Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 1)
Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
LỜI GIỚI THIỆU CỦA DỊCH GIẢ
Bạn đọc cầm trên tay cuốn thứ hai mươi lăm* của tủ sách SOS, cuốn Thương lượng những thay đổi cơ bản: Hiểu và mở rộng các bài học của các cuộc đàm phán Tròn Ba Lan.
Đây là cuốn tài liệu hướng dẫn giảng dạy mà những người tổ chức cuộc
hội thảo về Bàn Tròn Ba Lan từ ngày 7 đến 10 tháng 4 năm 1999 tại Đại
học Michigan, đã tiếp tục bằng cách cung cấp bản dịch của kỷ yếu hội
thảo (cuốn thứ 24) cho các học giả, yêu cầu họ đọc kỹ, như tài liệu
nguồn, và cùng các tư liệu phỏng vấn và tài liệu tham khảo khác để mỗi
người viết một tiểu luận. Và cuốn sách này là tập hợp của các tiểu luận
đó. Bạn đọc sẽ có thể có hiểu biết sâu hơn và các quá trình dân chủ hóa
xảy ra hàng loạt vào cuối thế kỷ trước trên khắp thế giới. Mỗi tác giả
nhìn nhận vấn đề từ khía cạnh chuyên môn của mình, cũng như xem xét về
mặt lý thuyết.
Cuốn sách này
chắc chắn là tài liệu bổ sung quý giá cho cuốn trước về Bàn Tròn Ba
Lan. Và tất cả những ai đã quan tâm đến cuốn trước nên đọc cuốn này để
có thể hiểu rõ hơn vấn đề dân chủ hóa, và nhất là để có cơ sở lý thuyết
vững chắc hơn trong xem xét tình hình cũng như rút ra các bài học.
Những người chưa đọc kỷ yếu hội thảo, cuốn Bàn Tròn Ba Lan –Những bài học,
vẫn có thể đọc cuốn này một cách độc lập vì có một phần tóm tắt ý kiến
của mỗi diễn giả trong từng phiên hội thảo. Và sau khi đọc cuốn này rất
có thể lại muốn đọc cả cuốn trước nữa.
Sau hai
bài dẫn nhập của các nhà tổ chức hội thảo và phần trích dẫn các đoạn của
tất cả các phiên của kỷ yếu hội thảo là tám tiểu luận chuyên sâu về
những khía cạnh lịch sử, xã hội học, văn hóa, giải quyết xung đột, khoa
học chính trị, cũng như toàn cầu hóa liên quan đến quá trình chuyển đổi
dân chủ ở Ba Lan, các nước Đông Âu, Nam Phi và những sự so sánh để thấy
những đặc điểm giống và khác nhau của các quá trình này. Có thể đọc từng
tiểu luận riêng rẽ mà không ảnh hưởng gì đến việc đọc và hiểu các tiểu
luận khác.
Trên trang mạng của Đại học
Michigan, cuốn sách này có sẵn với định dạng pdf và những người muốn đọc
nguyên bản có thể chuyển con trỏ đến tên tiếng Anh của cuốn sách ở
trang bìa (hay ở đây), ấn phím Ctrl và click để tải về.
Tất cả các chú thích đánh số là chú thích nguyên bản; những chú thích đánh dấu * là của người dịch.
Tôi
đã hết sức cố gắng để truyền tải chính xác nội dung nhưng do hiểu biết
hạn chế nên bản dịch chắc chắn còn nhiều thiếu sót mong được bạn đọc góp
ý và lượng thứ.
Bắc Ninh, 31-8-2013
Nguyễn Quang A
–––––––––––––––
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
* Các quyển trước gồm:
1. J. Kornai: Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường, Hội Tin học Việt Nam 2001, Nhà Xuất bản Văn hoá Thông tin (NXB VHTT) 2002; Con đường dẫn tới nền kinh tế tự do (NXB Tri thức. 2007)
2. J. Kornai: Hệ thống Xã hội chủ nghĩa, NXB Văn hoá Thông tin 2002
3. J. Kornai- K. Eggleston: Chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, NXB VHTT 2002
4. G. Soros: Giả kim thuật tài chính
5. H. de Soto: Sự bí ẩn của tư bản, NXB Chính trị Quốc gia, 2006 [Sự bí ẩn của Vốn]
6. J. E. Stiglitz: Chủ nghĩa xã hội đi về đâu?
7. F.A. Hayek: Con đường dẫn tới chế độ nông nô
8. G. Soros: Xã hội Mở
9. K. Popper: Sự Khốn cùng của Chủ nghĩa lịch sử
10. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, I, Plato
11. K. Popper: Xã hội mở và những kẻ thù của nó, II, Hegel và Marx
12. Thomas S. Kuhn: Cấu trúc của các cuộc Cách mạng Khoa học
13. Thomas L. Friedman: Thế giới phẳng, Nhà xuất bản Trẻ, 2006
14. Một năm Hội nghị Diên Hồng Hungary do Nguyễn Quang A tuyển, dịch, biên soạn
15. Kornai János: Bằng Sức mạnh Tư duy, tiểu sử tự thuật đặc biệt, NXB Thanh Hóa, 2008
16. Kornai János: Lịch sử và những bài học, NXB Tri thức, 2007
17. Peter Drucker: Xã hội tri thức, Quản lý, Kinh doanh, Xã hội và Nhà nước, tập tiểu luận
18. Murray Rothabrd: Luân lý của tự do
19. Amartya Sen: Tư tưởng về công bằng, sắp xuất bản
20. Kornai János: Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ thống, sắp xuất bản
21. Kornai János: Các ý tưởng về chủ nghĩa tư bản, NXB Thời Đại, 2012.
22. Robert Kagan: Thế giới mà Mỹ tạo ra, 2012
23. Daron Acemoglu, James A. Robinson: Vì sao các Quốc gia Thất bại, 2012 (NXB Trẻ có bản dịch khác được xuất bản năm 2013)
24. Kỷ yếu hội thảo Đại học Michigan: Bàn tròn Ba Lan-Những bài học, 2013
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:46
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va.html
=======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 2)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
LỜI TRI ÂN
Việc
chuẩn bị học liệu hướng dẫn này được tài trợ một phần bởi một khoản tài
trợ từ Viện Hòa Bình Hoa Kỳ (the United States Institute of Peace).
Chúng tôi muốn cảm ơn Janine Holc và Myron Levine vì các bình luận của
họ về một bản thảo sớm hơn. Chúng tôi cũng biết ơn các nhân viên sau đây
của Trung tâm Nghiên cứu Nga và Đông Âu của Đại học Michigan vì sự giúp
đỡ của họ trong các pha khác nhau của dự án này: Kasia Kietlinska,
Libby Larsen, Chandra Luczak, Sylvia Meloche, Roberta Nerison-Low, và
Marysia Ostafin. Không ai trong các tổ chức hoặc các cá nhân này phải
chịu trách nhiệm về các ý kiến được bày tỏ ở đây.
LỜI NÓI ĐẦU
Khó
để biết câu chuyện về Bàn Tròn Ba Lan năm 1989 bắt đầu khi nào. Một số
người khiến chúng ta bắt đầu quay lại sớm đến 1795, khi Ba Lan bị các
láng giềng hùng mạnh hơn của nó, Nga, Phổ, và Áo, chia ra. Trong 123 năm
tiếp theo đã không có Ba Lan độc lập nào trên bản đồ, và cuộc nổi dậy
của nước này trong năm 1918 đã tỏ ra là một việc ngắn ngủi đau đớn. Nước
Đức Nazi và Liên Xô đã lại chiếm đóng nước này trong năm 1939, và sau
Chiến tranh Thế giới II Ba Lan, cùng phần còn lại của Đông Âu, đã tham
gia vào khối Soviet, tự trị trên danh nghĩa nhưng lệ thuộc vào Moscow
một cách không thể chối cãi được. Trong nhiều năm đen tối này, ý thức
dân tộc Ba Lan đã vẫn mạnh, chủ yếu (nghe nói) nhờ vào sự lãnh đạo không
nao núng của Giáo hội Công giáo. Việc bầu Karol Wojtyła trong năm 1978
làm Giáo hoàng John Paul II đã bắt đầu một quá trình mà cuối cùng đã dẫn
đến sự lật đổ chế độ cộng sản vào năm 1989, và khôi phục lại nền độc
lập của Ba Lan.
Đó là một cách – cách được ưa
chuộng giữa những người bảo thủ và dân tộc chủ nghĩa – để kể câu chuyện,
nhưng có nhiều chuyện kể thay thế khác. Một câu chuyện khác bắt đầu
trong năm 1945, với sự giải phóng Ba Lan khỏi sự cai trị Nazi và sự khởi
đầu của một chế độ mới. Hệ thống xã hội cũ, bất công, mà đã được đặc
trưng bởi khoảng cách khổng lồ giữa một elite hẹp, sở hữu đất và một
giai cấp nông dân bị bần cùng hóa đến tuyệt vọng, cuối cùng đã bị lật
đổ. Tương lai mới, táo bạo, được cách mạng xã hội chủ nghĩa hứa hẹn, tuy
vậy, đã nhanh chóng trở nên chua lòm, vì chủ nghĩa độc đoán áp bức của
chủ nghĩa cộng sản kiểu Soviet đã làm hư hỏng mọi khát vọng của các năm
đầu sau chiến tranh. Cái chết của Stalin trong năm 1953 và sự xuống thế
của những kẻ tôi tớ Ba Lan của ông ta trong năm 1956 đã dẫn đến những hy
vọng mới, nhưng cả những hy vọng này cũng nhanh chóng bị tan vỡ. Vào
đầu các năm 1970, những hành động bạo lực, lặp đi lặp lại, do nhà nước
bảo trợ và sự không hiệu quả kinh tế ngày càng trầm trọng của chế độ đã
giúp làm tăng cả một cộng đồng bất đồng chính kiến lớn tiếng lẫn một
phong trào lao động mới sinh. Mặt trận thống nhất đối lập này đã bùng nổ
trong năm 1980 với sự ra đời của Đoàn kết, một nghiệp đoàn lao động độc
lập với số thành viên lên đến mười triệu người. Thiết quân luật được
ban bố vào năm 1981 trong một nỗ lực để dập tắt sự biểu lộ phản kháng
này, nhưng Đoàn kết đã vừa kịp rút vào bí mật. Cuối cùng, trong năm
1989, chế độ đã buộc phải tham gia các cuộc thương thuyết với phe đối
lập, và vết nứt đáng kể đầu tiên trong bức màn sắt đã xuất hiện.
Và
còn có cách thứ ba để kể câu chuyện của chúng ta. Cách này nêu ra một
tiến độ sít sao hơn, bắt đầu lúc nào đó trong cuối các năm 1960 hay đầu
các năm 1970. Lúc đó đã hiển nhiên rằng hệ thống cộng sản đã không thể
duy trì sự tăng trưởng năng động của các thập niên đầu của nó, và rằng
những sự phi hiệu quả và vô lý của nền kinh tế kế hoạch hóa đã khiến Ba
Lan (và phần còn lại của khối) tụt hậu xa sau Phương Tây. Trong con mắt
của các nhà kinh tế học, cả ở bên trong bộ máy cộng sản lẫn tại các Đại
học Mỹ, hai vấn đề cơ bản đã gây tai họa cho đất nước: 1) khoảng cách
ngày càng gia tăng giữa giá cả và chi phí sản xuất, dẫn đến sự tiêu dùng
quá mức và cán cân thương mại tai hại; và 2) những sự phi hiệu quả hiển
nhiên trong sản xuất đã dẫn đến lãng phí các nguồn lực khan hiếm. Các
nhà kinh tế học và các nhà lãnh đạo chính trị đã thử giải quyết các mối
lo này, nhưng bất cứ một nỗ lực nào để đóng cửa một nhà máy không hiệu
quả đều đã bị cản bởi nhóm lợi ích đã cắm rễ sâu nào đó, và mọi nỗ lực
để tăng giá nội địa đã đều vấp phải tình trạng náo động xã hội. Sự bế
tắc đã trở nên hiển nhiên trong năm 1987, khi một cuộc trưng cầu dân ý
về cải cách kinh tế đã thất bại hoàn toàn. Lựa chọn duy nhất sau việc
này đã là chuyển quyền ban hành các luật về cải cách cần thiết cho một
chính phủ mà có được tính chính đáng hợp lòng dân – cái gì đó mà những
người cộng sản đã không có trong các năm 1980. Việc này đã được thực
hiện trong năm 1989, khi các cuộc đàm phán Bàn Tròn đã tạo thuận lợi cho
sự lên nắm quyền của một ban lãnh đạo mới có gốc rễ trong phong trào
Đoàn kết. Chế độ mới này đã ban hành ngay cái được gọi là gói “liệu pháp
sốc,” một bước nhảy phi thường hướng tới nền kinh tế thị trường tự do,
phóng khoáng (liberal).
Ba câu chuyện này không
vét cạn các câu chuyện khả dĩ của lịch sử hiện đại của Ba Lan, chúng
cũng không chứa đựng nhiều sắc thái (nuance) mà đã có thể được trau
chuốt bên trong mỗi câu chuyện. Tuy vậy, hầu hết những người Ba Lan sẽ
tìm thấy các nét phác họa chung của phiên bản ưa chuộng của họ về lịch
sử theo một trong ba cách được nêu ở đoạn trên. Một trong những yếu tố
nổi bật nhất của các câu chuyện này là, chúng đều lên đỉnh điểm với các
sự kiện của năm 1989: các cuộc Đàm phán Bàn Tròn, các cuộc bầu cử một
phần tự do tiếp sau đó, và sự lựa chọn vị thủ tướng không cộng sản đầu
tiên của Ba Lan từ Chiến tranh Thế giới II. Có nhiều cách để đánh giá
năm 1989, nhưng không thể phủ nhận rằng nó đã là một trong những thời kỳ
quan trọng nhất trong lịch sử Ba Lan hiện đại. Không quan trọng bạn sắp
xếp quá khứ gần đây của Ba Lan thế nào, tất cả các con đường đều phải
qua Bàn Tròn.
Vào giữa các năm 1980, đã là rõ
đối với hầu như mọi người ở Ba Lan rằng không thể giữ nguyên hiện trạng.
