Đ.T.L)đăng trên trang 24 và 25 Nguyệt san Văn Hóa (số tháng 9/94)…Ngày nay, ai cũng biết giữa tác giả Hoa Tigôn với bà Vân Chung từng có một tình cảm cao thượng và trong sáng,như ông Thanh Châu xác nhận: “Đó là chuyện một thời với bạn bè cùng sinh trưởng ở thị xã quê cũ Thanh Hóa”. Nhưng chuyện đó không có nghĩa là T.T.Kh nhất thiết phải là Vân Chung.Tôi cho rằng ngay từ đầu, bà Thư Linh đã ngộ nhận từ sự “không phủ định” của bà Vân Nương để rồi cứ trượt dài trên con đường ngộ nhận và tác giả Thế Nhật đã căn cứ vào một “tài liệu giả tưởng” để viết nên cuốn sách.Cần phải nói thêm rằng,cũng trên tờ Nguyệt san văn hóa số 9/94,lời tòa soạn cho biết,từ bên Pháp “Bà Vân Nương đang phản ứng gay gắt về những điều đã biết qua tập sách kia” (Tức phản ứng bài viết của Thế Nhật tóm tắt nội dung cuốn sách T.T.Kh Nàng là ai? In trên Nghệ thuật thứ bảy!).Thế là ngày xưa, bà Vân Chung đã không nhận mình là T.T.Kh,còn bây giờ Bà đang “phản ứng gay gắt” Ta hãy chờ xem,nếu bà Thư Linh kể đúng sự thật và Thế Nhật viết đúng sự thật thì hà cớ gì bà Vân Chung lại “phản ứng gay gắt” nhất là đối với bà Thư Linh,một người “quen biết lâu đời”?”.

Đọc xong những gì ông Phan Đức viết ta thấy nổi bật lên những ý sau:

- Cả hai người,Phan Đứcchị Phạm Minh Chi đều không tin Vân ChungT.T.Kh cũng như cùng lên án nhiều điều bịa đặt trong tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai? là do lỗi của chính tác giả Thế Nhật,có lẽ cũng chẳng cần phải bình luận gì nhiều,bởi trong bài viết nêu trên ta đã thấy họ phản bác gần như đầy đủ rồi… Thế Nhật đã phạm phải một sai lầm khó cảm thông và tha thứ bởi tác giả đã không tuân thủ một điều sơ đẳng của thể loại “điều tra” là không bao giờ được khẳng định những điều mà mình mới chỉ được “nghe kể” mà lại không qua kiểm chứng,nhất là những sự kiện liên qua đến nhân thân của người trong cuộc…Trong thể loại này,người viết chỉ có thể dùng chính những dữ liệu,sự kiện mà hầu như ai cũng biết là các bài thơ của T.T.Kh, các tác phẩm-bài viết của ông Thanh Châu và của nhiều người khác có liên quan đến câu chuyện,hoặc tốt nhất là tiếp xúc được với những người trong cuộc để từ đó so sánh,đối chiếu,nêu ra những câu hỏi, những giả thiết,những ví dụ nhằm chứng minh hay phản bác để tìm ra “đáp số”có tính thuyết phục nhất,lôgich nhất chứ hoàn toàn không được áp đặt sự việc vốn có theo ý mình,ta chỉ có thể khẳng định khi đã chứng minh được những câu hỏi cần có từ chính những nguồn tài liệu nêu trên mà thôi. Đặc biệt cũng trong thể loại “điều tra”này là tác giả tuyệt đối không được hư cấu,bịa đặt theo chiều hướng thiếu tôn trọng những người trong cuộc và có liên quan, thông thường người ta chỉ có thể bỏ qua và thông cảm cho những sơ xuất nhỏ do nhầm lẫn vì sự kiện xảy ra đã lâu ngày hoặc nghe kể lại mà cũng không làm ảnh hưởng tới danh dự người khác hay bản chất của câu chuyện chứ không thể bỏ qua sự bịa đặt cố tình như là một giải pháp nhằm đánh vào sự tò mò vốn có của độc giả để câu khách,cho nên trong trường hợp này đối với tác giả Thế Nhật thì “một sự bất tín,vạn sự chẳng tin” là hoàn toàn chính xác và việc mọi người không tin câu chuyện ông viết thì tác giả chỉ có thể tự trách chính mình mà thôi !....

AI LÀ T.T.Kh ?

-PHẦN 6

1-Hai lá thư “phủ nhận” của bà Trần Thị Vân Chung:

Khoảng giữa tháng 9 năm 1994 tác giả Thế Nhật cho xuất bản cuốn sách T.T.Kh Nàng là ai?Ngay sau đó,trên Nguyệt san văn hóa thuộc Bộ văn hóa và báo Thanh niên đồng loại đăng những bài phân tích về cuốn sách.Trong đó báo Thanh niên chủ yếu đăng các bài phê phán,nhưng Nguyệt san văn hóa thì chủ yếu lại đăng các bài ủng hộ?Gây nên một làn sóng nhiều chiều về tác phẩm nêu trên,dư luận xôn xao đến mức cháu gọi bà Vân Chung bằng bác phải điện thoại sang Pháp thông tin cho bà biết...Bây giờ,ta hãy xem chính người trong cuộc phát biểu thông qua lá thư ngỏ viết ngày mùng 1 tháng 10 năm 1994 của bà Vân Chung viết từ Pháp gửi cho bà Thư Linh đồng thời cũng gửi đăng trên một số tờ báo: “…Tôi vừa nhận được hai cuốn Những dòng thơ hoaT.T.Kh nàng là ai?.Xin cảm ơn Chị và xin trả lời lá thư chị trần tình.Cũng như gần đây tôi đã viết cho em Hỷ Khương phủ nhận chuyện bảo tôi là T.T.Kh,dặn em đưa thư cho chị và nhà văn Thế Phong cùng rõ, ngay việc viết lai lịch tôi cũng không đúng:-Gia đình tôi gồm 8 anh,em một anh một chị đến tôi là thứ ba.Chúng tôi làm đám cưới vào Noel 1939(chứ không phải 1934!)nhà tôi hơn tôi 3 tuổi(chứ không phải 7 tuổi).Có lẽ để phù hợp với câu “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng?Chỉ có vài chi tiết nhỏ đã thấy không đúng với con người thật của tôi,huống gì còn bao nhiêu chuyện giả tưởng do bộ óc tinh vi của chị phóng đại ra! Ví dụ bức thư của chị mà nhà văn Thế Phong đã trích dẫn ít dòng,đại khái “…coi tôi viết đã đủ chưa?...” Sao chị cả gan dám mạo nhận là bạn thân thiết của tôi sau năm 1945?(tuy viết T.T.Kh nhưng không ai ngu gì mà không biết chị ám chỉ tôi)còn bịa đặt “…chị đã hứa với T.T.Kh chỉ được viết lại tâm sự của bà khi bà không còn nữa…”…Cuộc đối thoại giữa tôi và chị trong một chiều mưa.Khi nhà tôi đang đi cải tạo(chị không nói rõ năm?)cái màn mà chính chị đã tả tôi nghe qua bức thư ngày 20-9-1994. Tuy chị đổ lỗi cho Thế Phong,nhưng rồi chị lại tự thú với tôi cũng qua bức thư này!-Xin thưa với chị,trong bài Hoa tim ấy chị chỉ mạo lại,chụp hình lại những vần thơ tâm tình của T.T.Kh mà ai cũng biết, chẳng có gì khác lạ để Vân Nương phải bận tâm!Mặc họ với nhau chứ!.Nữ sĩ Thư Linh “Viết gửi T.T.Kh người chị thơ phương xa…” người bạn thân thiết sau 1945 kia mà!Tôi mới gặp chnăm 1978 thì can dự gì đến tôi?Ôi! câu chuyện ở nhà em Minh(1976)do chị tả mới thật rùng rợn ghê gớm!Thật đáng sợ cho miệng lưỡi người đời!...Chị coi em Minh ngây thơ như đứa trẻ 12-13 tuổi vừa nghe vài câu giới thiệu sơ sài của ông khách lạ đã vội chạy te te đi tìm chị! và buồn cười nhất là ông còn dọa ngồi (ăn) vạ nữa!Tiếp đến cảnh hai người ngã vào nhau(chị xem viết tới những chữ thô tục tôi đã phải tránh né để khỏi thẹn với ngòi bút!)theo tôi một người đàn bà Việt Nam đã có chồng thì là một cử chỉ vô luân,tồi bại!Hẳn mọi người ai cũng biết em Minh đông con,lúc nào cũng có vài con gái,mấy con trai lớn trong nhà thì bổn phận làm bác,làm mẹ phải dè dặt làm gương cho các con cháu chứ đâu có cảnh quá văn minh như chị đã tạo dựng nên!Chị cho là thường nhưng chúng tôi là con nhà có giáo dục,cổ truyền,không phải tư cách của chị,em chúng tôi! và tôi cũng phủ nhận sự việc đã bị chị vu khống cuộc gặp gỡ dơ bẩn ấy! Rõ ràng chị muốn bôi nhọ tôi chưa đủ,chị còn gắp lửa bỏ bàn tay em Minh nữa!...Khi chị bị hợp tác với nhà văn Thế Nhật đưa ra cuốn sách quái gở,tôi đã bị các chị,em trong Quỳnh Dao trách cứ