Đoàn kết đã chết – hoặc đã có vẻ thế – nhưng tính chính đáng của chế độ
đã chết theo nó. Quay lại các năm 1980 và 1981 đất nước đã bị lung lay
đến tận nền móng bởi sự nổi lên của phong trào quần chúng lớn nhất mà
khối cộng sản đã từng thấy. Đoàn kết đã có nhiều gốc rễ: trong sự bất
đồng chính kiến trí thức của các năm 1960 và 1970, trong một phong trào
lao động chống cộng sản mà đã đang sôi bên dưới bề mặt của Cộng hòa Nhân
dân Ba Lan, và trong Giáo hội Công giáo. Hiện tượng mà chúng ta gọi là
Đoàn kết không thể được xác định hay thậm chí mô tả một cách dễ dàng,
bởi vì nó đã bao gồm tất cả các tiếng nói phản đối chống lại chế độ cộng
sản – và vào năm 1980 những tiếng nói đó đã bốc lên thành một tiếng gầm
chối tai. Tiếng gầm đó đã bị làm cho câm lặng bởi sự đàn áp quân sự
không thương xót trong năm 1981, nhưng bạo lực đã không thể giải quyết
các vấn đề mà đã gây ra nhiều rối loạn đến vậy trước hết. Tướng Wojciech
Jaruzelski, nhà lãnh đạo của Ba Lan trong các năm 1980 và người chỉ huy
đằng sau vụ đàn áp Đoàn kết, đã muốn tìm ra con đường để thuần hóa sự
giận dữ phổ biến đó chống lại chế độ cộng sản và hướng nó theo loại cải
cách khiêm tốn nào đấy, trong khi trấn an Moscow rằng đã chẳng có gì sai
cả. Nhiệm vụ sau đã trở nên dễ hơn với sự nổi lên của Mikhail Gorbachev
như lãnh đạo của Liên Xô, nhưng nhiệm vụ trước vẫn còn hắc búa – và vào
giữa các năm 1980 Jaruzelski đã biết điều đó. Sau việc áp đặt sự cai
trị quân sự, không ai còn tin vào khẩu hiệu “nhà nước của những người
lao động” nữa, và đã chẳng có ai mó tay vào để giúp xây dựng một tương
lai tốt đẹp hơn dưới sự lãnh đạo của Jaruzelski. Nền kinh tế đã chìm vào
bãi lầy của các hàng dài xếp hàng mua bánh mỳ, của sự phân phối theo
khẩu phần, các cửa hàng nửa trống không, và dân cư đã trở nên tuyệt vọng
và thờ ơ hơn bao giờ hết. “Di tản” đã trở thành khẩu hiệu của thập kỷ,
hoặc theo nghĩa đen (khi các hàng ngày càng dài hơn ở bên ngoài đại sứ
quán Mỹ), hoặc theo nghĩa bóng (dưới dạng “di tản nội bộ,” khi người dân
đã rút lui vào cuộc sống riêng tư của họ và đã cố để bòn rút bất cứ thứ
gì họ đã có thể bòn rút từ chế độ kinh tế-xã hội đang suy tàn).
Trong
môi trường này, phe đối lập đã đối mặt với nhiều rào cản. Sự giận dữ
của năm 1980 đã biến thành nỗi tuyệt vọng vô liêm sỷ của năm 1985. Các
nhà lãnh đạo ngầm của Đoàn kết đã thấy ngày càng khó đối với bất kể loại
phản đối có tổ chức nào chống lại bất cứ thứ gì. Điều này một phần đã
là sản phẩm của sự sợ hãi, nhưng có lẽ thậm chí còn quan trọng hơn đã là
cảm nhận rằng Đoàn kết đã có thời khắc cơ hội của nó, và đã thất bại để
tận dụng. Lech Wałęsa, nhà lãnh đạo được biết đến rộng rãi của phe đối
lập, đã còn giữ được mức độ nào đó của sự tôn trọng, nhưng điều này hiếm
khi đã được chuyển thành một sự sốt sắng để bày tỏ hoặc tấn công chống
lại chế độ. Hàng triệu người đã tụ tập đón Giáo hoàng trong năm 1983 và
1987, nhưng nội dung chính trị của các sự kiện này nhiều nhất đã là mơ
hồ. Trong mọi trường hợp, Wałęsa và các lãnh đạo khác của phong trào đã
không chắc chắn về họ đã có thể làm gì khi đối mặt với lực lượng vũ
trang. Mặc dù các nhóm sinh viên và các cụm nhỏ của các nhà hoạt động
chính trị đã tiếp tục chơi trò mèo-và-chuột với cảnh sát an ninh, vào
năm 1986 hay 1987 đã là rõ đối với hầu hết các nhà quan sát rằng đã đạt
đến một sự bế tắc.
Như thế đã xuất hiện sự thôi
thúc cho việc thương lượng. Những người thăm dò sớm từ cả chế độ
Jaruzelski lẫn ban lãnh đạo Đoàn kết đã được cử đi một cách thầm lặng
vào cuối 1987 và đầu 1988, nhưng một nhận thức mới về sự khẩn cấp đã
đến, khi các cuộc đình công liều lĩnh đã nổ ra trong tháng Năm, 1988.
Những cuộc đình công này đã không được nhóm cố vấn của Wałęsa lên kế
hoạch, những người đã xem các cuộc đình công như những tiếng gào ngẫu
nhiên của sự thất vọng hơn là những sự biểu lộ hữu ích của sự phản
kháng. Các nhà tổ chức địa phương của các cuộc đình công, đến lượt, đã
coi ban lãnh đạo Đoàn kết như quá thận trọng, và có lẽ không có năng lực
để giải quyết cuộc khủng hoảng đang khoét sâu mà Ba Lan đối mặt. Những
người đình công đã có xu hướng là những người trẻ, và nhiều nhà quan sát
đã lưu ý rằng một thế hệ mới đang xuất hiện – thế hệ từ chối đi theo
các anh hùng của năm 1980 một cách mù quáng. Những vết nứt ở bên trong
phe đối lập đã đang trở nên rõ ràng rồi, mặc dù các vấn đề trọng yếu
đằng sau những sự rạn nứt này đã vẫn khó hiểu.
Chế
độ đã đè bẹp các cuộc đình công tháng Năm 1988, nhưng tình tiết chỉ đã
làm nổi bật sự thực rằng Ba Lan đang trở thành một mồi dễ bắt lửa. Một
làn sóng đình công khác trong tháng Tám đã tạo ra cú đẩy đuối cùng, dẫn
đến một loạt các cuộc gặp giữa Lech Wałęsa và Tướng Czesław Kiszczak, Bộ
trưởng Bộ Nội Vụ và một phụ tá thân cận của Jaruzelski. Các cuộc đàm
phán trù bị này, đến lượt, đã dẫn đến việc chính thức triệu tập các cuộc
Đàm phán Bàn Tròn vào tháng Hai năm 1989. Đoàn kết đã tham gia các cuộc
đàm phán này với một đòi hỏi không thể lay chuyển được: tái hợp pháp
hóa. Trước sự ngạc nhiên của họ, chính phủ đã công nhận điều này hầu như
ngay lập tức, và các cuộc đàm phán đã mau chóng lấy được đà của chính
chúng. Các nhà đàm phán của Jaruzelski đã thăm dò cách để đưa Đoàn kết
vào trong hệ thống, với hy vọng rằng làm như vậy sẽ mang lại cho hệ
thống tính chính đáng nào đó và chấm dứt sự bế tắc xã hội và chính trị.
Nhóm Đoàn kết đã ý thức kỹ về mối nguy hiểm của việc thâu nạp, và đã cố
gắng bảo đảm rằng các cuộc đàm phán sẽ dẫn đến những thay đổi thực,
trọng yếu trong chế độ chính trị. Sau phiên khai mạc theo nghi thức mà
tại đó tất cả các đại biểu hàng đầu đã ngồi quanh chiếc bàn tròn, các
cuộc đàm phán đã được phân ra thành một loạt các “bàn nhỏ” tập trung vào
các nghiệp đoàn, báo chí, các định chế chính trị, thanh niên, các khu
vực khác nhau của nền kinh tế, và hơn nữa. Trong lúc đó, những tiếng nói
phản đối các cuộc đàm phán đã bắt đầu được cất lên. Những biểu ngữ
tuyên bố, “Đàm phán Với bọn Cộng là sự Phản bội,” đã được căng lên ở bên
ngoài tòa nhà nơi các cuộc đàm phán được tiến hành. Âm thầm hơn,
Jaruzelski và những người ủng hộ ông đã cảm thấy áp lực từ các đảng viên
đảng cộng sản những người đã sợ rằng sự nắm giữ quyền lực của họ sắp bị
tổn hại.
Bất chấp những tiếng nói bất đồng
này, các Thỏa thuận Bàn Tròn đã được ký vào tháng Tư 1989. Đoàn kết đã
được hợp pháp hóa lại; các cuộc bầu cử tự do một phần đã được hứa tổ
chức vào tháng Sáu; quyền tự do ngôn luận và hội họp được tuyên bố. Công
thức cho các cuộc bầu cử sắp tới đã phức tạp: hai phần ba số ghế trong
quốc hội được dành cho những người cộng sản và các đồng minh của họ (đã
luôn tồn tại một nhúm đảng bù nhìn dễ bảo, được thiết kế để tạo ra một
bề ngoài của chủ nghĩa đa nguyên), nhưng để bù lại, thượng viện được lập
mới, thượng nghị viện, đã được mở hoàn toàn cho bầu cử tự do. Ít người
đã kỳ vọng Đoàn kết đạt kết quả tốt trong các cuộc bầu cử này. Vừa mới
được tái hợp pháp hóa và vẫn thiếu bất cứ loại bộ máy chính trị nào,
phong trào đã phải tổ chức một chiến dịch toàn quốc hầu như trong chốc
lát. Nhưng khi bỏ phiếu được tiến hành trong tháng Sáu, điều không thể
đã diễn ra: Đoàn kết đã thắng tất cả trừ một ghế thượng nghị sỹ, và tất
cả các ghế hạ viện mà đã để ngỏ cho việc tranh đua. Nhiều người Ba Lan
ngày nay chỉ ra các cuộc bầu cử – chứ không phải các cuộc đàm phán Bàn
Tròn – như thời điểm thực khi chế độ cộng sản sụp đổ ở Ba Lan. Tuy vậy,
vở kịch đã có một hồi khác. Sự thất bại của những người cộng sản đã
không thể phủ nhận, nhưng về mặt kỹ thuật họ vẫn đã có đủ ghế để cai trị
(nhờ các điều khoản của các Thỏa thuận Bàn Tròn). Chỉ sau một quá trình
tìm kiếm người dài dòng bởi cả các đại biểu Đoàn kết và những người ủng
hộ Jaruzelski thì một thỏa hiệp cuối cùng mới đã nổi lên: vị Tướng trở
thành Tổng thống Ba Lan (một chức mới mà Bàn Tròn đã tạo ra chỉ cho ông
ta), và Tadeusz Mazowiecki, một trí thức Công giáo xuất sắc, trở thành
Thủ tướng.
Đây là một câu chuyện kịch tính với
kết thúc có hậu. Nhưng ngay lập tức, các sự kiện thế giới đã làm lu mờ
các thành tựu của Ba Lan. Trước khi hết năm 1989, những người cộng sản
đã xuống thế (với ít sự mập mờ hơn nhiều) ở mọi nước Đông Âu khác, và
việc mở bức Tường Berlin vào ngày 9 tháng Mười Một đã hằn sâu trong ký
ức của tất cả mọi người, những người đã sống qua các tháng không thể tin
được đó. Ba Lan đã bị bỏ lại với một thỏa hiệp mà đã có vẻ hoàn toàn
không cần thiết, và nhiều người Ba Lan đã cảm thấy rằng cuộc cách mạng
của họ đã chưa xong, chưa hoàn thành. Có lẽ tồi tệ nhất, họ đã không có
bất cứ thời khắc gợi nhớ nào để kỷ niệm. Những người Czech đã có các
cuộc biểu tình tại Quảng trường Wenceslas ở Prague, những người Đức đã
có bức Tường, và thậm chí những người Rumani đã có việc hành quyết
Ceauşescu. Tất cả cái mà những người Ba Lan đã có được là một cái bàn
lớn, với những người ngồi quanh hóa ra là elite mới của đất nước. Mặt
khác, toàn bộ quá trình đã hoàn toàn yên bình – và điều đó đã chẳng đáng
giá gì sao? Chẳng phải đã quan trọng rằng những người Ba Lan đã đi tiên
phong thoát khỏi thời đại cộng sản? “Cuộc cách mạng được thương lượng”
đã có là một bước cần thiết trên con đường đến sự giải phóng, hay là một
thỏa hiệp tai hại mà đã cho phép những người cộng sản vẫn giữ một vai
trò nổi bật trong đời sống chính trị Ba Lan? Có lẽ cơ bản nhất, toàn bộ
quá trình thay đổi hòa bình đã có dẫn đến một Ba Lan tốt đẹp hơn? Đây là
những câu hỏi giữa nhiều câu hỏi về Bàn Tròn mà vẫn được tranh luận
ngày nay.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_4.html
=======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 3)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 01:26
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 3)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
Dẫn nhập
Brian Porter
“Trong
năm 1989, thế giới như chúng ta biết khi đó đã kết thúc”, đó là tuyên
bố của poster mà chúng tôi thiết kế để quảng cáo cho một hội thảo được
gọi là “Sự Sụp đổ được Dàn xếp của Chế độ Cộng sản: Bàn Tròn Ba Lan,
Mười Năm Nhìn lại”. Sự kiện này ban đầu đã được hình dung như một phần
của loạt “Bài giảng Copernicus”, mà được tổ chức hàng năm bởi Chương
trình Nghiên cứu Ba Lan tại Đại học Michigan. Nó nhanh chóng trở thành
cái gì đó lớn hơn nhiều, nhờ chủ yếu vào ẩn ý thiên niên kỷ được thâu
tóm trong câu quảng cáo cường điệu đó. Nếu quả thực giả như đúng là thế
giới đã kết thúc – và nếu sự khải huyền đó đã tập trung ở Ba Lan – thì
chúng tôi đã cảm thấy có nghĩa vụ kỷ niệm thời khắc này với cái gì đó
lớn một cách thích hợp. Và nó đã thật lớn: rốt cuộc chúng tôi đã tiếp
đón hai mươi vị khách đặc biệt, kể cả tổng thống Ba Lan và nhiều nhân
vật lãnh đạo chính phủ và phe đối lập từ các năm 1980 và ngày nay. Hầu
hết các học giả ở Hoa Kỳ, chuyên sâu về Ba Lan đã đến hội thảo, với một
số người tham gia trực tiếp như những người thảo luận. Nghị sỹ Carl
Levin, Thống đốc John Engler, và các vị chức sắc khác đã dự tiệc bế mạc
của chúng tôi. Có vẻ chắc chắn đã là một sự kiện mà chúng tôi có thể tự
hào.
Tuy nhiên, với thời
gian tôi đã tỉnh lại để nhìn câu “trong năm 1989, thế giới như chúng ta
biết khi đó đã kết thúc” một cách phê phán. Ít người nghi ngờ kịch tính
hay tầm quan trọng của các tháng giữa việc ký các Thỏa thuận Bàn Tròn ở
Ba Lan (5 tháng Tư) và việc hành quyết Nicolae Ceauşescu ở Rumania (25
tháng Mười Hai), và tất cả mọi người dường như đồng ý rằng ngày 9 tháng
Mười Một (mở bức Tường Berlin) thuộc về những ngày được in bằng chữ đỏ
trên lịch của chúng ta về những ngày kỷ niệm. Khi Liên Xô cuối cùng đã
sụp đổ hai năm sau đó, lời phán xét cuối cùng như Francis Fukayama diễn
đạt đã hết sức nổi tiếng, chúng ta đã đến “sự kết thúc của lịch sử”.
Nhưng có thật thế? Bá quyền tư bản chủ nghĩa-tự do-dân chủ được hình
dung trong các năm 1990, trong nhiều trường hợp, đã chứng tỏ chỉ là một
lớp gỗ dán mỏng phủ ngoài mọi thứ, từ “chủ nghĩa tư bản cao bồi” (như
những người Đông Âu thường gọi nó) đến chủ nghĩa chính thống tôn giáo.
Có lẽ, rốt cuộc, Geist Hegelian [cái Tinh thần của Hegel]
đã vẫn chưa đạt sự nhận thức rõ đầy đủ về chính nó. Có vẻ rằng các thế
giới quan khác nhau sẽ tiếp tục đấu tranh với nhau để xác định tinh thần
của thời đại tiếp theo, như chúng đã chiến đấu trong thời đại vừa qua.
Và ở đâu có chiến đấu, ở đó luôn luôn có tiềm năng cho bạo lực.