Các bạn trách tôi cũng đúng vì tình nghĩa mấy chục năm ít ra tôi gạn lọc được một,hai bạn tâm tình để thổ lộ tâm can.Tại sao đối với chị mới quen năm 1978 mà tôi vội trao trọn niềm tâm sự? Tôi cũng là con người đâu phải thần thánh mà không có tính khoe khoang?Nhận mình là T.T.Kh cũng hãnh diện lắm chứ.Chị đã lúng túng xin lỗi tôi,dỗ dành tôi như dỗ con nít sau khi:-Bị chị quất cho một đòn chí tử! như trong lá thư đề ngày 20-9-1994: “…Dù có vì chuyện này mà chị trách giận em thì em xin lỗi chị…” Ơ hay! Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách chị được?...Tôi suy ngẫm mãi…mới hiểu thâm ý chị là người háo danh vụ lợi …tạo dựng ra câu chuyện giả tưởng để có cuốn T.T.Kh nàng là ai?đồng thời in luôn cuốn Những dòng thơ hoa để ai đã đọc cuốn này sẽ phải tìm đọc cuốn kia!sách sẽ bán chạy như tôm tươi,tha hồ thu tiền về... Tôi không trách gì nhà văn Thế Nhật vì chính chị mới là đạo diễn,tác giả mà Thế nhật chỉ là người thu hình…Chắc chị đã đọc thư tôi viết cho Hỷ Khương? Đúng thế đấy chị ạ! Nếu thật tôi là T.T.Kh thì có gì là xấu?.Người con gái nào cũng có quyền yêu và cấm sao được người ta yêu mình?.Chỉ những người đàn bà có chồng rồi còn ngoại tình,còn yêu kẻ khác mới đáng khinh khi phỉ nhổ! Huống gì nay được khoác cho danh hiệu một nữ sĩ đã làm chấn động dư luận một thời…Nhưng tiếc thay,trước đạo lý và lương tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu! Sợ một ngày nào đó,do một sự tình cờ ai đó tìm ra con người thật T.T.Kh thì danh chưa thấy đâu,chỉ nhận lấy sự khinh bỉ của đời.Nếu ở thời chế độ cũ chị đã bị ra tòa về tội gì chắc chị không phải là người ngu mà không biết?Nhưng hiện tình tôi chỉ còn cách nhờ báo chí phổ biến giùm hai bức thư trước dư luận để sáng tỏ thực hư vì giờ phút này trong bạn bè thân thuộc cũng như gia đình chúng tôi ở hải ngoại hay quốc nội chắc chắn đã đọc cuốn sách quái gở T.T.Kh nàng là ai? Do chị đẻ ra theo lời xác nhận của nhà văn Thế Nhật: “Nếu không có chị thì đã không có cuốn sách này” Chuyện bắt buộc tôi phải lên tiếng để mọi người cùng biết đâu là sự thật mà tôi là nạn nhân! Nhất là còn vì danh dự của mấy gia đình chúng tôi nữa…”.

Và đây,lá thư ngỏ thứ hai bà Vân Chung viết từ Pháp ngày mùng 4-11-1994 gửi bà Thư Linh và cũng được đăng công khai trên báo Thanh Niên số cuối năm 1994: “Cuốn sách T.T.Kh nàng là ai? đã tới tay tôi ngày 28-9-1994, do nữ sĩ Thư Linh gửi…Đọc xong cuốn sách,tôi nhận thấy đây là chuyện mơ hồ,hư cấu do sự tưởng tượng của Thư Linh,người cung cấp “tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật…chỉ là một thứ Tiểu thuyết,không thể coi như là “tài liệu văn học” như quí vị mong muốn. Bởi vì đã gọi là “tài liệu văn học” thì sự việc và nhân vật phải cho thật chính xác.Cuốn sách đã nêu đích danh tôi:-Vân Nương Trần Thị Vân Chung,nên tôi gửi thư này tới quí vị,lên tiếng đính chính những điều sai trái,lầm lỗi trong cuốn T.T.Kh nàng là ai?.Chỉ tiếc hành động của quí vị đã quá hấp tấp(nếu không muốn nói là quá sơ xuất).Vì theo thông lệ:-Trước khi xuất bản một cuốn sách thuộc về “tài liệu văn học”gọi đích danh đương sự,nêu hình ảnh,chà đạp lên đời sống cá nhân v.v…quí vị cũng nên thận trọng trong hành động,phải lắng nghe ý kiến của cả hai bên. Quí vị có thể liên lạc thẳng với tôi hỏi xem thực hư ra sao,để tránh những lầm lỗi tai hại…Điều trước nhất tôi xin thưa: “Tôi không phải là T.T.Kh!” Dưới đây tôi xin nêu rõ từng điểm sai trái,bịa đặt trong cuốn T.T.Kh nàng là ai?:

1/Trong sách viết chúng tôi làm đám cưới năm 1934…Tôi sinh năm 1919, nếu lấy chồng năm 1934 tôi mới 15 tuổi hay sao? trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi,sao mâu thuẫn vậy?
Sao quá vụng tính toán cho thời gian không ăn khớp nhau?

2/Chúng tôi hơn nhau ba tuổi.Nhà tôi tuổi Bính Thìn(1916) tôi Kỷ Mùi(1919) sao lại viết hơn nhau 9 tuổi?Có lẽ (tác giả)muốn chứng minh cho đúng thời gian xuất hiện thơ T.T.Kh vào năm 1937 và cho hợp với câu thơ “Tóc úa giết dần đời thiếu phụ” và “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng? (T.T.Kh…trang 50)

3/Nói về gia đình tôi cũng không đúng!Bố tôi không làm quan(cũng như khi làm đám cưới,nhà tôi chưa là quan huyện!).Chúng tôi có tám anh,em (ba trai,năm gái) chứ không phải năm người. Tôi thứ ba,không phải trưởng nữ,thế nên tôi đã có bút hiệu Tam Nương.