Đã
hầu như không có bạo lực ở Ba Lan trong năm 1989 – họ nói thế. Các cuộc
đàm phán giữa những người cộng sản và phe đối lập đã dẫn đến sự chuyển
đổi hòa bình của một hệ thống xã hội, kinh tế, và chính trị sang một hệ
thống khác. Chưa bao giờ trong lịch sử, nhiều người đã tuyên bố, thế
giới đã thấy một sự biến đổi căn bản như vậy mà không có đánh nhau và đổ
máu. Nhưng, như rất thường thế, một cái nhìn gần hơn thì ít vui vẻ. Sau
1989, Đông Âu đã chịu đựng sự tăng lên về lạm dụng phụ nữ, về nghèo
khổ, về vô gia cư, và về tội hung bạo. Nhà nước đã bị tước mất phần
nhiều sức mạnh răn đe gây sợ hãi của nó, nhưng điều này đã chỉ tiết lộ
nhiều cách mà người dân có thể bị bóc lột và áp bức trong lĩnh vực “tư”.
Người dân có “tự do” hơn một thập niên trước? Trong trường hợp này sự
phòng ngừa học thuật chuẩn là câu trả lời khả dĩ duy nhất: tùy vào bạn
định nghĩa “tự do” thế nào, và bạn nói về những người nào. Đối với các
phụ nữ không còn có thể đi bộ trên đường một cách an toàn, đối với các
gia đình bị đuổi khỏi các căn hộ của họ, đối với các công nhân đã mất
hết hy vọng về việc làm, thì sự ca tụng của chúng ta về sự chuyển đổi
phi bạo lực năm 1989 có vẻ mỉa mai. Những người như vậy đã thấy ít bình
yên, và thậm chí ít công bằng và thịnh vượng hơn, trong thế giới vẫn còn
đứng khi bức Tường Berlin sụp đổ.
Là dễ để gạt
bỏ những người bất mãn với trật tự thế giới mới, như những người cộng
sản luyến tiếc quá khứ, những người sợ sự năng động của cơ hội và ao ước
sự an toàn tầm thường. Việc coi nhẹ quan điểm của những người bị tước
đoạt càng được làm cho dễ hơn bởi sự thực rằng hầu hết những người Đông
Âu nói chung đã cảm thấy thỏa mãn với cuộc sống mới của họ (tuy đa số
này trở nên càng nhỏ hơn khi người ta càng đi xa hơn về phía nam và phía
đông). Nhưng nếu mục đích của chúng ta là để nghiên cứu các quá trình
và các hậu quả của sự thay đổi phi bạo lực – và nhà tài trợ cho tập sách
này, Viện Hòa Bình Hoa Kỳ, đã yêu cầu chúng tôi làm đúng điếu này – thì
chúng ta cần chú ý đến những người bị bỏ lại đằng sau khi “sự thay đổi
cơ bản được dàn xếp” quét qua nước họ. Mục đích không phải là để làm mất
thanh thế của sự thay đổi hòa hình, mà để thăm dò mô hình “Bàn Tròn” đã
hoạt động thế nào trong các hoàn cảnh lịch sử cụ thể, và để khám phá ra
những căng thẳng đôi khi dễ bùng nổ mà bị che đậy – có lẽ một cách cần
thiết – khi bạo lực được ngăn chặn. Căn bản hơn, chúng ta phải xem xét
những cách mà theo đó bạo lực và phi bạo lực được liên kết, và đôi khi
thậm chí cấu thành lẫn nhau. Chúng ta phải tiếp cận 1989 không như những
người dự lễ kỷ niệm, mà như các học giả có đầu óc phê phán.
Và
chúng ta phải dạy sinh viên của chúng ta cũng làm như thế. Mục tiêu
chính của tập sách này là sư phạm hơn là luận chiến. Cả Michael Kennedy
lẫn tôi đều không có bất cứ công thức rõ ràng nào về làm sao để ban hành
sự thay đổi hệ thống, bất cứ ai mà chúng tôi mời đóng góp tiểu luận cho
tuyển tập này cũng chẳng biết. Thay vào đó, tất cả chúng tôi có các câu
hỏi để hỏi – đôi khi là các câu hỏi hóc búa không có các câu trả lời
dễ. Hy vọng, các tài liệu được cung cấp dưới đây sẽ giúp bạn đọc đưa Bàn
Tròn Ba Lan năm 1989 vào các lớp học, và giúp các sinh viên sử dụng sự
sụp đổ của chế độ cộng sản như một điểm bắt đầu vào một cuộc thảo luận
sôi nổi về các đặc tính tốt và những hạn chế của cách mạng hòa bình.
Điểm bắt đầu cho tất cả việc này, như được gợi ý ở trên, là hội thảo
được chúng tôi tổ chức vào tháng Tư 1999. Dưới đây bạn sẽ thấy vài đoạn
trích gợi mở của bản gỡ băng của sự kiện đó, cùng với thông tin về làm
sao để nhận được toàn bộ văn bản. Để giúp các bạn và các sinh viên của
các bạn hồi tưởng và theo dõi các lý lẽ của những người tham gia Bàn
Tròn, chúng tôi đã đưa thêm một bảng niên đại về các sự kiện và các bảng
chú giải về tên, các tổ chức, và thuật ngữ. Cuối cùng, chúng tôi giới
thiệu một sưu tập các bài báo được viết bởi một nhóm các học giả đại
diện một dải rộng các môn học và các lĩnh vực chuyên môn: lịch sử, xã
hội học, nhân học, khoa học chính trị, và luật học; từ Ba Lan, Armenia,
Nam Phi, Hungary, và Hoa Kỳ. Toàn bộ văn bản gỡ băng của hội thảo 1999
của chúng tôi đã được trao cho các học giả xuất sắc này, và họ được yêu
cầu viết một tiểu luận giải thích các hệ lụy của Bàn Tròn Ba Lan trong
lĩnh vực chuyên sâu riêng của họ. Họ được hỏi, các học giả trong lĩnh
vực của bạn có thể sử dụng thế nào sự sụp đổ của chế độ cộng sản nói
chung, và văn bản gỡ băng của chúng tôi nói riêng, trong các lớp học của
chính họ? Tất cả chúng tôi đã gặp nhau trong tháng Hai năm 2000, để
trình bày và thảo luận các bài báo của chúng tôi, và cái các bạn có
trong tay là kết quả của cuộc đàm luận đó. Không có đồng thuận nào, (căn
cứ vào sự đa dạng của nhóm này) chúng tôi cũng đã chẳng thể kỳ vọng có
một sự đồng thuận. Nhưng, tôi nghĩ, có một cảm nhận chung rằng Bàn Tròn
Ba Lan đáng được nghiên cứu và đáng được dạy. Hy vọng khiêm tốn của
chúng tôi là, chúng tôi có thể giúp các bạn làm như vậy – không phải
bằng biếu cho các bạn bất cứ “bài học” sẵn nào từ 1989, mà bằng gợi ý
một số câu hỏi khiêu khích mà người ta có thể hỏi về các sự kiện này, và
về ký ức của những người tham gia về các sự kiện đó. Trong tiếp cận đến
việc nghiên cứu sự thay đổi bất bạo động từ nhiều môn học khác nhau và
các triển vọng khu vực, chúng tôi hy vọng rằng một số tính phức tạp, sự
mâu thuẫn, và sự nhập nhằng của thương lượng hòa bình sẽ nổi lên. Có lẽ
người ta có thể thậm chí nâng cao sự hiểu biết của sinh viên về bạo lực
thuộc nhiều loại có thể ẩn nấp thế nào bên trong các thành tựu của những
người hòa giải.
Dẫn nhập
Michael D. Kennedy
Thế
giới được điều chỉnh một cách sâu sắc bởi những thay đổi ở Đông Âu.
Chiến tranh Lạnh đã bắt đầu, một phần, quanh việc Liên Xô tiếp quản Đông
Âu sau Chiến tranh Thế giới II. Những tuyên bố về một “trật tự thế giới
mới” được gây cảm hứng bởi sự kết thúc của chế độ cộng sản ở Đông Âu.
Học vấn khoa học Mỹ cũng được điều chỉnh quan trọng bởi những thay đổi
Đông Âu. Sưu tập này cố gắng định hình sự hiểu biết đó bằng định khung
lại việc thảo luận xung quanh sự kết thúc của chế độ cộng sản trong năm
1989, dời khỏi hình ảnh sụp đổ hướng về hình ảnh của sự thương thuyết để
tạo ra sự thay đổi cơ bản.
Tất nhiên, Đông Âu
đã chiếm một chỗ quan trọng trong học vấn khoa học Mỹ. Xã hội học so
sánh, lĩnh vực riêng của tôi, đã phát triển một sự năng động quan trọng
quanh sự tương phản giữa các hệ thống tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ
nghĩa với Đông Âu, đặc biệt Ba Lan, được miêu tả sinh động một cách nổi
bật trong hệ thống sau. Sự sụp đổ của chế độ cộng sản cũng đã gây cảm
hứng cho một làn sóng mới của học vấn khoa học về các thị trường và nền
dân chủ được tạo ra như thế nào. Trong trường hợp sau, học vấn khoa học
này rõ ràng đã dính líu vào một dự án lớn hơn về sự can thiệp. Đôi khi
học vấn khoa học được thiết kế để giúp các nhà thiết kế kinh tế và chính
thể để phát triển các chiến lược hữu hiệu hơn cho việc thực hiện sự
thay đổi; đôi khi nó được thiết kể để phê phán các kế hoạch đã định làm
rồi. Trong trường hợp trước, xung lực chính trị đã hơi xa, nhưng cũng đã
có ở đó. Một cách điển hình, những so sánh này của các hệ thống đã được
thiết kế để chỉ ra tính ưu việt hay kém cỏi của hệ thống này hay hệ
thống kia. Những hoạt động chính trị đó, tuy vậy, đã xa cách hơn trong
phần lớn xã hội học ngày nay. Đối với các đồng nghiệp Đông Âu của tôi,
học vấn khoa học tốt thường đã đòi hỏi sự đứng xa hoạt động chính trị
cộng sản, hay chịu sự rủi ro của địa vị bất đồng chính kiến hay đối lập.
Đối với các đồng nghiệp phương Tây trong giai đoạn đó, sự hợp tác mở
rộng với các đồng nghiệp Đông Âu đã có vẻ đòi hỏi một thiên hướng khách
quan tương đối thờ ơ với chính trị.
Giống nhiều
đồng nghiệp phương Tây của tôi những người đã nghiên cứu Đông Âu trước
sự sụp đổ của chế độ cộng sản, tôi đã bị cuốn hút đến khu vực bởi một
mong muốn để đi xa hơn những so sánh “hoặc thế này/hoặc thế kia”. Tôi đã
muốn phát triển một xã hội học phê phán hơn mà đã lấy Đông Âu như điểm
xuất phát của nó. Sự hình thành phong trào Đoàn kết trong năm 1980-81 ở
Ba Lan vì thế đã là, ta có thể nói, một của trời cho. Ta có ở đây một
phong trào vô sản đấu tranh vì sự công bằng xã hội, dân chủ và tự do,
nhưng chống lại sự cai trị cộng sản. Phong trào Đoàn kết, và các nhà trí
thức của nó, không chỉ đã giúp để đặt cơ sở cho việc xem xét chế độ
cộng sản như một hệ thống có thể thay đổi, mà cũng đã biến đổi học vấn
khoa học ở phương Tây. Đoàn kết, và các phong trào Đông Âu nhỏ hơn mà đã
phát triển ở Hungary, Tiệp Khắc, Đông Đức và những nơi khác, đã giúp
đưa xã hội dân sự trở lại với tầm nhìn giải tích và chính trị của chúng
ta.
Khung khổ này về xã hội dân sự khớp rất
khéo với nhiều khung khổ giải tích hiện có. Một mặt, các lý thuyết về
các phong trào xã hội đã có thể sử dụng nó và đã có thể giúp nó. Rốt
cuộc, các phong trào đã là một biểu hiện quan trọng của xã hội dân sự,
nhưng xã hội dân sự cũng đã là một điều kiện tiên quyết cho sự phát
triển của các phong trào xã hội. Nền kinh tế thứ hai cũng đã được hiểu
như một yếu tố của xã hội dân sự, chứng tỏ tinh thần kinh doanh và quyết
tâm của nhiều người Đông Âu trong việc mở mang cuộc sống ngoài sự lệ
thuộc vào nhà nước, người ta bảo thế. Các nhà nhân (loại) học, các nhà
kinh tế học và những người khác đã cũng quan trọng sống còn trong việc
giải thích làm sao các quan hệ xã hội và nhà nước đã cho phép nền kinh
tế thứ hai này phát triển. Học vấn văn học và những nghiên cứu truyền
thông cũng đã chăm lo cho sự phát triển của một khu vực công ngầm hay
độc lập, bản thân nó giúp để diễn đạt rõ tầm nhìn đó của xã hội dân sự.
Các học giả phương Tây đã giúp để giải thích, và diễn giải, các nhà phát
ngôn hùng hồn nhất của khu vực ngầm đó.
Công
việc xã hội dân sự này đã rất tiện lợi về mặt giải tích và chính trị. Nó
đã cho phép các nhà học giả phương Tây và các trí thức công chúng để
gắn bó với các yếu tố nào đó của các xã hội Đông Âu mà không có rủi ro,
và để nhận diện các vấn đề hay các ràng buộc ở các mức khác nhau. Chính
quyền cộng sản đã hiếm khi, nếu có bao giờ, đứng ở tư thế trung lập,
chắc chắn không tích cực, trong những miêu tả này về xã hội dân sự.
Trong khi các phong trào phản kháng, các nhà kinh doanh khởi nghiệp ngầm
và các trí thức bất đồng chính kiến có thể không luôn luôn được giới
thiệu một cách rõ ràng như các anh hùng, họ hiếm khi bị chỉ trích và
chịu trách nhiệm vì các hành động của họ. Trong khi khung khổ xã hội dân
sự này đã tồn tại xa hơn những biểu hiện Đông Âu của nó, trong sự bao
quát chung của nó về chủ nghĩa đa nguyên, tính hợp pháp và tính công
khai, chính kiến của nó đã rõ ràng. Đã là xã hội dân sự chống lại nhà
nước cộng sản. Các cuộc Đàm phán Bàn Tròn năm 1989, tuy vậy, đã là cái
gì đó rất khác. Và có lẽ, vì lý do đó, chúng đã nhận được ít sự chú ý.
Khoa
học có nhiều động cơ thúc đẩy, nhưng một trong những động lực mạnh mẽ
nhất của nó là vấn đề chính trị nóng bỏng. Một khi chế độ cộng sản đã
biến mất, hoặc khi nó được chôn vùi, các vấn đề giải tích quan trọng
nhất đã là có được các quy tắc phù hợp cho việc phát triển quyền sở hữu
tư nhân và cạnh tranh bầu cử một cách thỏa đáng. Tập trung vào các công
cụ mà đã đẩy những người cộng sản ra khỏi quyền lực hầu như đã không có
vẻ quan trọng. Nhưng sự thiếu chú ý tương đối này, đặc biệt ở phương
Tây, phản ánh nhiều hơn sự cấp bách. Nó phản ánh một chính kiến lộn xộn.
Ba
Lan đã là nước đầu tiên để triển khai sự kết thúc được thương lượng tại
bàn tròn đối với chế độ cộng sản. Tuy đã được bắt chước, nó mau chóng
đã bị vượt qua. Mỗi cuộc thương lượng sau đó – ở Hungary, Cộng hòa Dân
chủ Đức, Tiệp Khắc, và ở mức độ nào đó Bulgaria – đã tốn ít thời gian
hơn và những người cộng sản đã giữ lại ít đặc quyền hơn trong hệ thống
mới.