4/Tôi không viết bút ký hay có thơ đăng báo Ngôn Luận trước 1975, cũng như bút hiệu Lê Phương Đông,chứ không phải Lê Đông Phương.

5/Nhà tôi bị chính phủ Ngô Đình Diệm bắt giam tại khám Chí Hòa ba năm (1960-1963) chứ không phải đi đày Côn Đảo.

6/Năm 1976,tôi vẫn ở Cư xá Nông Tín, đường Trương Minh Ký cũ, từ 1972-1982.Mãi tới năm 1980,nhà tôi đi cải tạo về,chúng tôi có giấy xuất cảnh mới bán nhà này, dọn về ở nhờ nhà chị Mộng Tuyết, đường Nguyễn Minh Chiếu cũ vào năm 1982.

7/Câu chuyện (chị Thư Linh và tác giả Thế Nhật) tạo dựng vào năm 1976, ông Thanh Châu gặp tôi ở nhà em Minh(vợ nhà thơ Hà Thượng Nhân)cũng hoàn toàn thêu dệt,vu khống.Sự sỗ sàng của một người đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại đã tả trong cuốn sách T.T.Kh nàng là ai? (từ trang 54 tới trang 65) nếu chúng tôi có mặt tại Quê nhà đã đưa chị ra tòa,kiện về tội mạ lỵ và vu khống!

8/Vì sự thật năm 1976,ông Thanh Châu vào Nam có nhờ cô em họ tôi dẫn tới thăm tôi tại cư xá Nông Tín,đường Trương Minh Ký cũ…Cuộc thăm gặp này chỉ hoàn toàn có tính cách như hai người bạn cũ gặp lại với sự hiện diện của cô em họ, rất đàng hoàng,đứng đắn.Vì trải qua bốn mươi năm, cả hai bên đều đã an phận từ lâu,cả hai bên đều có bổn phận đối với gia đình mình.Hơn nữa,ông cũng là bạn thân của ông anh ruột tôi từ hồi còn ở Thanh Hóa.Tôi còn gặp ông một lần nữa tại nhà anh, chị tôi khi ông đến chào để về Bắc. Như vậy tôi nghĩ đâu có gì đáng nói khi đã coi nhau như bạn?

9/Bôi nhọ nhà tôi,đúng là người chết rồi cũng không được buông tha:-Bà cũng nhớ đến ngày Phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc…(T.T.Kh…trang 60-61).Tôi xin thưa:-Trước sau văn phòng luật sư của nhà tôi chỉ có hai cô nữ thư ký: Một cô là Phật tử,trong gia đình Phật tử chùa Quán Sứ,Hà Nội.Khi vào Nam,cô đã là huynh trưởng của bốn đứa con chúng tôi,trong gia đình Phật tử chùa Phước Hòa,Sài Gòn vào thời gian đó.Vài năm sau,cô đi lấy chồng,nên đã thay thế con gái của một người bạn chúng tôi và cũng là bạn chơi phong lan của(nhà văn)Nhất Linh-Nguyễn Tường Tam,một gia đình nho phong ngoài Bắc vào Nam năm 1954…và tuy làm thư ký văn phòng,chúng tôi vẫn coi hai cô như con,cháu trong nhà…Tóm lại, cả chín điểm kể trên(sách viết)đều không đúng trường hợp và con người thật của tôi. Chứng tỏ chị (Thư Linh) đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép tôi là T.T.Kh,một nữ sĩ thời danh đã có những vần thơ trác tuyệt,đã có sự cảm phục tất cả của người Việt Nam ưa chuộng văn thơ suốt hơn nửa thế kỷ nay(trong đó có cả tôi nữa)với mục đích gì?Vì danh lợi chăng?Nhưng thật đáng tiếc, đạo lý và lương tâm đã không cho phép tôi nhận ẩu,vì mạo danh một nữ sĩ nổi tiếng,cũng như đạo văn,là một tội xấu xa nhất trong văn giới!Cho nên một lần nữa tôi phủ nhận tôi là T.T.Kh!.Mong trả lời từng điểm cho minh bạch.”

2-Vì sao bà Vân Chung không thừa nhận mình là T.T.Kh?:

Đọc xong hai bức thư trên của bà Vân Chung, cảm giác đầu tiên của chúng ta là:

-Niềm tin về những gì đã được phân tích,diễn giải và chứng minh ở các phần trước bỗng chốc bị “lung lay” dữ dội.Ta như bị dội một gáo nước lạnh làm “ướt hết” những trang giấy vừa viết và quả thật khó mà tìm ra được những từ ngữ khác để diễn tả cái cảm giác này…Thế nhưng,khi đã lấy lại được bình tĩnh chúng ta đọc thật kỹ những phân tích,lý giải,chứng minh ở các phần trước và lá thư của bà Thư Linh,bài viết của tác giả Phan Đức cũng như hai bức thư gửi về từ Pháp của bà Vân Chung.v.v…thì chúng ta sẽ nhận thấy rằng thực ra câu chuyện “tiết lộ về thân phận” của bà Vân Chung dẫn đến sự xuất hiện của tác phẩm “hư cấu” T.T.Kh nàng là ai? của tác giả Thế Nhật cũng như tại sao lại có việc lên tiếng phủ nhận mình là T.T.Kh của bà Vân Chung kèm theo những lời “cáo buộc”gay gắt dành cho các tác giả cũng không hề đơn giản như chúng ta thường nghĩ,mà trong đó còn chứa đựng khá nhiều câu hỏi “bí ẩn” rất cần được trả lời .Để tiện so sánh cũng như không làm rối mắt đọc giả,chúng ta tạm “chia” các nhân vật theo từng phần để cùng phân tích và lý giải cho cặn kẽ.

2a-Sự liên quan của bà Thư Linh:

-Thực ra,nếu suy cho đến cùng thì bà Thư Linh cũng chỉ là một “nạn nhân” của sự “giận cá chém thớt” từ những dữ kiện sau đây:-Thứ nhất: việc bà biết được “sự thật” về bà Vân Chung-T.T.Kh không phải do bà Vân Chung chủ động tâm sự hay kể lại,mà là do câu chuyên dẫn dắt một cách hết sức tự nhiên không hề có sự chuẩn bị từ trước “em cùng chị luận bàn về sắc thái của các Nữ sĩ,khi nhắc tới ba bài thơ về Hai sắc hoa tigôn,em nhớ trước đây chị bảo em chị ở Thanh Hóa và cũng từ những “thông tin” đã biết(qua lời chị bạn và những diễn biến của câu chuyện mà chúng ta đã từng phân tích) thì bà Thư Linh mới có “cơ sở” để dám hỏi lại bà Vân Chung để từ đó Bà “tìm thấy” sự thật như bức thư đã trình bày rõ,như vậy nếu cho rằng bà Thư Linh cố tình bịa ra câu chuyện này là không có cơ sở và quá vội vàng vì chưa hiểu hết lý do thực sự trong lúc nóng giận của bà Vân Chung thật ra chính là ở việc tác giả Thế Nhật đã hư cấu một cách quá đáng và khó có thể chấp nhận được,ngay cả với những người ngoài cuộc.Còn việc bà Như Hiên “giận lẫy” vì cho rằng vì chị ở trong Quỳnh Dao sao chị không tâm sự với chị ấy mà em là người ngoài Quỳnh Dao lại được biết! là có lẽ do bà Như Hiên đã không biết được “đầu đuôi” của sự việc mà thôi.!

-Thứ hai là: bà Thư Linh cũng không hề chủ động “kể” lại câu chuyện với riêng tác giả Thế Nhật mà rõ ràng là xuất phát từ việc Em nghe anh Thanh Vân nhắc tới T.T.Kh rằng anh ấy đã tới thăm tại nhà…với tâm lý rất đời thường kiểu như: sao các vị lại cứ “thằng chết cãi thằng khiêng” đã làm bà “buột miệng” mà vô tình nói ra trước nhiều người,dẫn đến sự “giận lẫy” của bà Như Hiên mà chúng ta đã biết,cho nên nếu nói rằng Chứng tỏ chị đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép tôi là T.T.Kh thì quả là cũng hơi phiến diện…bởi vì những “nhân chứng” vẫn còn đó,nếu như không phải là sự thật thì tại sao bà Vân Chung không dùng ngay vợ chồng người bạn thân vốn cùng trong nhóm thơ Quỳnh Dao là ông,bà Thanh Vân- Như Hiên để cải chính?Xem lại cả hai bức thư ta không hề thấy một dòng nào bà Vân Chung đề cập tới việc này như là một “bằng chứng” để chứng minh rằng câu chuyện vô tình tiết lộ…của bà Thư Linh là không đúng sự thật,tại sao thế? đơn giản là vì nó đúng là sự thật hiển nhiên rồi, bà Thư Linh không hề bịa!...

-Thứ ba: Việc ông Thanh Châu tìm gặp lại bà Vân Chung thì,như bà Vân Chung viết Tôi mới gặp chị năm 1978,trong khi thực tế sự việc đó đã xảy ra từ trước khi hai Bà quen nhau những hai năm câu chuyện ở nhà em Minh(1976).Như vậy thì bà Thư Linh cũng chỉ là người được nghe ai đó kể lại!Nhưng,người đó là ai nêú như không phải từ những người có mặt trong buổi tiếp kiến đó? Tới đây,chúng ta thấy rằng có ba khả năng xảy ra:-Một là,câu chuyện đó do chính bà Vân Chung kể lại với bà Thư Linh vì thế khi tác giả Thế Nhật bịa ra những tình tiết không có thật(về diễn biến của cuộc gặp) thì bà Vân Chung mới trách Ơ hay! Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách chị được?bởi lẽ,nếu bà thực sự không kể bất cứ điều gì liên quan đến câu chuyện thì làm sao bà lại đi trách người ta được?.Khả năng thứ hai là một trong những người có mặt chứng kiến cuộc tái ngộ giữa hai ông,bà đã kể lại với người thứ ba rồi mới đến tai bà Thư Linh?.Khả năng thứ ba là một người nào đó có mặt hôm đó trực tiếp kể lại với bà Thư Linh?Nhưng khi xét tất cả những yếu tố liên quan,chúng ta thấy rằng khả năng đầu tiên là đáng tin và hợp lý hơn cả,bởi vì như bà Thư Linh viết trong thư Chị còn cho em biết:-Cách đây ít lâu Anh bạn cũ ấy vào Nam tìm chị…thì nếu như không phải là sự thật làm sao mà bà lại dám viết và gửi cho chính bà Vân Chung?Để phân tích và lý giải cho đến cùng nên ta“lần” theo hai khả năng sau cho hết lẽ thì thấy rằng phải có một lý do hay hoàn cảnh nào đó “đưa đẩy” thì “ai đó” mới kể lại câu chuyện này với bà Thư Linh vì bản thân bà làm sao biết được có câu chuyện đã xảy ra từ hai năm về trước để mà đi hỏi một cách đường đột?hơn nữa,dù có khéo tưởng tượng đến mấy thì chúng ta cũng khó mà áp đặt được một “kịch bản” nào đó cho có lý hơn so với khả năng đầu vì thực ra chúng ta cũng chẳng lấy đâu ra dữ kiện để có thể chứng minh được điều đó!.Tuy nhiên,dù cho là khả năng nào đi chăng nữa thì việc bà Thư Linh nhầm lẫn về địa điểm của cuộc gặp giữa ông Thanh Châu và bà Vân Chung cũng không đến nỗi làm cho những người trong cuộc phải quá khắt khe đến như vậy,nếu như bình tĩnh suy xét thì thấy rằng sự nhầm lẫn này có lẽ đã không trở thành “to chuyện” nếu như tác giả Thế Nhật không hư cấu một cách quá đáng và có phần “sướt mướt” nhằm để câu khách! Đó cũng chính là lý do mà bà Vân Chung cũng như những người khác lấy làm “bằng chứng” để phản bác lại…Vì cũng có thể do câu chuyện nghe kể đã lâu ngày hay có thể bà Thư Linh hiểu theo tâm lý thường tình ở đời,thông thường (kể cả với lối sống “hiện đại” như ngày hôm nay) khi gặp lại người yêu cũ thì mấy ai dám tiếp ở ngay tại nhà mình mặc dù không hề có điều gì khuất tất?. Có lẽ nếu cho rằng đây là “lỗi nhận định” của bà Thư Linh trong câu chuyện vô tình tiết lộ về danh tính của T.T.Kh cũng không phải là không có lý!...

-Thứ tư là: Bản thân bài thơ Hoa tim và cả tập Những dòng thơ hoa mà bà Thư Linh sáng tác (đã xuất bản, bà Thư Linh lấy cảm hứng từ câu chuyện tình có thật của bà Vân Chung,mà nay bà đã biết cũng chính là T.T.Kh) cũng như gửi tặng bà Vân Chung cũng không hề có dòng nào hé lộ T.T.Kh là bà Vân Chung như chính bà xác nhận: trong bài Hoa tim ấy chị chỉ mạo lại,chụp hình lại những vần thơ tâm tình của T.T.Kh mà ai cũng biết,chẳng có gì khác lạ để Vân Nương phải bận tâm!Mặc họ với nhau chứ!. Xâu chuỗi các sự kiện lại với nhau thì chúng ta thấy rằng,căn cứ vào sự vô tình nói ra T.T.Kh là ai của bà Thư Linh khi nghe ông Thanh Vân kể về một người quen nào đó là T.T.Kh với sự có mặt của nhiều người,trong đó có tác giả Thế Nhật cho nên sau đó dựa vào bài thơ Hoa tim mà thực ra cũng chỉ là một cái cớ để “dẫn chuyện” của tác giả để rồi phóng tác ra câu chuyện nặng về hư cấu là lỗi của Thế nhật chứ đâu phải của bà Thư Linh? Tôi không trách gì nhà văn Thế Nhật vì chính chị mới là đạo diễn,tác giả mà Thế nhật chỉ là người thu hình…Lời trách cứ này của bà Vân Chung cũng là điều dễ hiểu vì bản thân bà đâu có biết Thế Nhật là ai?Trong khi chính bà Thư Linh mới là bạn mình dù có vì tức giận mà gọi là “mới quen” đi chăng nữa thì thời gian từ năm 1978 đến thời điểm đó(1994) đã 16 năm, thời gian cũng đâu phải ngắn ngủi gì với không ít tâm tình,kỷ niệm do vậy bà không trách Thư Linh thì biết trách ai?Còn cho rằng đồng thời in luôn cuốn Những dòng thơ hoa để ai đã đọc cuốn này sẽ phải tìm đọc cuốn kia!sách sẽ bán chạy như tôm tươi, tha hồ thu tiền về...thì quả là thiếu thuyết phục,bởi vì thực ra nó không mấy liên quan,trong toàn bộ tập thơ kể trên của bà Thư Linh không hề có dòng nào cho thấy bà Vân Chung chính là T.T.Kh,hơn nữa thơ của bà Thư Linh làm sao sánh được với những bài thơ của T.T.Kh trên mọi phương diện,đơn giản là bản thân bà làm sao có cảm xúc cũng như hoàn cảnh đặc biệt để làm ra những bài thơ hay và đớn đau đến thế?Vậy thì người ta sẽ tìm đọc thơ của ai? Mặt khác do tác giả Thế Nhật cố tình đưa những thông tin mập mờ về tập thơ của bà Thư Linh như một lý do cho sự “ra đời” của cuốn T.T.Kh nàng là ai? suy cho cùng chỉ là một thủ thuật của tác giả cho thêm phần “khả tín” cũng đâu phải là lỗi của bà Thư Linh?Do đó bảo rằng Chứng tỏ chị đã cung cấp “Tài liệu giả tưởng” cho tác giả Thế Nhật để gán ghép tôi là T.T.Kh thì quả là cũng oan cho bà ấy!?...