Thay cho việc Ba Lan trở thành nhà tiên
phong cô lập của cải cách, thành tựu chính trị của Ba Lan, được đo về
mặt sự suy yếu cộng sản, đã trở nên đáng hổ thẹn đối với nhiều người
trong phe đối lập Ba Lan. Bàn Tròn, thay cho là một nước đi chính trị
tài giỏi, đã là một giao dịch với ma quỷ. Không giống xã hội dân sự, mà
các anh hùng và những kẻ bất lương của nó đã là rõ ràng, Bàn Tròn đã làm
phức tạp các phán xét và đã chia rẽ các lực lượng chống cộng ở Ba Lan,
và bạn bè họ ở nước ngoài.
Có lẽ đó đã là lý do
vì sao tôi đã hơi ngạc nhiên khi các đồng nghiệp của tôi – Brian Porter
và Marysia Ostafin – đầu tiên đã nêu ra ý tưởng rằng chúng tôi triển
khai một hội thảo hoàn toàn về Bàn Tròn Ba Lan. Bình thường các bài
giảng Copernicus hàng năm của chúng tôi đã chỉ mô tả các nét nổi bật của
các nhân vật tương đối không phức tạp của khoa học hay chính trị, phần
nhiều giống xã hội dân sự đã có thể tập trung vào lợi ích của xã hội đối
lại cái ác của nhà nước cộng sản. Việc này sẽ là phức tạp bởi vì chúng
tôi đã không thể đơn giản giới thiệu Bàn Tròn từ một quan điểm duy nhất
xét rằng nó đã, rốt cuộc, là một thỏa hiệp. Và điều đó có nghĩa là đưa
những người cộng sản trước kia đến Michigan.
Tất
nhiên đã có tiền lệ. Janusz Reykowski, một trong các nhà đàm phán quan
trọng nhất cho những người cộng sản, đã là một nhà tâm lý xã hội xuất
sắc và một cộng tác viên từ lâu của Viện Nghiên cứu Xã hội của Đại học
Michigan. Quả thực, ông đã thăm Michigan trong năm 1989 để thảo luận các
cuộc đàm phán này. Tôi nhớ đã bị ấn tượng lúc đó về sự tinh thông xã
hội vi mô của ông đã quan trọng thế nào trong việc giúp để tạo ra những
thay đổi xã hội tầm vĩ mô nhất. Trong gần mười năm kể từ khi việc đó xảy
ra, tuy vậy, đã có tương đối ít nghiên cứu khoa học được tiến hành để
giải thích các cuộc đàm phán này đã xảy ra như thế nào. Đã đặc biệt ít
người thử liên kết các câu chuyện của những người tham gia tạo ra sự
thay đổi cơ bản với những sự bất ngờ, ngẫu nhiên của bản thân sự biến
đổi.
Trong khi chúng tôi, các chuyên gia về văn
hóa, lịch sử và xã hội Ba Lan, đã có thể biện hộ như vậy cho sự quan
tâm của chúng tôi đến chủ đề, chúng tôi đã phải nghĩ về hội nghị này một
cách tham vọng hơn nhiều. Chúng tôi đã thấy trước rồi rằng các cuộc kỷ
niệm mười năm sự sụp đổ của chế độ cộng sản sẽ trở nên tầm thường. Ngoài
ra, vì sao Bàn Tròn Ba Lan phải xứng đáng sự quan tâm nhiều hơn sự sụp
đổ của bức Tường Berlin? Hình ảnh sau, rốt cuộc, phù hợp với câu chuyện
sụp đổ nhiều hơn là bức tranh về những người nói chuyện quanh một chiếc
bàn lớn.
Trong sự gấp gáp để xây dựng một xã
hội mới trên cảnh đổ nát của chế độ cộng sản, hình ảnh sụp đổ khớp rất
khéo với những người muốn thiết kế, hay áp đặt, các định chế theo cách
mới. Với những người cộng sản bị đánh bại, các câu hỏi về sự rút lui của
họ đã được tiến hành ra sao đã có vẻ thích hợp nhất để giao cho các sử
gia, một khi đủ thời gian có thể xen vào để cho phép vẽ các bức ảnh
trung lập. Tuy vậy, càng ngày càng rõ rằng chính quyền cộng sản đã tạo
ra một hình mẫu các mối quan hệ xã hội mà với nó quá khứ bị cộng sản cai
trị trở thành một phần không thể tách rời của sự hiểu một tương lai tư
bản chủ nghĩa và dân chủ. Mặc dù điều đó có ý nghĩa giải tích, nó vẫn để
lại một sự ghê tởm chính trị mạnh mẽ đối với nhiều người, đặc biệt khi
những người cộng sản đã có thể được thấy là có lợi từ sự rút lui của
chính họ. Bàn Tròn, người ta nói, đã là một giao dịch mà đã ban đặc ân
cho những người tham dự. Tuy vậy, đã có cách khác để xem xét Bàn Tròn
này, nhưng nó đòi hỏi bước từ bên ngoài dòng chảy của lịch sử Ba Lan phổ
biến vào thế giới của sự bất ngờ và so sánh. Nó đã đòi hỏi tư duy về
Bàn Tròn như một thí dụ về sự thay đổi hòa bình, nhưng cơ bản.
Khi
chúng ta nghĩ về sự thay đổi cơ bản, chúng ta thường nghĩ về bạo lực.
Đôi khi chính định nghĩa về cách mạng bao hàm bạo lực như một yếu tố cần
thiết. Đấy là một lý do nhiều nhà bình luận lúc đó đã tìm các từ mới để
mô tả những sự thay đổi cơ bản của năm 1989. Sự thay đổi hòa bình khắp
khu vực, với ngoại lệ Rumania mà đã chứng minh quy luật, mau chóng đã
trở thành trong những một đặc tính đặc biệt của “cách mạng”. Mặc dù một
yếu tố của sự mô tả, nó đã hiếm khi được bàn luận chi tiết, hay được
giải thích, đặc biệt xung quanh Bàn Tròn.
Đối
với một số người đàm phán tại Bàn Tròn, bạo lực đã là một khả năng mà họ
đã tìm cách tránh. Quả thực, cuộc đấu tranh để loại bỏ bạo lực đã có
thể được hiểu như là một nét chủ đạo của sự hồi tưởng, nhưng đã hiếm khi
là một chủ đề lớn của sự phân tích. Một khi bạo lực trở thành một khả
năng trong chuyện kể về sự sụp đổ của chế độ cộng sản, tuy vậy, mối quan
hệ của nó đối với các đặc tính khác của sự biến đổi xã hội trở nên có
tính quyết định. Và nhiều vẻ.
Chúng tôi đã tiếp
cận câu hỏi này về hòa bình và bạo lực trong năm 1989 với một sự nhận
rõ rằng những hệ lụy của sự thay đổi được dàn xếp nhưng cơ bản đòi hỏi
nhiều cách tiếp cận học thuật khác nhau, với kiến thức cơ bản trong các
khu vực thế giới khác nhau, để thấy rõ tiềm năng giải tích lớn hơn của
nó. Tất nhiên, chúng tôi nhờ cậy đến những người đã gắn kết với những
nghiên cứu về Ba Lan rồi – một sử gia, một nhà khoa học chính trị, và
một nhà xã hội học – nêu ra các câu hỏi về “sự thay đổi hòa bình nhưng
được thương thuyết” này dưới ánh sáng của những thảo luận chuyên ngành
với sự cộng hưởng rõ ở Ba Lan. Chúng tôi cũng đưa những người với kiến
thức cơ sở học thuật chính ở các nơi khác – để trình bày những giải
thích học thuật xung quanh việc giải quyết xung đột, ký ức, và sự thay
đổi chính trị và thay đổi toàn cầu với các câu hỏi sinh động bắt nguồn
từ các tầm nhìn so sánh rộng hơn.
Sưu tập này,
vì thế, nhờ cậy vào những khát vọng so sánh quá khứ đó của khoa học Mỹ
mà tôi đã nhắc đến ở trước, hình dung những thay đổi ở các phần khác của
thế giới giống thế nào và khác ra sao với những thay đổi ở Ba Lan.
Nhưng những so sánh này cũng khác với truyền thống sớm hơn đó mà đã
tương phản các hệ thống xã hội chủ nghĩa với các hệ thống tư bản chủ
nghĩa. Những so sánh này được tiên đoán không dễ đến vậy trên quan điểm
của các hệ thống thay thế khả dĩ, hay thậm chí các xã hội khác biệt một
cách rõ rệt. Thay vào đó, chúng tôi thấy sự thay đổi ở Ba Lan, Hungary,
Armenia và Nam Phi bị dính líu vào một sự biến đổi lớn hơn của thế giới.
Chúng cũng đã ảnh hưởng lẫn nhau. Ngoài ra, chúng tôi thấy sự cộng
hưởng quan trọng với các quá trình vi mô của sự giải quyết xung đột qua
các địa điểm khác nhau của sự thay đổi xã hội. Mặc dù chúng ta cần chú
trọng đến những so sánh qua những thí dụ của sự thay đổi lịch sử thế
giới, các bài học quan trọng có thể được mở rộng từ, và đến, các khoảnh
khắc kịch tính này bởi những người nghĩ về sự giải quyết xung đột hoạt
động thế nào trong những khung cảnh thế thục so sánh.
Chúng
tôi cũng thấy, trong sưu tập này, một mối quan hệ phức tạp hơn nhiều
giữa khoa học và chính kiến. Mặc dù bản thân Max Weber đã là một trong
những người giải thích về khoa học không mang giá trị, ông cũng đã biết
khá kỹ rằng các vấn đề làm sôi động khoa học xã hội và lịch sử
chẳng bao giờ có thể được tách ra khỏi những mối quan tâm khai hóa trong
khung cảnh thành hình câu hỏi. Điều này đặc biệt rõ trong sưu tập này,
nơi mỗi tác giả vật lộn không chỉ để giải thích Bàn Tròn diễn đạt rõ
ràng thế nào với các khối học vấn khác nhau, mà cả các câu hỏi được nêu
ra có thể tái định khung ra sao cơ sở chuẩn tắc của công việc học thuật
trong mối quan hệ với chính trị, lịch sử và sự thay đổi xã hội. Một
lượng lớn học vấn, bất luận về các dân tộc hoặc những người bị áp bức,
hoặc về giai cấp vô sản hoặc xã hội dân sự, đã đồng nhất với các tác
nhân thay đổi chống lại các nhân vật đàn áp hay chế độ cũ. Tại Bàn Tròn
Ba Lan, sự sắp xếp chỗ thoải mái này đã mất. Làm sao các kẻ thù trở
thành các nhà đàm phán, xung đột cơ bản đã chịu nhường sự giải quyết
xung đột ra sao, ngụ ý một sự định vị học thuật khác, một cơ sở chuẩn
tắc khác thường, và một mối quan hệ đã thay đổi đối với sự làm ra lịch
sử. Nó gợi ý một chương trình nghị sự khác cho tư duy về mối quan hệ
giữa chính trị và khoa học, chí ít đối với những người mà từ lâu đã bị
dính líu vào một lý thuyết mà đã đối sánh chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
xã hội. Các bài học của Bàn Tròn Ba Lan vượt xa hơn Ba Lan, và đúng hơn
mời gọi chúng ta suy nghĩ nghiêm túc về các tầm nhìn của những thay thế
khả dĩ mang tính hệ thống, các quá trình vi mô của sự giải quyết xung
đột và sự tạo ra lịch sử và những thay thế khả dĩ chính trị có thể được
làm lại ra sao dưới ánh sáng của sự thay đổi hòa bình, nhưng căn bản này
ở Ba Lan, và xa hơn.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_5.html
======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 4)
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 09:33
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 4)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
Sự sụp đổ của chế độ cộng sản ở Bảng niên đại
Sự sụp đổ được dàn xếp của chế độ cộng sản:
Bàn Tròn Ba Lan, Mười Năm Nhìn lại
Một Hội nghị được tổ chức tại Đại học Michigan
7-10/4/1999
Sau
đây là các đoạn trích từ bản dịch tiếng Anh của các bài trình bày của
hội nghị. Các bài trình bày đầy đủ không chỉ phong phú và phức tạp hơn
các đoạn trích ngắn này có thể chuyển tải rất nhiều, mà như với mọi
trích đoạn, chúng phản ánh những mối quan tâm cá nhân của những người
chọn các đoạn trích ấy. Vì thế các bạn đọc được khuyến khích mạnh mẽ để
tham khảo bản gỡ băng đầy đủ của hội nghị, mà sẵn có (cả bằng tiếng Ba
Lan và tiếng Anh), tại website của chúng tôi: <www.umich.edu/~iinet/Ba LanRoundTable>.[1]
PANEL MỘT: Ý NGHĨA CỦA BÀN TRÒN BA LAN
Adam Michnik
Nhà
hoạt động nhân quyền suốt đời, cố vấn cho phong trào Đoàn kết và nhà
đàm phán cho phe đối lập trong các cuộc đàm phán Bàn Tròn, sử gia và tác
giả Adam Michnik (sinh năm 1946) là Tổng biên tập của nhật báo Gazeta Wyborcza
từ khi bắt đầu trong năm 1989. Sau khi bị đuổi khỏi Đại học Warsaw và
bị bỏ tù (1968-69) sau các cuộc biểu tình phản đối tháng Ba năm 1968,
Michnik đã học xong và có bằng lịch sử tại Đại học Adam Mickiewicz ở
Poznań năm 1975. Ông đã là thành viên sáng lập của Ủy Ban Bảo vệ Công
nhân (KOR) năm 1977 và là giảng viên trong “Đại học Bay,” một tổ chức
đưa các trí thức và các nhà hoạt động công nhân lại với nhau trong các
seminar không chính thức. Lại bị tù từ 1981 đến 1984 và từ 1985 đến
1986, Michnik đã tiếp tục vận động cho dân chủ và xã hội dân sự. Tiếp
sau các cuộc đàm phán Bàn Tròn, ông đã phục vụ như một Dân biểu trong
Sejm (Hạ Viện) từ 1989 đến 1991 cho Câu lạc bộ Nghị viện Công dân.
Michnik là tác giả của rất nhiều bài báo, bài phỏng vấn, và sách.
Những
người bênh vực phương pháp hòa bình để giải quyết xung đột đã luôn đối
mặt với những câu hỏi và các lời buộc tội tương tự. Làm thế nào người ta
có thể nghĩ về việc giao kết một hiệp ước với kẻ thù? Làm thế nào người
ta có thể tìm kiếm một sự thỏa hiệp với ai đó, kẻ phải bị trừng phạt vì
những tội ác của hắn? Và thường các câu trả lời được đưa ra là tương
tự. Bạn phải chấp nhận thỏa thuận và tìm kiếm sự thỏa hiệp với kẻ thù,
chính xác bởi vì hắn là một kẻ thù. Không cần phải thương lượng với bạn
bè. Lựa chọn thực sự ở đây là gì? Hoặc là một cuộc chiến tranh, dễ kích
động, và có thể kéo rất dài, hoặc một con đường khó khăn hướng tới hòa
bình dựa trên sự thỏa hiệp. Nhưng một sự thỏa hiệp luôn để lại một cái
gì đó đáng mong muốn. Để có thể sống trong hòa bình và tự do, nhất thiết
phải thay ngôn ngữ chiến tranh bằng ngôn ngữ hòa bình, và đấy là nỗ lực
mà Ba Lan đã tiến hành mười năm trước…
Tôi
thường nghe những lời buộc tội rằng do chọn logic thỏa hiệp, tôi đã phản
bội tiểu sử của chính mình. Đó là lý do tại sao tôi muốn bắt đầu bình
luận về trường hợp của riêng tôi… Những thay đổi ở Liên Xô đã tạo ra một
tình huống mới, mà trong đó Bàn Tròn đã trở thành có thể. Sự thỏa hiệp
đó, như thường lệ, đã là kết quả của sự yếu tương đối của cả hai bên.