2b-Tác giả Thế Nhật mới chính là “rắc rối” của vấn đề:

Xuyên suốt những dữ kiện từ bức thư “giải trình” của bà Thư Linh,bài viết của ông Phan Đức và hai bức thư ngỏ của bà Vân Chung…Chúng ta thấy nổi bật lên rằng:-Câu chuyện về sự tiết lộ danh phận của bà Vân Chung-T.T.Kh cũng giống như một nhóm người cùng đi du lịch và bà Thư Linh chỉ là người đã vô tình cầm chiếc đèn pin chiếu vào một cánh cửa bí ẩn bên trong hang động chưa có dấu chân người,còn tác giả Thế Nhật thay vì phải đi tìm chiếc chìa khóa để có thể mở toang cánh cửa rồi cùng với mọi người xem bên trong có những gì,nhưng vì quá vội vàng và sốt ruột nên lại chỉ “đục” một lỗ nhỏ để “ghé mắt” nhìn vào bên trong cánh cửa vẫn còn tối mờ mịt không thể thấy rõ “đồ vật”bên trong cho nên khi mọi người hỏi thì phải nói bừa cho ra vẻ là ta đã nhìn thấy được mọi thứ…Như vậy,việc nhiều người không tin vào những gì tác giả đã miêu tả cũng không có gì là lạ!.Trở lại với thực tế câu chuyện,chúng ta có vô số ví dụ cho “hình ảnh” nêu trên: bà Thư Linh chỉ nói Chị và người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…(…ôm chầm lấy,khóc nức nở ướt đẫm vai áo chàng,như không muốn rời xa để bù lại cho những tháng,năm dài đã trôi về dĩ vãng… T.T.Kh nàng là ai?) thực ra,dù chỉ là với hai người bạn thân cùng giới lâu ngày mới gặp lại thì việc rơm rớm nước mắt,mừng mừng tủi tủi cũng là việc bình thường huống hồ đây lại còn là cuộc gặp sau hơn 40 năm của hai người từng yêu nhau say đắm thì cảm xúc đó cũng là điều đương nhiên và dễ chấp nhận,thế nhưng miêu tả như Thế Nhật không những lại quá là sướt mướt mà còn thiếu thực tế ở chỗ ngay như hiện nay (thế kỷ 21) bạn có dám “làm” như vậy trước mặt gia đình,con cháu…không?Cho nên bà Vân Chung mới phản ứng Sự sỗ sàng của một người đàn bà có chồng rồi mà còn cử chỉ vô luân tồi bại…cũng còn là nhẹ!...Chúng ta cũng thấy rằng,chỉ mỗi cái việc tả cảnh hai người gặp lại nhau mà tác giả đã phải dùng đến những 12 trang giấy (từ trang 54 tới trang 65) thì đủ nói lên mức độ “mùi mẫn” kinh khủng như thế nào?…Tất nhiên là sau hôm mọi người tập trung ở nhà bà Thư Linh rồi nghe bà vô tình tiết lộ danh phận của bà Vân Chung-T.T.Kh thì chắc chắn tác giả Thế Phong và Trần nhật Thu hoặc chỉ có một mình Thế Phong phải quay lại gặp bà Thư Linh để hỏi thêm vài chi tiết liên quan,nhưng có lẽ thời gian đầu Thế Nhật chưa có ý định hoặc là cố tình dấu bà Thư Linh về việc sẽ viết cuốn sách về bà Vân Chung-T.T.Kh nên chỉ cố tỏ ra như những người khách tò mò muốn biết câu chuyện ngày xưa của những người trong cuộc,vì thế bà Thư Linh mới vô tư kể -Nếu không đẹp sao anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới?hay Chị và người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc…về những chi tiết liên quan đến thân thế gia đình của bà Vân Chung thì cũng chưa chắc bà Thư Linh đã biết rõ vì không ai lại đi đường đột hỏi như điều tra lý lịch người ta bao giờ,nhất lại là với lớp “người xưa” như hai bà,cho nên có thể bà Thư Linh cũng chỉ kể lại với tác giả Thế Nhật một cách khái quát như quê bà Vân Chung ở Thanh Hóa,chồng làm luật sư…chứ không thể bịa ra mọi chuyện mà mình không biết rõ một cách hàm hồ được(chắc chắn bà cũng phải ý thức được rằng ngoài bà Vân Chung ra thì những người bạn trong Quỳnh Dao đều là những người cũng quen biết và khá thân với bà),vì thế khi biết rõ Thế Nhật viết câu chuyện trên thành sách thì bà Thư Linh cũng chỉ có thể đề nghị tác giả phải đính chính những lời mà chính bà kể một đằng nhưng tác giả đã viết thành một nẻo như: Em đâu dè Thế Phong và Trần Nhật Thu viết thành tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai? Căn cứ (cả) vào bài thơ Hoa tim của em.Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị và người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đãtrong bài thơ em đâu có nói ôm hôn,nên em phôn đòi cải chính thì sách đã in mất rồi…Như vậy thì ngoài những dữ kiện đã dẫn ở trên ra thì toàn bộ câu chuyện còn lại của Thế Phong là hoàn toàn được hư cấu theo ý tác giả chứ không phải do bà Thư Linh cung cấp!?Điều đó cũng là dễ hiểu vì thông thường ngoài những gì mình đã kể lại mà tác giả viết sai sự thật thì mới cần phải “đính chính” cho rõ chứ những hư cấu khác của tác giả đâu phải lỗi của mình mà lại phải đi “giải trình” vì có thể những điều đó chính bản thân mình cũng chưa chắc đã biết rõ,đó cũng là tâm lý thường tình như của tất cả chúng ta…Phải chăng khi đã phần nào lấy lại được bình tĩnh bà Vân Chung cũng hiểu ra được điều này nên mới viết trong thư: Khi chị bị hợp tác với nhà văn Thế Nhật đưa ra cuốn sách quái gở…?.Vì thế,như trên đã phân tích do bà Vân Chung không biết tác giả Thế Nhật là ai nhưng những gì cuốn sách viết ra là không thể chấp nhận được cho nên việc bà dùng kiểu “chửi chó (để) mắng mèo” cũng là điều hợp lý,cho nên bà mới dặn em đưa thư cho chị và nhà văn Thế Phong cùng rõ là vì vậy.Đi sâu vào những gì tác giả Thế Nhật đã viết,ta thấy rằng ngoài việc hư cấu cho câu chuyện thêm lâm ly,ướt át thì tác giả lại còn cố “gò ép” các sự kiện “ngoài đời” mà mình tưởng tượng ra để cho phù hợp với những khổ thơ của T.T.Kh trong khi lẽ ra Thế Nhật cần phải kiểm chứng,phân tích,diễn giải thật khách quan và tôn trọng sự thật,tôn trọng những người đã lớn tuổi thuộc thế hệ đi trước một cách khoa học và thận trọng vốn cần phải có của một người cầm bút chân chính…Các tác giả đã không làm được điều mà sau này Trần Đình Thu đã ít,nhiều làm được.Vì thế mới dẫn đến nhiều “sự kiện” vừa không đúng với sự thật vừa như moi móc đời tư của những người khác là điều khó tha thứ và chấp nhận đối với một nhà văn đúng nghĩa,ở đây các tác giả đã cố tình nhầm lẫn giữa thể loại điều tra với các câu chuyện của loại tiểu thuyết lá cải diễm tình chỉ cốt làm cho nổi bật sự giật gân để đánh vào lòng tò mò của lớp độc giả bình dân vốn hay khoái những câu chuyện như thế,nhưng ở đời cũng đâu có đơn giản như vậy?Có lẽ các tác giả đã quá chủ quan hoặc coi thường độc giả yêu thơ vốn hiểu biết và nhậy bén cũng như biết phân tích,suy luận để hiểu được đâu là sự thật có lý, có tính thuyết phục, đâu là những điều phi lý toát lên từ chính những trang viết này? Đọc lại bài viết của Phan Đức hay hai lá thư của bà Vân Chung, chúng ta thấy rõ sự phản đối quyết liệt đến mức có nhiều chỗ khá nặng lời đã là minh chứng cụ thể cho những nhận định trên,phải chăng vì cũng ý thức được điều đó mà ở lần tái bản sau tác giả Trần nhật Thu đã “rút lui” để chỉ còn lại một mình Thế Phong?Điều đáng tiếc là từ những “ánh sáng” ban đầu soi rọi vào cánh cửa chứa đựng bí ẩn văn chương này ông Thế Phong đã không biết tận dụng bằng tất cả niềm đam mê khám phá cũng như sự thận trọng và khoa học nhân văn để đến nỗi chính mình tự đẩy mình sang hàng ngũ của những người “thợ viết”. Thật đáng tiếc lắm thay…

2c-Vì sao bà Vân Chung không nhận mình là T.T.Kh?:

Điều đầu tiên nhận thấy sau khi ta đọc hai lá thư ngỏ của bà Vân Chung là lá thư thứ hai rõ ràng đã bớt gay gắt hơn lá thư đầu rất nhiều, ở cả hai lá thư chúng ta thấy nổi bật lên ý của người viết là chủ yếu để phản bác lại những sự kiện không đúng với sự thật hay không được tác giả phân tích, chứng minh một cách thuyết phục trong tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai? Chứ không phải chủ yếu muốn phủ nhận mình là T.T.Kh!.Bởi lẽ, nếu chỉ là không muốn thừa nhận mình là T.T.Kh thì cần gì phải quá dài dòng và cần gì đến những hai lá thư? Trong đó lá thư thứ hai cũng gần như lặp lại từ những ý của lá thư đầu chỉ có khác đôi chút là nó được sắp xếp lại cho lớp lang hơn,thêm một vài ý mà lá thư đầu còn bỏ sót, nhưng lại “lờ đi” tình tiết về việc bà Thư Linh đã vô tình tiết lộ thân phận của T.T.Kh, tại sao lại có sự thay đổi này? Thì ra,lá thư thứ hai thực chất chỉ nhằm chủ đích để “trả lời” cho từng phần hư cấu từ những trang viết của tác giả Thế Phong, cũng như “dạy” cách viết T.T.Kh Nàng là ai?…chỉ là một thứ Tiểu thuyết, không thể coi như là “tài liệu văn học” như quí vị mong muốn. Bởi vì đã gọi là “tài liệu văn học” thì sự việc và nhân vật phải cho thật chính xác…là dành cho các tác giả hơn là nhằm bác bỏ chính mình là T.T.Kh! và lá thư đã được bà “liệt kê” rõ: Tóm lại, cả chín điểm kể trên đều không đúng trường hợp và con người thật của tôi đã cho thấy điều đó.

Đến đây, chúng ta thử “nhập vai” Tòa án để cùng phân tích về Nếu ở thời chế độ cũ chị đã bị ra tòa về tội gì chắc chị không phải là người ngu mà không biết? (lá thư đầu) và nếu chúng tôi có mặt tại Quê nhà đã đưa chị ra tòa,kiện về tội mạ lỵ và vu khống!(lá thư thứ hai) chúng ta cùng “thụ lý” về ý thứ nhất trong “đơn kiện” là bà Thư Linh và tác giả Thế Nhật đã cùng “vu khống” bà Vân Chung là T.T.Kh thì thấy rằng,bản thân nhân vật T.T.Kh từ lâu đã là một “huyền thoại” nổi tiếng trong văn chương-thi phú nước nhà chứ đâu phải là một người có nhân thân quá xấu xa (xin lỗi,ví dụ như tú bà hay là kẻ buôn,bán hêrôin?)mà bảo là người ta vu khống cái danh xấu đó cho mình? Chắc chắn điều này sẽ làm “quí tòa” phải phì cười mà trả lại đơn kiện! và có lẽ bà Vân Chung cũng không thể không hiểu điều này,cho nên chỉ có chính chúng ta mới cần phải hiểu cho đúng ý của bà là kiện về những điều mà các tác giả đã quá đà khi viết về những điều không đúng sự thật làm ảnh hưởng tới danh dự cá nhân và danh dự gia đình của bà mà thôi!