Các nhà chức trách đã quá yếu để chà đạp lên chúng tôi, và chúng tôi đã
quá yếu để lật đổ chính quyền. Và từ hai điểm yếu đó một cơ hội mới phát
sinh cho một lời giải thỏa hiệp mới…
Chúng tôi
tranh luận rất nhiều. Tôi nhớ một đồng nghiệp khác của tôi đã giải thích
với tôi rằng không phải là chính quyền cộng sản sẽ hợp pháp hóa Đoàn
kết, mà ngược lại, Đoàn kết sẽ xác thực tính hợp pháp cho chính quyền
cộng sản. Tôi nhớ một cuộc trò chuyện dài với một người bạn, tham gia
vào hoạt động văn hóa độc lập bí mật, và đối với cô ấy Bàn Tròn chỉ đơn
giản có nghĩa là một sự phản bội lý tưởng, khuất phục sự kiểm duyệt, và
từ bỏ sự độc lập thực sự. Tôi không chia sẻ các quan điểm này nhưng tôi
hiểu những người bạn ấy, bởi vì loại thỏa hiệp này có thể làm chúng tôi
mất uy tín. Nó có thể! Và nó thực sự đòi hỏi loại nào đó của sự làm trái
với bản thân mình, với những xúc cảm và ký ức của mình. Tôi nhớ đã khó
đến thế nào để tôi vượt qua sự kháng cự nội tâm và các nỗi sợ hãi của
chính mình. Tôi nhớ đã cần bao nhiêu nỗ lực để tôi thử hiểu các lý do
của những kẻ thù ngày hôm qua của chúng tôi, những người bây giờ đã trở
thành các đối thủ và các đối tác…
Tôi nhớ rất kỹ
lễ khai mạc Bàn Tròn, khi giáo sư Geremek buộc tôi mang com lê và cà
vạt, và khi, nghe những nhận xét láu cá của Walesa và những người khác,
tôi đã đi đến Cung điện Phó vương ở Warsaw. Để vào phòng tranh luận,
phải đi lên cầu thang, và ở trên cùng Tướng Kiszczak và Bí thư Stanislaw
Ciosek đứng đón chào khách. Tôi xoay xở để nấp trong phòng tắm sao cho
không bị bất cứ ai nhìn thấy phải bắt tay với cảnh sát trưởng. Tôi đơn
giản sợ vợ tôi sẽ đuổi tôi ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi đã tìm thấy một nơi
ẩn nấp trong phòng tắm, đợi mấy phút ở đó, nhưng khi tôi ló ra, ông
Kiszczak vẫn còn đó chìa tay ra để bắt. Bạn biết đấy, đèn chiếu sáng,
máy ảnh... và đây là cách tôi đã đánh mất sự trinh tiết của mình! Chúng
tôi đã có một cảm giác kỳ lạ về tình hình của mình. Chỉ hai năm rưỡi
trước đây tôi đã được giải thoát khỏi nhà tù, và đã có đồng nghiệp của
tôi, bạn bè thời bí mật… Nhưng cùng lúc, tôi nhận thấy rằng sự thay đổi
lịch sử loại nào đó đang diễn ra mà tôi đã không có khả năng xác định
tại thời điểm đó. Tôi đã hiểu một điều: phe đối lập dân chủ cuối cùng đã
bước một bước qua ngưỡng của tính hợp pháp. Từ Cung điện Phó vương đó
con đường của chúng tôi chỉ có thể dẫn hoặc đến nhà tù ở đường
Rakowiecka hoặc đến sự chấm dứt của hệ thống cộng sản…
Đã
không có các thỏa thuận bí mật nào. Chúng tôi đã tiếp tục tới các cuộc
bầu cử và chúng tôi đã thắng theo cách mà đơn giản đã làm chúng tôi
hoảng sợ bởi quy mô của nó. Chúng tôi không biết phải làm gì với chiến
thắng của mình, nhưng điều quan trọng nhất là trong các cuộc bầu cử đó
dân tộc Ba Lan đã từ chối hệ thống cộng sản…
Sự
thỏa hiệp Bàn Tròn đã là có thể bởi vì ở cả hai bên đã có những người
chấp nhận chịu rủi ro bị buộc tội phản bội bởi chính cộng đồng của mình.
Và đó là số phận của các nhà cải cách, họ đi với nhịp độ sên bò và họ
bị đập vào đầu bởi những người cực đoan của chính phe họ. Nhưng chỉ nhờ
các nhà cải cách như vậy mà chúng ta có thể tin rằng triết lý thỏa thuận
có một tương lai và người ta có thể xây dựng tương lai đó trên sự xác
tín rằng chỉ có một nước Ba Lan được chia sẻ bởi những người đã chiến
đấu chống lại nền Cộng hòa Nhân dân và những người phục vụ nền Cộng hòa
Nhân dân, mới có thể là một Ba Lan thực sự dân chủ. Nếu chúng ta loại
trừ bất cứ ai, chúng ta sẽ phải chấp nhận sự phân biệt đối xử loại nào
đó, mà trong phân tích cuối cùng luôn luôn dẫn đến những dối trá và bất
công. Ơn Chúa Ba Lan đã chọn con đường khác.
Mieczysław Rakowski
Thủ tướng trong các tháng dẫn đến các cuộc Đàm phán Bàn Tròn, Mieczysław Rakowski (sinh
năm 1926) đã là một sỹ quan của Quân đội Nhân dân Ba Lan từ 1945 đến
1949 và đã nhận bằng tiến sỹ lịch sử từ Viện Khoa học Xã hội Warsaw
trong năm 1956. Ông đã bắt đầu sự nghiệp chính trị của mình trong năm
1946 như một đảng viên của Đảng Lao động Ba Lan. Từ 1948 đến 1990 ông đã
là đảng viên của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (PZPR), phục vụ trong
Ban chấp hành Trung ương từ 1975 đến 1990. Sau một năm làm Trợ lý Biên
tập, Rakowski đã trở thành Tổng Biên Tập của tuần san Polityka
trong năm 1958, một chức mà ông đã giữ cho đến 1982. Ông đã là Phó Thủ
tướng từ 1981 đến 1985, Phó chủ tịch Quốc hội (Sejm) và lãnh đạo của Hội
đồng Xã hội-kinh tế của nó từ 1985 đến 1988, và ủy viên Bộ Chính trị
của PZPR từ 1987 đến 1990. Từ tháng Chín 1988 đến tháng Tám 1989,
Rakowski đã phục vụ như Thủ tướng cộng sản cuối cùng của Ba Lan; từ
tháng Tám 1989 đến tháng Hai 1990, ông đã là Bí thư Thứ nhất cuối cùng
của PZPR. Từ 1990, Rakowski đã là Tổng Biên tập của Dziś: Przegląd Społeczny. Ông là tác giả của nhiều xuát bản phẩm về chính trị.
…
Giữa những người chỉ trích Bàn Tròn dữ dội nhất là các nhà hoạt động
cánh hữu trẻ, những người nghĩ rằng Magdalenka là một sự phản bội Đoàn
kết, phe đối lập, và Bàn Tròn như Adam Michnik đã nói, là “một giao dịch
giữa bọn đỏ và bọn hồng.” Thế đấy, tại thời điểm đó, khi các lãnh đạo
của phe đối lập, Lech Walesa, Mazowiecki, Geremek, Kuron, Frasyniuk,
Michnik tất nhiên, Bujak, và những người khác ... Khi các nhà lãnh đạo
này đã dồn hết can đảm của mình để tin tưởng chúng tôi, mặc dù họ đã có
lý do để không làm như vậy, thì những người chỉ trích trẻ ngày nay của
Bàn Tròn còn học trung học, hoặc là các sinh viên vừa vào đại học. Họ
không có gì trong sơ yếu lý lịch của mình để chứng tỏ sự anh dũng chống
lại chế độ cộng sản, vì vậy họ chỉ viết sơ yếu lý lịch mới, cố bù đắp
cho khoảng trống đó. Phê phán Bàn Tròn, họ thể hiện cứ như họ đã từng ở
đó, cứ như họ đã thực sự đánh bại những người cộng sản và họ sẽ tống bọn
[cộng sản] đó đến nơi bọn nó thuộc về, đến trại giam nơi nào đó, có lẽ
không ở Siberia, nhưng họ đã có thể tìm thấy một nơi. Thế đấy, nhóm này,
mà chỉ đơn giản viết sơ yếu lý lịch của mình, nghĩ rằng “bọn đỏ” và
“bọn hồng” đã tạo ra một huyền thoại về tầm quan trọng của các cuộc đàm
phán Bàn Tròn, trong khi các cuộc gặp tại Magdalenka đã thực sự là các
yến tiệc người ăn thịt người. Đó là những gì tôi nghe thấy trên một
trong những chương trình truyền hình ở Ba Lan. Thế đấy, quan trọng để
lưu ý rằng đôi khi thật đáng sợ phải nghe các ý kiến như vậy, bởi vì
chúng chứng tỏ một phương thức tư duy hoàn toàn phi lịch sử của một bộ
phận nào đó của trí thức Ba Lan, chủ yếu là trong phe cánh hữu hiện
nay..
… Ý kiến của tôi là, trong giai đoạn đầu,
các nhà chức trách đảng cộng sản, mà tôi thuộc về và đó là lý do vì sao
tôi thường nói “chúng tôi” chứ không phải “họ,” chế độ đó đã không sẵn
sàng về mặt chính trị hay tâm lý để chấp nhận phe đối lập như một cái gì
đó có thể tồn tại trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, và thậm chí ít sẵn
sàng hơn để chia sẻ quyền lực với nó. Và sự chấp nhận các nghiệp đoàn
độc lập với chính quyền nhà nước và thực sự là với nhà nước với tư cách
như vậy, không, đó không phải là một phần của chính khái niệm chủ nghĩa
xã hội… sau khi thiết quân luật được áp đặt, chúng tôi ở trong đảng vẫn
tin rằng chúng tôi đối mặt với một cuộc khủng hoảng, chúng tôi đã nhận
thức đầy đủ về điều đó, nhưng chúng tôi nghĩ rằng chúng tôi có thể tự
vượt qua khủng hoảng, mà không có phe đối lập. …
Chúng
tôi đã tin, chúng tôi đã tin chắc rằng chúng tôi có thể đối phó mà
không có phe đối lập và sự xác tín này, trên thực tế, đã kéo dài cho đến
giữa các năm 1980, nhưng nó cũng đã liên quan đến nỗi sợ hãi của chúng
tôi về Liên Xô. Bởi vì thế hệ của Jaruzelski và, nói chung, các thế hệ
đã trải qua các trại cải tạo, những người cộng sản Ba Lan, hoặc những
người trở thành những người cộng sản muộn hơn, những người đã chặt cây ở
Siberia, thế hệ này trở lại Ba Lan với một cảm giác bất lực trước quyền
lực. Đó không phải là bất kỳ loại thân phận nô lệ nào nhưng là nỗi sợ
hãi và sự tôn trọng tuyệt đối sức mạnh phía đông của sông Bug. Đó là một
trong những bài học mà Jaruzelski đã học, và theo ý tôi, chắc chắn rằng
nó có tác động đến thái độ của ông đối với phe đối lập trong những năm
1980…
Bây giờ có ý kiến cho rằng sự sụp đổ của
chủ nghĩa cộng sản đã bắt đầu với sự sụp đổ của Bức tường Berlin. Tôi
phải nói rằng, phải, với tất cả sự ngưỡng mộ của tôi đối với người Đức,
họ đang lừa dối chúng tôi một lần nữa. Họ đã thuyết phục thế giới. Bức
tường Berlin và thế thôi, sự bắt đầu của sự sụp đổ. Không, Bàn Tròn là
sự khởi đầu và những người khác đã đi theo chúng tôi.
Wiesław Chrzanowski
Một
Giáo sư Luật tại Đại học Công giáo Lublin, Wiesław Chrzanowski (sinh
năm 1923) từ lâu đã là một nhà đối lập tích cực của chế độ cộng sản. Sau
khi tham gia kháng chiến chống Nazi trong Chiến tranh Thế giới II,
Chrzanowski đã nghiên cứu luật tại Đại học Jagiellonian, Đại học Warsaw,
và trường Kinh tế Warsaw. Ông đã bị bắt năm 1948 và đã bị kết án tám
năm tù vì sự dính líu của ông vào Liên minh Thanh niên Thiên chúa giáo.
Mặc dù đã được phục hồi chính thức trong năm 1956, Chrzanowski đã bị từ
chối giấy phép để hành nghề luật (trừ trong vị trí khiêm tốn của “cố vấn
pháp lý”). Ông đã thành lập “Start” Câu lạc bộ Thảo luận Công giáo
trong năm 1957 và đã là thành viên của “Ủy ban Thông tin” của Đức Hồng y
Stefan Wyszyński từ năm 1965. Trong các năm 1980 Chrzanowski đã là một
cố vấn cho Đoàn kết và một thành viên của “Hội đồng Tư vấn Xã hội” của
Đức Hồng y Józef Glemp. Ông đã là một trong các nhà sáng lập của Liên
minh Thiên chúa giáo Dân tộc trong năm 1989 và đã là Chủ tịch của nó cho
đến 1994. Chrzanowski đã là Bộ trưởng Tư pháp trong năm 1991, Chủ tịch
Quốc hội (Sejm) từ 1991 đến 1993, và một Thượng nghị sỹ từ 1997.
…
Tôi hoàn toàn phản đối và quan điểm của tôi là tiêu cực khi nói về bất
kỳ nỗ lực để xây dựng một huyền thoại về Bàn Tròn, liên quan đến kỷ niệm
lần thứ mười của nó. Lịch sử nhìn lại từ mười năm chưa phải là lịch sử;
nó là lịch sử trong hành động, và về khía cạnh này, huyền thoại có vai
trò riêng của nó để đóng.….
Bàn Tròn đã không
gây ra sự thối rữa trong cấu trúc đế quốc của Liên Xô; đúng hơn nó đã là
hệ quả của sự thối rữa đó. Nó đã không phải là cái điềm báo trước sự
sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản như một hệ thống kinh tế xã hội. Sự kết
thúc của hệ thống đã được chính phủ của Thủ tướng Rakowski cảm nhận
thấy, chính phủ đã tiến hành các bước theo một hướng mới. Tuy nhiên, nó
đã làm tăng tốc, đã tăng tốc chỉ vài tháng sự thay đổi đội gác quyền lực
ở Ba Lan, và nó đã ảnh hưởng đáng kể nhưng không quyết định đến cách
thức chuyển giao quyền lực.….
Ngoài truyền
thuyết của nó, các cuộc đàm phán Bàn Tròn đã là quan trọng trong chính
trường Ba Lan. Bên trong phạm vi này, không nghi ngờ gì, chúng có ý
nghĩa. Tuy nhiên, những cuộc đàm phán đã không có tầm cỡ phổ quát. Sẽ là
một ảo tưởng để tìm kiếm sự tương tự với sự suy tàn của các chế độ độc
tài Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, hoặc Chile. Ở nước ta, đó đã là một hệ
thống được áp đặt từ bên ngoài, và nó có thể tồn tại chỉ với sự ủng hộ
bên ngoài. Tại các nước khác này, các hệ thống đã là bản địa và sự suy
tàn của chúng cũng đã thế. Đây là lý do tại sao thật khó để tưởng tượng,
đáng tiếc, rằng công thức của chúng tôi có thể hữu ích trong việc giải
quyết những sự kiện bi thảm ở Nam Tư cũ, có nghĩa là, các cuộc xung đột
hiện nay ở Kosovo.
Thư từ Đức Giáo hoàng John Paul II
do Michael Kennedy đọc tại hội nghị
“Đức
Thánh Cha hy vọng rằng sự suy ngẫm được đào luyện này về các khía cạnh
tinh thần, văn hóa và chính trị của quá trình chuyển đổi hòa bình của Ba
Lan dân chủ sẽ làm nổi bật nền tảng cuối cùng của chúng trong một mệnh
lệnh đạo đức phát sinh từ tầm nhìn về phẩm giá vốn có của con người và
thiên hướng siêu việt của con người đến tự do trong việc theo đuổi chân
lý. Ngài tin tưởng rằng công việc của Hội nghị sẽ kêu gọi sự chú ý cần
thiết đến tính ưu việt của sự đối thoại kiên nhẫn hơn tất cả các hình
thức bạo lực trong giải quyết xung đột và xây dựng một chế độ xã hội
công bằng và nhân đạo”.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
[1]
Tất cả các đoạn trích được trích dưới đây đã được chép lại và dịch từ
tiếng Ba Lan sang tiếng Anh bởi Kasia Kietlinska trừ các đoạn trích của
László Bruszt, Dai Qing, John R. Davis, và Konstanty Gebert. Các phần
sau được ghi lại bởi Margarita Nafpaktitis [phần tiếng Việt được lấy từ
bản dịch của Nguyễn Quang A]
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_6.html
======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 5)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
PANEL HAI: TRANH ĐUA CHÍNH TRỊ, 1986-89
Zbigniew Bujak
Được đào tạo như một kỹ thuật viên về điện, Zbigniew Bujak (sinh
năm 1954) đã làm việc nhiều năm tại nhà máy máy kéo Ursus gần Warsaw.
Ông đã đồng tổ chức một cuộc đình công ở đó năm 1980, và trở thành một
trong những nhân vật lãnh đạo trong phong trào Đoàn kết. Từ 1981 đến
1989 ông là người đứng đầu Đoàn kết trong khu vực Mazowsze, và cho đến
khi bị bắt năm 1986 ông là nhân vật đối lập nổi bật nhất. Trong năm
1986, Bujak đã được trao Giải Nhân quyền Robert F. Kennedy. Từ 1987 đến
1989 ông là thành viên của Ủy Ban Điều hành Quốc gia của Đoàn kết; từ
1990 đến 1991 là Chủ tịch của Quỹ Stefan Batory (Quỹ Soros). Là Dân biểu
trong Hạ Viện từ 1991 đến 1997, ông đại diện cho Phong trào Xã hội Dân
chủ (1991-93) và Nghiệp đoàn Lao động (1993-97). Bujak thường xuyên viết
về chính trị Ba Lan và hiện tại là thành viên lãnh đạo của Đảng Liên
minh Tự do.
… Chúng tôi
đã thấy trước đó rằng bất cứ lần nào chúng tôi kéo nhau ra đường phố và
thông qua các cuộc biểu tình để thử buộc bên kia làm một cái gì đó, lần
nào chúng tôi thực sự cũng bị thua. Không biết bao nhiêu lần chúng tôi
đã cố gắng để thắng phía bên kia bằng đấu tranh vũ trang, đã hóa ra, và ở
đây tôi đang nhắc đến thời kỳ sau chiến tranh, đã hóa ra rằng bộ máy
đảng đã có thể dễ dàng gán cho những người đối lập như loại tội phạm nào
đó, những kẻ tấn công vũ trang. Và chúng tôi vẫn cứ thua. Vì vậy chúng
tôi đã hiểu rằng ý tưởng chiến đấu bất bạo động là tốt nhất, và đó là
niềm tin của chúng tôi, công cụ thành công hoặc hiệu quả nhất trong cuộc
đấu tranh cho dân chủ. Khi điều này được chấp nhận như là một nguyên
tắc rằng rốt cuộc ở đây chúng ta hướng tới một thỏa thuận, và nó đã tự
bộc lộ trong thời gian thiết quân luật, khi đó ngay cả khi chúng tôi kêu
gọi xuống đường biểu tình và hướng tới một cuộc tổng đình công, trong
chính tài liệu đó, chúng tôi luôn luôn đề cập đến sự cần thiết phải thỏa
thuận và thỏa hiệp, tin rằng đây là cách duy nhất để giải quyết xung
đột…
Tôi phải nói rằng nếu giả như dưới thời
thiết quân luật một người nào đó, chẳng hạn một vị tướng nào đó, đã liên
lạc với tôi và nói cái gì đó như, “sư đoàn của tôi sẵn sàng phục vụ các
ông”, thì rất có thể chúng tôi đã suy ngẫm nghiêm túc về khả năng này.
Nhưng đã chẳng có gì thuộc loại đó xảy ra…
Tôi
muốn nói rằng chúng tôi đã thành công trong việc duy trì sự thống nhất
của phong trào Đoàn kết, và hãy nói, tính thống nhất và cố kết tổng thể
của tư tưởng đó là ánh sáng dẫn đường cho chúng tôi. Điều đó không có
nghĩa là đã không có sự đa dạng trong các chương trình. Có, đã có những
chương trình đa dạng, các chương trình nhiều vẻ. Đã có các phong trào
chính trị mới đang được sinh ra và họ đã xây dựng cương lĩnh chính trị
của họ. Và điều đó hợp với chúng tôi, bởi vì đây là điều mà đa nguyên và
dân chủ trong Đoàn kết dự định…
…Ngay bây giờ ở
Ba Lan, có một cuộc tranh luận về các cuộc đàm phán Bàn Tròn, nó đã là
cần thiết, nó đã có bất kỳ ý nghĩa nào hay không? Trong cuộc xung đột
này, một cuộc tranh luận quan trọng là vấn đề của các nạn nhân, vấn đề
liệu có công lý, liệu công lý đã được thực hiện tại thời điểm đó, liệu
tội ác đã bị trừng phạt, liệu tội ác đã bị loại bỏ hay không. Và theo
một cách, những người hỏi những câu hỏi đó nghĩ rằng các cuộc đàm phán
Bàn Tròn như một cái gì đó xấu. Tôi muốn nói rằng cách tiếp cận này,
phải, cho thấy rất nhiều đức tin sâu xa rằng bạn có thể diệt trừ cái ác
và có thể đạt công lý một trăm phần trăm. Tôi nhìn vào nó với sự thờ ơ,
và, phải, thậm chí với một liều lượng nhất định của sự hoảng sợ, bởi vì,
phải, đó cứ như là ai đó đang cố gắng để sửa chữa những gì Chúa đã tạo
ra, để loại bỏ tất cả cái ác và đạt được một trăm phần trăm công lý. Đó
không phải là cách thế giới vận hành, và các mối quan hệ con người cũng
chẳng theo cách đó, và, hãy để tôi diễn đạt theo cách này, bên trong
triết lý này, chúng ta muốn tiếp tục truy tố và trừng phạt tất cả những
người đã phạm các tội khác nhau. Theo triết lý đó, chúng ta, những người
Ba Lan, một quốc gia tôn giáo, chúng ta đi nhà thờ và cầu nguyện cho
công lý. Và đó là một phần lớn của Giáo hội Ba Lan, cái phần mà bạn có
thể nghe thấy trong các phương tiện truyền thông, cái phần, phải, cố
gắng để đạt được một trăm phần trăm công lý tuyệt đối và chân lý đó…
Chúng ta phải làm điều đó thế nào? Để làm điều đó, người ta hiển nhiên
phải trả lời câu hỏi liên quan đến ý nghĩa của sự đau khổ của các nạn
nhân. Phải, với tôi, khi đó, rõ ràng là những người đó đã không đấu
tranh cho công lý một trăm phần trăm này và việc tiêu diệt cái ác này.
Họ đã chiến đấu cho tự do và dân chủ. Và theo ý nghĩa đó, khi chúng tôi
tham gia vào các cuộc đàm phán Bàn Tròn dẫn đến tự do và dân chủ tại Ba
Lan, theo một cách mà chúng tôi đang hoàn thành sứ mạng, mà họ đã chiến
đấu cho và đã hy sinh cuộc sống của họ cho sứ mạng đó. Và tôi phải nói
rằng khi nghe các thành viên gia đình của những người đó, tôi nghĩ rằng
họ hiểu, và họ nói, cha chúng tôi, chồng tôi đã bị giết vì tự do và dân
chủ. Và bên trong triết lý đó, chúng tôi có thể nói, có một loại người
cầu nguyện khác trong nhà thờ. Loại này là về lòng biết ơn đối với sự hy
sinh của họ, và đó là một phần của Giáo hội Ba Lan. Và theo ý nghĩa đó,
sự khác biệt về ý kiến liên quan đến Bàn Tròn thực sự tồn tại và sẽ kéo
dài nhiều tháng và có lẽ trong nhiều năm dài nữa, và nó sẽ xác định hai
xu hướng trong đời sống kinh tế-xã hội Ba Lan, nhưng cũng là hai xu
hướng trong Giáo hội Ba Lan.
Đại sứ Stanisław Ciosek
Là
đảng viên của Đảng Công nhân Thống nhất Ba Lan (PZPR) từ 1959 đến 1990,
Stanisław Ciosek (sinh năm 1939) đã giữ nhiều chức vụ hành chính khác
nhau. Ông có bằng về nghiên cứu đại dương từ Trường Kinh tế học tại
Sopot trong năm 1961 và đã phục vụ trong mười bốn năm tiếp theo trong bộ
máy hành chính của Hiệp hội Sinh viên Ba Lan. Từ 1972 đến 1985 Ciosek
là Dân biểu trong Quốc hội (Sejm); từ 1975 đến 1980 ông là Bí thư Thứ
nhất vùng trong PZPR. Ông là ủy viên Ủy ban Trung ương PZPR từ 1980 đến
1981 và 1986 đến 1990; từ 1980 đến 1985 là thành viên Hội đồng Bộ
trưởng. Trong các năm dẫn đến các cuộc Đàm phán Bàn Tròn (1986-88), ông
là Bí thư Ủy Ban Trung ương PZPR và Tổng Thư ký của Hội đồng Quốc gia
Của Phong trào Yêu nước Phục hưng Dân tộc. Từ 1989 đến 1996, Ciosek là
Đại sứ Ba Lan ở Moscow.
… Đây là một tư
tưởng khá mạo hiểm, nhưng tôi sẽ nói về nó dẫu sao đi nữa. Tôi tin rằng
việc cho phép các khái niệm như glasnost (công khai) và perestroika (cải
tổ) có nguồn gốc của nó trong tình hình Ba Lan, và trong nhận thức rằng
không thể để giải quyết xung đột và bảo đảm tăng trưởng hoặc thông qua
vũ lực, như tại Ba Lan trong thời kỳ thiết quân luật, hoặc thông qua các
phương pháp hiện hành của việc điều hành chính phủ. Có thể không rõ
ràng như đã được thể hiện ở Ba Lan, những vấn đề đó đã xảy ra trong toàn
bộ phe xã hội chủ nghĩa. Có lẽ [nói] điều này là không khiêm tốn, nhưng
tôi tin hoàn toàn, sau hơn sáu năm sống ở Moscow và sau nhiều cuộc nói
chuyện và thẩm tra, rằng đã nhất thiết phải đối mặt với thách thức đó,
thách thức có tên Ba Lan, mà đã gây ra sự tất yếu đối với các nhà lãnh
đạo kiểu Gorbachev.
Để phản ứng với việc gọi
tên, khi chúng tôi đã được gọi là những con “nhện đỏ,” ... đúng, đúng,
đã có những thời kỳ chúng tôi được gọi là những con “nhện đỏ,” tôi đã
thường nói với các đối tác của mình: “Phải, loại nhện gì mà không còn có
khả năng bắt ruồi?” …
Tôi đã được nhìn nhận như
một loại quái vật khôi hài nào đó với hai cái đầu, bởi vì, phải, với
tiểu sử của mình, tôi vẫn đã là đại sứ của Ba Lan mới. Và đối với những
người này điều đó cũng đã có nghĩa rất nhiều, rằng chuyển sang một hệ
thống mới, họ không cần phải sợ mất đầu của họ, và ý tôi muốn nói theo
nghĩa đen….
Chúng tôi đã biết rằng cần phải thay
đổi, rằng đã cần những thay đổi căn bản, nhưng chúng tôi đã không hoàn
toàn biết cần thay đổi chính xác cái gì và làm thế nào để đưa ra những
thay đổi đó. Vì vậy, chúng tôi đã trông cậy vào Đoàn kết về các ý tưởng.
Và theo cách chúng tôi nhìn nhận, tất cả đã là một mê cung của những
lời chỉ trích, của sự bất mãn, của các ý tưởng, các đề án khác nhau, mà
đã không là các khái niệm chính trị và kinh tế được kết tinh một cách rõ
ràng. Chúng tôi vẫn có thể nhớ kỹ các cuộc tham vấn nổi tiếng về giá
thuốc lá trong thời gian Hội nghị Công đoàn Đoàn kết ở Gdansk. Điều này
nghe có vẻ hoàn toàn phi lý hôm nay nhưng đó là sự thật. Như thế trong
con mắt chúng tôi, đó cũng đã chẳng phải là ý tưởng thích hợp cho Ba
Lan. Đúng, chúng ta đã thống nhất một điều, rằng chúng ta cần một sự
thay đổi. Và với tâm trạng này, chúng tôi đã ngồi vào Bàn Tròn. Đây đã
không phải là trận đấu tay đôi của hai khái niệm được định nghĩa rõ
ràng, chủ nghĩa xã hội giáo điều với nền kinh tế kế hoạch hóa đối lại
nền dân chủ và kinh tế thị trường. Đây đã là một sự tìm kiếm, vào lúc
đầu đầy sự không tin cậy và sự nghi ngờ, thế nhưng cùng nhau chúng ta
đang tìm kiếm cách thức mới để thay đổi Ba Lan.….
Tại
lúc nào đó, những người Nga đã yêu cầu tất cả các đại sứ đã trình quốc
thư tại Moscow để đặt một cái gì đó mang tính biểu tượng của mỗi quốc
vào dưới đá tảng của Đại Thánh đường Chúa Ki Tô Đấng Cứu thế hiện đang
được xây dựng lại. Vì vậy, tôi đã đi Warsaw và mang một cuốn sách dày về
các thỏa thuận Bàn Tròn. Đó đã là, phải, một thời rất nguy hiểm ở
Moscow, với cuộc đối đầu có thể, và tôi đã hình dung rằng họ có thể sử
dụng các thỏa thuận của chúng tôi như một biểu tượng của sự đối thoại.