Về việc bà Vân Chung viết(ở lá thư đầu): Tuy chị đổ lỗi cho Thế Phong,nhưng rồi chị lại tự thú với tôi cũng qua bức thư này thì rõ ràng khi đọc đi đọc lại hai bức thư của bà Vân Chung cũng như bài viết của độc giả Phan Đức rồi so sánh với lá thư của bà Thư Linh chúng ta cũng không tài nào tìm ra được nhưng rồi chị lại tự thú với tôi ấy nó nằm ở đâu? Chúng ta sẽ phải hiểu thế nào đây về lời “buộc tội” này vì thông thường ở đời,nếu ta nói về một sự việc nào đó không đúng với sự thật mà lại làm ảnh hưởng đến danh dự của người khác thì mới phải “tự thú” chứ, đằng này việc “thêm mắm,thêm muối” trong tác phẩm T.T.Kh Nàng là ai? đâu phải là lỗi ở bà Thư Linh? “…chị đã hứa với T.T.Kh chỉ được viết lại tâm sự của bà khi bà không còn nữa…” trong khi bà thư linh chỉ viết(về việc này có lẽ bà cũng đã kể lại với Thế Nhật) em bảo rảnh sẽ viết về chị.Chị bảo:-Thư Linh đừng viết,anh Chấn hay ghen lắm,nên em hứa sẽ không viết…mà quả thật là trong chừng mực nhất định bà cũng đã giữ đúng lời hứa vì trong cả tập thơ Những dòng thơ hoa không hề có một đoạn nào tiết lộ rằng bà Vân Chung là T.T.Kh, ta cùng xem lại thư bà viết:Có nhiều chỗ họ hư cấu như nhắc thời gian đó Chị ở nhà bà Mộng Tuyết,còn chỗ Chị và người ấy gặp nhau,em chỉ thuật là đã khóc,vậy mà họ dám tầm bậy là đã…hay như trong bài viết của Phan Đức ta thấy chi tiết: Người viết quá ẩu.Trong bài viết,tác giả đã cho công bố một bức ảnh(ở trang 4) và chú thích:-“ Bà T.T.Kh và người bạn chụp trong vườn cam tại Mỹ Tho năm 1984-Bà T.T.Kh cầm trái cam” Sự thật người cầm trái cam là nhà thơ Tôn Nữ Hỷ Khương.Nhưng có lẽ Thế Nhật cố tình chú thích sai đi để có thể viết câu sau đây: “ Bà T.T.Kh tay cầm trái cam mà tôi nghĩ đó là trái cấm của EVA đã đưa cho chàng ADAM” không lẽ cũng đổ tội do bà Thư Linh cung cấp cho Thế Nhật?không lẽ bà “quên” cả mặt bà Vân Chung? và vì thế mà chúng ta chẳng cần phải bình luận gì thêm!...Ở đây chúng ta cũng cần phải nhấn mạnh đến việc tác giả Thế Nhật đã viết một cách rất lập lờ rằng“Chúng tôi phải cảm ơn bà Đ.T.L nhiều,bởi vì không có bà thì sẽ không có cuốn sách này” hay bức thư của chị mà nhà văn Thế Phong đã trích dẫn ít dòng,đại khái “…coi tôi viết đã đủ chưa?...đã làm cho rất nhiều người phải hiểu lầm bà là “đồng tác giả”của nhiều tình tiết bịa đặt trong cuốn T.T.Kh Nàng là ai? nếu không được theo dõi cũng như phân tích câu chuyện một cách đầy đủ như chúng ta đang làm! Cũng theo tác giả Phan Đức viết: Theo bài trả lời của bà Nghiêm phái-Thư Linh(tức Đ.T.L)đăng trên trang 24 và 25 Nguyệt san Văn Hóa(số tháng 9/94) thì thực ra nội dung đó cũng chẳng khác mấy so với bức thư bà viết ngày 20-9-1994 gửi bà Vân Chung! Cho nên “nỗi oan” này của bà Thư Linh sẽ khó mà giải tỏa được vì rất nhiều người trong chúng ta ít khi có thời gian và điều kiện để “đặt” các tài liệu có liên quan như thế này bên cạnh nhau để mà so sánh,đối chiếu nhằm tìm ra sự thật để mà “giải oan”cho bà!Xem kỹ những gì bà Vân Chung viết trong thư,sau khi đã lần lượt vạch ra những điều sai trái,bịa đặt của tác giả Thế Nhật rõ ràng với hàm ý phản đối gay gắt,nhưng tinh ý một chút chúng ta sẽ nhận thấy rằng sau đó bà trách Nếu chị đã kể đúng sự thật với nhà văn Thế Phong như những lời tôi đã kể với chị thì tại sao tôi có thể giận trách chị được?là chủ yếu trách cứ về những gì tác giả cuốn sách đã viết hơn là ngầm trách về việc bà Thư Linh đã vô tình làm lộ danh tính của mình,một sự việc dù sao thì cũng đã xảy ra rồi và đồng thời có ý như là “thanh minh” với chị,em trong nhóm thơ Quỳnh Dao lời trách thật nhẹ nhàng,trách mà cứ như không trách vậy?...

Bây giờ,chúng ta đi sâu vào phân tích,lý giải về những điều trong hai lá thư,nhất là ở bức thư thứ hai đã được bà Vân Chung “đúc kết” lại cho có thứ tự từ lá thư đầu,những gì không mấy liên quan hoặc đã phân tích rải rác ở các phần trước ta sẽ bỏ qua để tránh sự lặp lại không cần thiết.

1/Trong sách viết chúng tôi làm đám cưới năm 1934…Tôi sinh năm 1919,nếu lấy chồng năm 1934 tôi mới 15 tuổi hay sao?trong sách viết tôi gặp ông Thanh Châu năm 17 tuổi,sao mâu thuẫn vậy?Sao quá vụng tính toán cho thời gian không ăn khớp nhau?

Thật ra,nếu suy luận theo đúng cách các Cụ ngày xưa về truyền thống cưới gả thì việc bà Vân Chung lấy chồng năm 15 tuổi cũng không phải là quá sớm,bởi lẽ các Cụ xưa thường tính theo “tuổi ta” thì năm 1934 bà đã 16 tuổi hơn nữa với quan niệm “gái thập tam-nam thập lục tác hợp Phu,Thê” thì cũng đâu có gì là vô lý!? Nhưng vì bà muốn gián tiếp nhắc tác giả phải viết cho đúng sự thật về mối tình ngoài đời thực của mình mà nay nhiều người cũng đã biết, do tác giả không có đủ dữ liệu nên cứ hư cấu bừa bãi đã thế lại còn làm ảnh hưởng đến danh tiết của bà vì với thời gian như đã viết trong tác phẩm thì hóa ra là bà đi “ngoại tình” sao?Vì thế mà bà đã phải thốt lên Chỉ những người đàn bà có chồng rồi còn ngoại tình,còn yêu kẻ khác mới đáng khinh khi phỉ nhổ! Đây là điều tối kỵ,kể cả với thế hệ ngày nay huống hồ lại là lớp người xưa như bà Vân Chung thì lại càng không thể nào chấp nhận được sự hư cấu vô lối đó của tác giả!...

2/Chúng tôi hơn nhau ba tuổi.Nhà tôi tuổi Bính Thìn (1916) tôi Kỷ Mùi(1919) sao lại viết hơn nhau 9 tuổi?Có lẽ (tác giả )muốn chứng minh cho đúng thời gian xuất hiện thơ T.T.Kh vào năm 1937 và cho hợp với câu thơ “Tóc úa giết dần đời thiếu phụ” và “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” chăng? và trích ở lá thư đầu: Chúng tôi làm đám cưới vào Noel 1939(chứ không phải 1934!)nhà tôi hơn tôi 3 tuổi(chứ không phải 7 tuổi).Đọc hết những dòng trên,nếu chúng ta không biết gì về mối tình giữa ông Thanh Châu và bà Vân Chung cũng như thời gian hai người yêu nhau rồi phải chia tay vì vấn đề “môn đăng-hộ đối” thì cũng chẳng có gì đáng nói ngoài chi tiết lúc thì hơn 9 tuổi lúc thì lại 7 tuổi của vợ-chồng bà.Thế nhưng,khi xâu chuỗi tất cả các sự kiện ngoài đời thực có liên quan đến ba người thì chúng ta lại thấy có khá nhiều sự vô lý về thời gian tính mà bà Vân Chung đã viết trong hai lá thư:-Thứ nhất: Nếu bà lấy chồng vào năm 1939 tức là lúc đó bà đã 21 tuổi thì với phong tục của các Cụ cách đây gần một thế kỷ là điều khó chấp nhận,vì ở vào lứa tuổi đó thì đã được xếp vào loại ế chồng rồi, tất nhiên là sẽ có những ngoại lệ nhưng phần lớn là nằm ở những gia đình nghèo khó và bản thân người con gái lại thiếu nhan sắc… Nhưng trên thực tế thì bà Vân Chung thuộc lớp con nhà giầu lại là “sắc nước hương Trời” đến nỗi anh Chấn chỉ thấy hình đã mê quyết tìm cho ra xin cưới?.Về vấn đề này,chúng ta phải “đặt” mình vào bối cảnh những năm nửa đầu thế kỷ 20 thì mới có thể hiểu được cho thật thấu đáo. Mặt khác,dù là sống ở thị xã nhưng với quan niệm xã hội và thực tế thì gia đình bà dù thế nào cũng vẫn là dân “tỉnh lẻ”cho nên việc dựng vợ,gả chồng từ rất sớm theo đúng tập tục xưa là một sự thật lịch sử không thể phản bác.!.