Nhưng sau đó tôi đọc cuốn sách, sau nhiều năm, cẩn thận, và quyết định
không đặt nó ở đó dưới đá tảng của thánh đường. Như tôi đã nhắc đến, đó
đã là những lời hứa, mong muốn, kỳ vọng đẹp. Nó đã không phải là thị
trường tự do, nó đã không phải là chủ nghĩa tư bản. Nó đã giống như chủ
nghĩa xã hội không tưởng, chủ nghĩa lãng mạn xã hội với việc chỉ số hóa
tiền lương.*
Phải, đưa các tầm nhìn như vậy cho hàng xóm, những người đã và thực sự
vẫn còn đang đối mặt với sự lựa chọn tàn bạo của các biện pháp kinh tế
khó, phải ... tôi đã không dám làm điều đó. Bất chấp tất cả các giá trị
biểu tượng của Bàn Tròn của chúng tôi, tôi đã không quyết định làm xói
mòn các bức tường của thánh đường mới bằng các ý tưởng, được tạo ra tại
một thời điểm cụ thể và điều kiện cụ thể ở Ba Lan…
Hãy
để tôi nhắc nhở các bạn rằng trong hiệp ước Bàn Tròn chúng ta đã đồng ý
rằng các cuộc bầu cử tiếp theo sẽ là hoàn toàn tự do. Giai đoạn này của
bốn năm chuyển đổi mang tính hệ thống, chúng tôi gọi đó, phải, là một
cơ chế khớp nối hay đúng hơn, cơ chế ly hợp. Bạn nhấn ly hợp để sang số,
không để dính vào cùng một số. Tôi kiên quyết khẳng định rằng phần tốt
của phe tôi đã có một cảm giác về những thay đổi sâu rộng. Không phải
tất cả mọi người đã nhận thức được rằng sự thay đổi cơ bản lớn thực sự
sẽ xảy ra, nhưng đã có nhiều người đã có một sự hiểu biết, không ở mức
độ như linh cảm, rằng nó sẽ xảy ra. Đó là vì sao… chúng tôi đã nhấn bàn
đạp ly hợp đó…
Chúng tôi đã thúc đẩy các cuộc
bầu cử để cuối cùng biết được sự thật thực sự. Chúng tôi đã đều sợ rằng
chúng ta sẽ phá hủy đất nước bởi nhịp độ nhanh chóng của việc chuyển
đổi. Đó là nguồn gốc của tất cả sự kháng cự này, của tất cả các định chế
đó, nhấn phanh (thắng) và kiểm soát, bao gồm cả các cuộc bầu cử hợp
đồng. Toàn bộ cấu trúc này là về điều này, và không phải là về bàn tay
của chúng tôi ..., như thường được trưng ra, dán hồ vào máng và biến
thành đá.
Đại sứ John R. Davis
Đại sứ Hoa Kỳ ở Ba Lan, John R.
Davis (sinh năm 1927) đã phục vụ như một người trung gian trong thời
gian các cuộc Đàm phán Bàn Tròn. Vợ ông, Helen Davis, đã đóng vai như
người triệu tập các cuộc gặp gỡ phi chính thức giữa những người tham gia
Bàn Tròn tại Tư dinh của Đại sứ ở Warsaw trong cuối các năm 1980. Là
quan chức ngoại giao từ 1955, Đại sứ Davis đã có học vị từ UCLA và Đại
học Harvard. Sự nghiệp ngoại giao của ông gồm các tua công cán ở
Washington, Jakarta, và Rome và là Tổng Lãnh sự ở Milan và Sydney. Ông
đã được giao bốn công việc tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Warsaw: Tùy viên
Kinh tế (1960-63); Phó Đại sứ (1973-76); Đại biện (1983-88); và Đại sứ
(1988-90). Từ 1981 đến 1983, ông là Vụ trưởng Vụ các Vấn đề Đông Âu và
Nam Tư ở Bộ Ngoại Giao. Từ 1992 đến 1994, ông là Đại sứ Hoa Kỳ ở
Rumania.
Đối với chúng tôi tại Đại sứ quán ở
Warsaw, trong giai đoạn từ năm 1983 đến năm 1990, khi tôi là người đứng
đầu phái đoàn, Ba Lan đã là một xứ thần tiên tuyệt đối của thử nghiệm
chính trị và kinh tế, và đó là nơi đã đạt được, vào cuối Bàn Tròn, cái
mà các thế hệ học giả và các chuyên gia Mỹ đã tuyên bố là không thể, và
đó là việc chuyển giao quyền lực hòa bình tại một quốc gia cộng sản vào
tay của một xã hội dân chủ…
…Theo quan điểm của
tôi Đoàn kết đã có tất cả các lý lẽ tốt và đã có sự ủng hộ to lớn của
dân chúng, từ Giáo hội, từ xã hội. Nó không thể bị thua, một khi nó đã
ngồi vào bàn, và đó chính xác đã là cách nó đã được tiến hành. Giáo sư
Reykowski sẽ thừa nhận, ông và giáo sư Geremek đã xuất hiện trên truyền
hình mỗi đêm, sau các phiên họp của Bàn Tròn, và đã giống như Thomas
Jefferson đang giải thích dân chủ trên truyền hình cho người dân Mỹ vào
năm 1790. Họ đã tạo ra một xã hội mới, giải thích nó cho người dân, và
vào lúc xong tất cả họ đứng dậy khỏi bàn, đã là rõ ràng rằng một thời
điểm vĩ đại trong lịch sử Ba Lan đã đạt được, một thời điểm có ý nghĩa
lịch sử trọng đại…
… Đối với Hoa Kỳ, và tôi nghĩ
rằng đối với toàn thế giới, những gì xảy ra tại Bàn Tròn và tất cả
những người đã tham gia trong đó đã tạo ra một tình huống mang lợi cho
tất cả nhân loại. Hàng triệu người có thể còn sống đến ngày nay những
người đã có thể chết hoặc đau khổ nếu giả như con đường khác đã được
chọn để kết thúc chủ nghĩa cộng sản. Những gì đã đạt được ở đó, mặc dù
có những người bây giờ sẽ chỉ trích nó khi nhìn lại, vào lúc đó đã là
không thể tưởng tượng nổi. Thực ra, sau khi Bàn Tròn đã thành công, tôi
đã trở lại đây để nói chuyện với các nhà phân tích ở Washington, và một
nửa trong số họ đã không tin rằng nó đã xảy ra.….
Yếu
tố chính mà tôi cố gắng sử dụng để gây ảnh hưởng đến phe đối lập là để
thuyết phục họ trong giai đoạn dẫn đến các cuộc đàm phán Bàn Tròn rằng
đó là vì lợi ích của họ để nói chuyện với chính phủ, bởi vì tôi cảm thấy
rằng họ có thể nhận được những nhượng bộ lớn, rằng họ sẽ nhận được đủ
nhượng bộ chính trị, bởi vì nỗ lực cuối cùng của Thủ tướng Rakowski để
tiến hành cải cách kinh tế vào năm 1988 đã thất bại vì các cuộc đình
công, rằng chính phủ hiện nay ở một vị thế rất yếu, và rằng Đoàn kết ở
một vị thế rất mạnh, và rằng họ nhất định thắng bất kỳ cuộc đàm phán
nào, vì vậy ... chúng tôi đã cố thuyết phục họ.….
…Tôi
đã không có chỉ thị từ Washington về cái phải làm. Như thường vậy, tôi
đã chỉ làm những gì tôi nghĩ là tốt nhất cho lợi ích của dân tộc Ba Lan.
Giám mục Alojzy Orszulik
Giám mục Giáo phận Łowicz từ 1982,
Alojzy Orszulik (sinh năm 1928) đã đồng tổ chức và tham gia vào các
cuộc Đàm phán Bàn Tròn như một nhà quan sát cho Giáo hội Công giáo. Ông
nhận được bằng thạc sỹ về giáo luật từ Đại học Công giáo Lublin năm 1961
và là một giảng viên trong lĩnh vực này cho đến 1989. Giám mục Orszulik
giữ nhiều chức vụ trong Hội đồng Giám mục Ba Lan kể cả Giám đốc Cục
Thông tin (1968-93) và Phó Tổng thư ký (1989-94). Ông phục vụ như thành
viên và Thư ký của Ủy ban Hỗn hợp của Chính phủ và Hội đồng Giám mục Ba
Lan từ 1980 và là nhà tư vấn cho Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã
hội từ 1974.
…Ngay từ đầu, thưa quý bà quý
ông, Ban thư ký của Hội đồng Giám mục, như một số bạn có thể biết, dù
văn phòng của nó vẫn ở trong tòa nhà nhỏ ngay cạnh nhà thờ, hoặc dù đã
chuyển rồi về địa điểm mới tại Quảng trường Đức Hồng y Wyszyński, Ban
thư ký Hội đồng Giám mục luôn tạo thành một loại ốc đảo an toàn nào đó,
một loại bảo đảm an toàn nào đó… Ngay từ những buổi đầu của quân luật,
chúng tôi đã yêu cầu tiếp cận Ông Lech (Wałęsa) và những nơi giam giữ
khác. Rất nhiều linh mục đi đến những nơi đó, và tôi không nghĩ rằng họ
đã từng phạm tội, và tôi cũng không, khi họ đã tuồn ra ngoài một số
thông điệp được viết. Và những tình huống đôi khi thật khôi hài, bởi vì
các tù nhân bỏ những thông điệp được mã hóa đó vào túi áo của các linh
mục, và quần áo của các linh mục được may theo cách mà người ta có thể
thò vào cả túi và cũng vào cả quần. Vì vậy, đôi khi các ghi chú đã được
bỏ không thực sự vào túi mà vào chỗ mở khác, và thông báo rơi xuống ống
quần. Các linh mục đã dũng cảm, tuy nhiên, và đã đưa các thông báo đó ra
ngoài và đã chuyển chúng cho các gia đình. Rồi, các gia đình, đến lượt,
yêu cầu giúp đỡ về nhiều thứ khác nhau, đã đòi can thiệp. Và chúng tôi
đã có nhiều can thiệp thuộc loại đó…
Ban Thư ký
của Hội đồng Giám mục, nơi tôi từng làm việc, hỗ trợ các nhà lãnh đạo
Đoàn kết, bởi vì một mình Giáo hội đã hành động cho cùng các giá trị
trong nhiều thập kỷ trước. Và ở đây tôi chỉ muốn nhắc đến rằng ngay từ
ngày đầu của Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, trước hết Đức Hồng Y Hlond và sau
đó Đức Hồng y Wyszyński đã phản đối việc Soviet hóa Ba Lan, việc xây
dựng một hệ thống toàn trị. Thực tế, tại thời điểm đó, ngài đã phải trả
giá cho nó bằng ba năm tù; tại thời điểm đó, Giáo hội de facto
(về thực tế) đã là đối lập chính trị, mặc dù đã chưa bao giờ là ý định
của Giáo hội, mà đã được bày tỏ nhiều lần trong các tuyên bố công khai.
Nhưng chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ba Lan đã đẩy Giáo hội vào vai của đối
lập chính trị…
Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Ba
Lan luôn luôn đã mong Giáo hội trở thành một đối tác, mà họ có thể dễ
dàng đối xử như công cụ, một loại đối tác mà sẽ có khả năng để làm dịu
phe đối lập đi và để làm bớt những căng thẳng trong xã hội. Phải, chúng
tôi đã không chỉ nói chuyện với họ; trong khi đã có nguyên tắc được thừa
nhận rồi bởi Đức Hồng y Wyszyński rằng chúng tôi sẽ luôn luôn nói
chuyện bất cứ khi nào chính quyền muốn nói chuyện, nhưng chúng tôi cũng
đã tiến hành hội đàm với các lãnh đạo của phe đối lập. Chúng tôi sẽ luôn
luôn khuyến khích cuộc thương lượng với xã hội, thông qua các đại biểu
được bầu.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
* Theo chỉ số lạm phát, lạm phát tăng thì lương tăng theo. Một chính sách rất ấu trĩ.
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_7.html
=======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 6)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:58
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 6)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
PANEL BA: ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY VÀ CUỘC ĐUA CHÍNH TRỊ
Giám mục Bronisław Dembowski
Giám
mục giáo xứ Włocławek từ 1992 và Giáo sư Triết học tại Đại học Công
giáo Lublin 1981, Bronisław Dembowski (sinh năm 1927) đã tham gia vào
các cuộc Đàm phán Bàn Tròn như một nhà quan sát cho Giáo hội Công giáo.
Ông đã nghiên cứu triết học tại Đại học Warsaw và Đại học Công giáo
Lublin, nơi ông nhận bằng tiến sĩ năm 1961, và tại Chủng viện Thần học
Warsaw, nơi ông dạy từ 1970 đến 1992. Là thành viên của Hội đồng Công
giáo Quốc tế cho Canh tân Đặc sủng (International Catholic Council for
Charismatic Revival) và Ủy ban Giáo dục, Truyền giáo, và Thầy tu Công
giáo của Hội đồng Giám mục Ba Lan, Giám mục Dembowski đã công bố rộng
rãi về tôn giáo và triết học.
…
Điều duy nhất tôi có thể làm là cung cấp cho bạn những ý tưởng của
riêng tôi và chia sẻ kinh nghiệm của riêng tôi. Và tôi sẽ lặp lại ở đây
một lần nữa rằng tôi chưa bao giờ, tôi không, và tôi hy vọng tôi sẽ
không bao giờ là một nhà hoạt động chính trị. Trước hết, tôi đã là một
giáo sư triết học và một mục sư, và bây giờ chỉ sau này, là giám mục, và
với tư cách như vậy, tôi đã xác định nhiệm vụ của tôi: để đáp ứng một
cách Kitô giáo cho các câu hỏi của cuộc sống….
Một
lần trong một trong những bài giảng đạo của tôi, tôi đã nói, “Chúng ta
đang bị buộc tội chống lại chính phủ của nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan.
Không, tôi không đối lập với chính phủ, nhưng chính phủ đối lập với xã
hội, bằng cách sử dụng vũ lực để đưa chủ nghĩa vô thần vào”.
Zbigniew Janas
Zbigniew
Janas (sinh năm 1953) được đào tạo như một kỹ thuật viên giao thông tại
Trường Kỹ thuật Công nghiệp Đường sắt ở Warsaw. Trong các năm 1970, ông
làm việc cho Đường sắt Quốc gia Ba Lan và nhà máy máy kéo Ursus gần
Warsaw. Hoạt động tích cực trong Ủy ban Bảo vệ Công nhân (KOR) từ 1978
đến 1980, Janas đã cùng tổ chức một cuộc đình công tại nhà máy máy kéo
Ursus trong năm 1980 và đứng đầu Đoàn kết của nhà máy trong 1980-81 và
1989. Là nhà hoạt động Đoàn kết ngầm giữa 1981 và 1984, ông đã bị thất
nghiệp vì các lý do chính trị từ 1984 đến 1986. Từ 1985 đến 1989, Janas
đã giúp tổ chức các cuộc gặp mặt bất hợp pháp tại biên giới Ba Lan-Tiệp
khắc giữa các thành viên Đoàn kết và các nhà hoạt động quyền công dân
Czech và Slovak. Là Dân biểu trong Hạ viện (Sejm) từ 1989, ông đại diện
cho Câu lạc bộ Nghị Viện Công dân, Liên minh Dân chủ, và Liên minh Tự
do.
Như nghiên cứu đã ghi nhận, một người Ba
Lan trung bình vào cuối các năm 80 đã chủ yếu tập trung vào việc tổ
chức cuộc sống riêng của mình và vào các vấn đề vật chất, các vấn đề
chính trị-xã hội, chẳng hạn như, những nghi ngờ liên quan đến việc quản
lý yếu kém của đất nước hay cuộc khủng hoảng kinh tế, đối với đa số
người Ba Lan, đã chỉ là một vấn đề bên lề, sót lại ở phía sau của cuộc
sống hàng ngày. Bởi vì tại thời điểm đó, khi được hỏi câu hỏi “Cái gì là
thiết yếu ngay bây giờ cho gia đình của bạn, những vấn đề bạn muốn quan
tâm trên hết và mục tiêu chính của bạn là gì?”, thì những người được
khảo sát có thể chỉ ra những thứ như một căn hộ, hơn năm mươi mốt phần
trăm, gia đình và cuộc sống riêng tư, tình hình tài chính, với gần ba
mươi phần trăm số người được hỏi. Và chỉ ở vị trí thứ tư, nơi tình hình
trong nước được nhắc đến bởi chỉ mười ba phần trăm số người được hỏi….