-Thứ hai là: Sau khi mối tình tan vỡ,ông Thanh Châu ra Hà Nội lập nghiệp,thì trên thực tế vào nửa đầu năm 1937 (25 tuổi) ông đã tham gia và có vài bài báo đăng ở tạp chí Tiểu thuyết thứ bảy (không tính thời gian trước, lúc còn học ở trường dòng ông cũng đã bắt đầu tập sự viết văn,nhưng không mấy có tiếng tăm) thì ở ngoài Hà Nội một thời gian,ông nhận được tin tức từ gia đình nhắn ra cho biết người con gái ông yêu chuẩn bị lên xe hoa về nhà chồng…Như vậy,theo lôgích thì việc bà Vân Chung lấy chồng phải là khoảng thời gian cuối năm 1936(18 tuổi) hoặc muộn nhất cũng phải quãng đầu năm 1937(19 tuổi).Lý do: chúng ta xét thấy ở ngoài Hà Nội một thời gian là đơn vị tính bằng tháng,chứ không thể là năm!vì nếu là đơn vị năm thì phải nói là“vài năm sau” hay“một vài năm sau” hoặc ít nhất cũng phải là “một thời gian rất lâu sau”.v.v…Chứ từ xưa đến nay chưa thấy ai quan niệm một thời gian là đơn vị năm bao giờ! Hơn nữa,với một người vừa chỉ thấy hình đã mê mà lại không “lấy vợ phải cưới liền tay…” thì quả là một điều khó tin.? (ông Thanh Châu cũng đã xác nhận là chỉ vài tháng sau khi ra Hà Nội,ông nhận được tin từ gia đình báo ra…chứ cũng không nói rõ ngày,tháng,năm nào?) vì lẽ gì nếu chỉ là một câu chuyện rất bình thường thì tại sao lại khiến ông phải giữ bí mật đến thế?.Chúng ta đánh giá cao và cảm phục về nhân cách của ông,đã “giữ” cho người yêu đến cùng chứ đâu có như ngày nay không ít kẻ sẵn sàng tung lên mạng đủ trò về người yêu cũ…

-Thứ ba là: Về tuổi của ông Chấn người chồng ngoài đời của bà Vân Chung(việc hơn bà cụ thể là mấy tuổi cũng không quan trọng)nhưng không thể sinh năm 1916 vì nếu ta chấp nhận lôgích về năm bà phải lấy chồng như đã phân tích ở trên (thông qua mốc thời gian hoạt động văn chương của ông Thanh Châu-do chính ông xác nhận cũng như các bạn văn cùng thời,cùng trong tòa soạn viết về những năm tháng làm báo)thì vào lứa tuổi mới có 20-21 liệu ông ấy đã đỗ cử nhân chưa?(tuổi đi học thì phải tính theo tuổi “tây”) cho nên có lẽ tuổi thật của ông ít nhất cũng phải là sinh vào năm 1914 mới hợp lý so với sự thật đã diễn ra…cũng có một vài ngoại lệ,ví dụ như trường hợp ông luật sư Nguyễn Mạnh Tường vào năm 22 tuổi (năm 1932)đã đỗ Tiến sĩ luật tại đại học soócbon hay một vài người nữa đỗ cử nhân luật ở lứa tuổi 21-22 nhưng không hề thấy tên của ông Chấn(thời Pháp thuộc,nhất là thập kỷ 30 thế kỷ trước việc người “bản xứ” đỗ đạt sớm như vậy thì lập tức nổi tiếng khắp cả nước,vì số người như vậy cũng rất là hiếm,chỉ đếm trên đầu ngón tay mà thôi!)..

Trở lại với hai câu thơ của T.T.Kh mà bà Vân Chung trích dẫn trong thư,ta thấy câu đầu là quá dễ hiểu, còn câu sau “Bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi” thoạt đầu nếu ta hiểu theo “nhãn quan” của ngày hôm nay thì quả thật ít nhiều cũng cho thấy ngay rằng có lẽ tác giả Thế Nhật chỉ dựa vào câu thơ để cố “cho” người chồng của T.T.Kh đã rất lớn tuổi và nghiêm khắc.Thế nhưng,khi đặt mình vào bối cảnh của những năm 30 hay đọc các tiểu thuyết thời đó ta sẽ nhận thấy các nhà văn đương thời đều miêu tả về họ như những người rất nghiêm nghị,đĩnh đạc và rất “ông cụ non”mặc dù tuổi đời cũng không phải là nhiều,ta sẽ thấy hình ảnh các ông Cử,ông Phán thậm chí ông Thông(mà thực chất gọi như ngày nay chỉ là người phiên dịch)mới ngoài hai mươi tuổi ấy thế mà xã hội hồi đó mặc nhiên vẫn gọi là “cậu” hoặc “ông” đấy thôi?Thực tế ông Thanh Châu hơn bà Vân Chung 7 tuổi,nếu như hai ông bà lấy được nhau thì liệu có phải là bên cạnh chồng nghiêm luống tuổi rồi không? Chắc chắn là không rồi vì họ yêu nhau đến thế cơ mà, mặc dù với ngày xưa thì vợ chồng chênh lệch nhau dăm, bảy tuổi đã là một khoảng cách khá lớn rồi…do đó chỉ có lấy nhau không vì tình thì mới ra nông nỗi ấy mà thôi. Đến đây,câu thơ trên đã trở nên rất dễ hiểu và cũng rất hợp lý,hợp cảnh, vả lại nếu T.T.Kh đã muốn cố tình giấu kín danh phận thì có những “tình tiết” trong thơ của bà không khớp với đời thực ở một vài sự kiện thì cũng đâu có gì là lạ? Vì vậy việc bà Vân Chung viết rằng Chúng tôi làm đám cưới vào Noel 1939 là hoàn toàn phi lý so với những gì thật sự đã diễn ra,có lẽ nó chỉ là dụng ý phủ nhận mình là T.T.Kh vì bà tin rằng sẽ chẳng có ai lại cất công đi “xác minh” lại làm gì Khi đã lý giải được những điều nêu trên thì một lần nữa chúng ta lại nhận thấy rằng diễn biến về cuộc tình đời thực của bà Vân Chung cũng hoàn toàn “trùng khớp” với câu chuyện tình thơ của T.T.Kh…

9/Bôi nhọ nhà tôi, đúng là người chết rồi cũng không được buông tha:-Bà cũng nhớ đến ngày Phu quân mê một nữ thư ký ở văn phòng Luật sư,nơi ông làm việc…Chúng ta thấy ngay rằng tác giả Thế Nhật dựa vào bốn bài thơ nói lên niềm tâm sự của một người thiếu phụ không có hạnh phúc gia đình lại luôn tưởng nhớ đến tình duyên cũ của T.T.Kh một cách quá hời hợt,nặng về suy diễn và thiếu căn cứ để cố mà “ép” vào hoàn cảnh của bà Vân Chung,nóng lòng muốn chứng minh bà chính là T.T.Kh vì thế để cho phải “giống” T.T.Kh nên tác giả đã “cho” chồng bà phải đi tìm tình yêu ở bên ngoài gia đình…Đây chính là một trong những đòn nặng nề nhất giáng vào danh dự,tư cách và lòng kiêu hãnh không những của bà Vân Chung mà ngay cả với mọi người có cùng hoàn cảnh trên thế gian này cũng không ai có thể chấp nhận và tha thứ được! Thế Nhật đã quá sai lầm nếu như không muốn nói rằng tác giả đã rất thiếu nghiêm túc và thiếu tôn trọng sự thật cũng như không hiểu gì về tâm lý người phụ nữ, nhất lại là ở những người phụ nữ đẹp thì dù có đúng là sự thật như thế chăng nữa thì họ cũng sẽ không bao giờ chấp nhận sự thật đó bị phơi bày ra cho thiên hạ thóc mách xem, huống hồ đây lại là điều hoàn toàn bịa đặt!

Đỗ Thế Cường
Ngày đăng: 15.07.2012
nguồn_vanchuongviet.org:http://vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=18927
---------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001