…trong
cuộc đấu tranh chính trị của những năm 80, tôi có thể nói rằng, theo
hiểu biết của tôi, các đòi hỏi chính trị ở mức độ đáng kể đã là kết quả
của những nỗi thất vọng kinh tế, hàng ngày. Sự tuyên truyền về thành
công do các nhà chức trách chính trị vẽ ra đã từng bước góp phần vào
những khát vọng vật chất và kỳ vọng cao hơn và cao hơn trong xã hội Ba
Lan. Đồng thời, cuộc khủng hoảng đang lún sâu đã khiến cho khả năng của
chính phủ để đáp ứng những mong đợi đó dần dần giảm bớt. Và như thế, sự
thiếu cân bằng giữa các nhu cầu vật chất và sự mong đợi của xã hội và
các điều kiện cuộc sống mà hệ thống có thể cung cấp đã hóa ra là một
trong những nguyên nhân chính của các cuộc phản đối trong những năm 80.
Và cái đã đẩy người dân đến cuộc đấu tranh đã không hẳn là các vấn đề
vật chất khách quan mà chính là khoảng cách giữa những kỳ vọng, được
đánh thức bởi sự tuyên truyền, và sự sẵn có thực tế của hàng hoá.
Gabriel Janowski
Nông
dân, nhà hoạt động Đoàn kết chịu trách nhiệm về thống nhất phong trào
nghiệp đoàn độc lập ở vùng nông thôn, và là người tham gia Bàn Tròn cho
phe đối lập, Gabriel Janowski (sinh năm 1947) có bằng tiến sỹ nông
nghiệp từ Trường Nông nghiệp ở Warsaw, nơi ông làm việc từ 1974 đến
1988. Sau việc ông bị giam giữ từ 1981 đến 1982, Janowski đã đóng vai
trò lãnh đạo trong đoàn mục sư giáo dân của Giáo hội Công giáo giữa các
nông dân. Ông là thành viên của Ủy ban Công dân, phó Chủ tịch (1989-90)
và Chủ tịch (1990-92) của Hội đồng Quốc gia của Đoàn kết của các Nông
dân Riêng lẻ, và Thượng nghị sỹ cho Câu lạc bộ Nghị viện Công dân
(1989-91). Từ 1991 đến 1993, Janowski đại diện cho Liên minh Nông dân
với tư cách Dân biểu tại Hạ Viện và là Bộ trưởng Nông nghiệp. Trong năm
1992 ông trở thành lãnh đạo của Đảng Nông dân – Liên minh Nông dân Ba
Lan. Hiện ông là Dân biểu trong Hạ Viện gắn với Hành động Bầu cử Đoàn
kết.
Trong năm 1981, trong tháng mười một,
nông dân… đã tổ chức một cuộc biểu tình phản đối lớn tại Siedlice, và
một trong những đòi hỏi đã là để cho phép họ mua ủng cao su, nhiều hơn
hai cặp, và mỡ heo. Hầu như không ai biết về điều đó, nhưng khi thực
phẩm được phân phối theo khẩu phần, thực ra nông dân đã không được cấp
tem phiếu. Những điều đó là thực tế, phải, chúng ta không thể thực sự
hiểu được những điều đó ngày hôm nay, nhóm đó, giai cấp đó, đã bị phân
biệt đối xử như thế nào trong suốt thời gian đó…
Trong
các khu vực nông thôn Ba Lan trên thực tế… đã có sự ủng hộ đơn phương
cho chế độ mới. Và những kỳ vọng lớn quả thực đã gắn với nó. Tôi có thể
hỏi các bạn, các quý bà và quý ông, trực tiếp, cái gì đã buộc phía chính
phủ tham gia những cuộc đàm phán Bàn Tròn đó. Hệt như đã xảy ra trong
cuộc khủng hoảng trước… Tất nhiên, tôi không muốn đơn giản hóa quá mức,
nhưng tôi muốn cho thấy đây là một vấn đề thực sự. Đó là vấn đề cung cấp
lương thực cho những người Ba Lan, vì mỗi cuộc khủng hoảng Ba Lan đã,
thực ra, đi cùng với các kệ hàng trống rỗng…
…
trong thời gian các cuộc đàm phán Bàn Tròn, đối với chúng tôi, phải, tại
nơi bây giờ là Phủ Chủ tịch, đã có các nông dân biểu tình ở phía trước
cung điện, nông dân biểu tình, đòi lương tử tế. Mười năm sau, vào tháng
Hai năm nay, như các bạn biết, Ba Lan đã bị rung chuyển bởi các cuộc
biểu tình của nông dân, phải, trên quy mô chưa từng thấy trong bảy mươi
năm qua. Có cái gì đó mang tính biểu tượng về điều này, vì khi đó tại
đó, tại Bàn Tròn, chúng tôi đã cố gắng, phải, không thành công, như đã
hóa ra là, nhưng chúng tôi đã cố gắng để giải quyết các vấn đề kinh tế,
đặc biệt là các vấn đề của nông dân. Và bây giờ, mười năm sau, vẫn cùng
vấn đề đó với quy mô lớn hơn nhiều đang quay trở lại, và nó vẫn chưa
được giải quyết. Và đó là một thách thức lớn ở trước chúng ta, tất cả
những người Ba Lan những người để ý nghiêm túc đến các nghĩa vụ của họ
đối với dân tộc Ba Lan. Điều này có nghĩa rằng chúng ta sẽ phải giải
quyết vấn đề của nông dân Ba Lan và chúng ta sẽ phải giải quyết nó vì
lợi ích của người nông dân, nhưng cũng vì lợi ích của toàn xã hội Ba
Lan…
…Giữa các phần của phe đối lập, đã có một
nỗi sợ tiếp quản. Giữa các loại thôn quê như bản thân tôi… chúng tôi đã
quen với việc làm riêng của mình, với tinh thần kinh doanh bình thường
và vân vân. Chúng tôi đã chẳng bao giờ bị mất hoàn toàn loại trách nhiệm
này, mà ... không để hạ thấp giai cấp công nhân, nhưng họ đã hoạt động
theo cách khác. Họ được cho là phải chấp hành mệnh lệnh, các bạn biết
đấy. Họ nghĩ ít hơn, tôi xin lỗi, các bạn biết, tôi không có ý hạ thấp
bất cứ ai. Để tồn tại như các nông dân cá thể, chúng tôi đã phải suy
nghĩ, tìm hiểu một số mẹo, để nói một cách không khách sáo. Do đó chúng
tôi không sợ vận hành các thứ…
Như một người đàn
ông, phải, hãy gọi là người đàn ông Đoàn kết một trăm phần trăm, tôi
đang trải nghiệm cá nhân, và rất sâu sắc, vấn đề to lớn của sự trệch
khỏi Đoàn kết của cộng đồng tôi đang đại diện, và đó là cộng đồng nông
thôn…
… Thật là cái gì đó không thể tin được
rằng phong trào hòa bình mạnh mẽ nhất trong phần đó của châu Âu, phong
trào đã làm thay đổi bộ mặt của thế giới hiện đại, đã không có khả năng
để tìm thấy vị trí của nó trong thế giới hiện đại này! Nhưng tôi tin, và
tôi là một người lạc quan, rằng chúng ta sẽ tìm thấy nó và chúng ta sẽ
bước vào thế kỷ XXI với một lực lượng mới, lực lượng mà sẽ xuất phát,
trước hết, từ Đoàn kết và từ các giáo huấn xã hội của Nhà thờ. Và đây là
hai nhiệm vụ chủ yếu mà chúng ta phải thực hiện.
Janina Jankowska
Nhà
báo phát thanh truyền hình Janina Jankowska đã dẫn đầu đoàn đại biểu
Đoàn kết tại bàn nhỏ về radio và TV công cộng trong các cuộc Đàm phán
Bàn Tròn. Sau khi tốt nghiệp Đại học Warsaw ngành văn học Ba Lan,
Jankowska đã làm việc cho đến 1982 tại Ủy Ban Radio và TV. Tháng Tám
1980, Jankowska theo dõi các sự kiện tại xưởng đóng tàu Gdańsk, trở
thành một thành viên của Ban Biên tập cho các Chương trình Phát sóng
Đoàn kết. Bị bắt giam dưới thời quân luật vào đầu năm 1982, cô đã đi làm
các chương trình phát thanh thời sự cho việc phát hành bí mật trên các
băng cassette ghi âm, mà đã đưa cô vào tù năm 1984. Jankowska đã chịu
trách nhiệm về các chiến dịch radio và TV của phe đối lập trong các cuộc
bầu cử năm 1989. Cô đã làm việc như một nhà báo phát thanh truyền hình ở
Ba Lan từ 1990 và đã là chủ tịch Hội đồng Chương trình của Radio Ba Lan
từ 1993.
…Bất kỳ cuộc phỏng vấn nào đã được
ghi trong các cuộc đàm phán Bàn Tròn, các cuộc phỏng vấn được ghi lại
bởi các nhà báo chế độ, như chúng tôi gọi họ khi đó, đều đã có sự tham
dự của nhà báo của chúng tôi, người ghi lại tất cả mọi thứ và sau đó
chúng tôi sẽ kiểm tra những phần của cuộc phỏng vấn đã bị cắt, vì vậy,
với hơi thở xầm xì này trên cổ của họ, họ phải tạo ra các bản tin tử tế,
thực, được thực hiện tốt. Ngoài ra, chúng tôi cũng đã muốn khán giả
biết khi nào Zakrzewski, nhà báo chế độ, nói chuyện với một thành viên
của OPZZ (công đoàn của chính phủ) hoặc một người từ Đoàn kết. Và ở đây
tôi phải nói một cách khiếm nhã rằng đây đã là ý tưởng của tôi. Chúng
tôi đã có ba bìa cứng đựng giấy tờ với logo của Đoàn kết, để cho tất cả
mọi người từ phía chúng tôi những người được phỏng vấn trên TV đều cầm
tập bìa đó như thế này. Và đã trở nên rõ ràng, vì nếu không thì sẽ không
ai có thể xác định người đó là thành viên của Đoàn kết hay phe đối lập
và không phải là một người từ OPZZ. Đó là về thời điểm này đã giống thế
nào…
Tại các cuộc đàm phán Bàn Tròn chúng tôi
thậm chí đã không mơ rằng cái đã xảy ra lại đã có thể xảy ra, rằng rất
sớm chúng tôi sẽ có báo chí tự do. Một trong những đồng nghiệp của tôi,
người tham gia tại “bàn nhỏ” báo chí đã nói, và tôi sẽ không trích chính
xác ở đây, rằng ông hy vọng có lẽ trong hai năm các xuất bản phẩm ngầm
sẽ trở nên hợp pháp. Chúng tôi đã chỉ đơn giản hy vọng vào sự chấm dứt
đàn áp chống lại các ấn phẩm ngầm. Và, tất nhiên, cách ứng xử xã hội Ba
Lan trong cuộc bầu cử, ý tôi muốn nói là kết quả bầu cử, đã khiến tất cả
chúng tôi ngạc nhiên. Và chúng tôi, các nhà báo, tôi nghĩ hàm ơn tất cả
điều này đặc biệt nhiều bởi vì cái đã xảy ra chính xác đã là cái chúng
tôi chiến đấu cho. Nhờ đó chúng tôi có phương tiện truyền thông đại
chúng hoàn toàn tự do bây giờ và chúng tôi có thể viết theo lương tâm
của mình. Tuy nhiên, hoàn cảnh hoàn toàn mới và cũng khá hạn chế đã nảy
sinh, nhưng những hiện tượng đó là gần gũi với thế giới mà trong đó
chúng ta đang ở đây ngay bây giờ. Đó là sự thương mại hóa nào đó, một sự
phụ thuộc nào đó vào các trung tâm, có lẽ không còn mang tính chính trị
..., nhưng có lẽ một mức độ nào đó mang tính chính trị, mà chủ yếu vào
tiền…
…một người bạn nam của tôi từ phe đối lập
đã nói với tôi trong một cuộc trò chuyện về một điểm rằng chúng ta nên
dựng một đài tưởng niệm dành riêng cho những người phụ nữ thời quân
luật, bởi vì toàn bộ mạng lưới âm mưu đó, tất cả điều này đã đặt trên
vai của người phụ nữ…
…Đoàn kết mà chúng tôi đã
trực tiếp tham gia và cảm thấy rất xúc động về đã là một sáng tạo của
một thời đại nhất định, trong một thời gian nhất định, và có lẽ nó không
thể dễ dàng được chuyển cho ngày hôm nay, như thực tế đã chứng minh…
…
Thời kỳ Bàn Tròn đã rất thú vị, rất quan trọng, cũng bởi vì nó đã cho
phép chúng tôi nhìn vào các đối thủ, vào các đối tác, và bắt đầu hiểu
họ. Và đây là khi các liên kết được tạo ra, và chúng đã rất cần thiết để
hiểu những người đó khác đi và để cố hiểu động lực của họ, cách họ suy
nghĩ. Và mặt khác, những cuộc đàm phán Bàn Tròn đó đã đánh dấu sự khởi
đầu của một quá trình đã mang lại một sự kết thúc giai đoạn này của dân
chủ trực tiếp khi người dân vẫn còn có tác động trực tiếp đến các nhà
chức trách công đoàn và các nhà chức trách đối lập. Và một giai đoạn mới
đã bắt đầu mà, tôi sợ, hôm nay đã dẫn đến chứng điếc nào đó đối với
những phản kháng xã hội.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_8.html
======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 7)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
PANEL BỐN: TRÁCH NHIỆM CHÍNH TRỊ VÀ ĐẠO ĐỨC
Aleksander Hall
Cựu giáo viên và người sáng lập của Phong trào Ba Lan Trẻ (1979),
Aleksander Hall (sinh năm 1953) đã tham gia vào các cuộc Đàm phán Bàn
Tròn như một đại diện của phe đối lập. Năm 1977, ông tốt nghiệp ngành sử
từ Đại học Gdańsk và trở thành một điều phối viên của Phong trào Bảo vệ
các Quyền Con người và Dân sự. Là thành viên của Ủy Ban Điều phối Khu
vực cho Đoàn Kết từ 1980 đến 1981, ông đã lẩn trốn trong ba năm tiếp
theo. Ông đã lại tiếp tục dính líu đến phong trào Đoàn kết trong năm
1988 và trở thành một thành viên của Ủy ban Công dân. Hall đã là Bộ
trưởng chính phủ chịu trách nhiệm về hợp tác với các tổ chức chính trị
và các hiệp hội từ 1989 đến 1990. Đồng sáng lập của Liên minh Dân chủ,
ông là đồng-Chủ tịch từ 1991 đến 1992 và là một trong những Dân biểu của
nó trong Sejm từ 1991 đến 1993. Hall là lãnh đạo của Đảng Bảo thủ từ
1992 đến 1997, khi ông đồng sáng lập ra Đảng Bảo thủ Nông dân. Hiện thời
ông là Dân biểu tại Sejm liên kết với Hành động Bầu cử Đoàn kết.
Đoàn
kết chắc chắn đã là một phong trào dân tộc, nhiều tiếng nói, chống cộng
sản lớn mà cũng đã là một phong trào lao động ủng hộ xã hội dân sự.
Theo thời gian, những sự khác biệt đã nổi lên, đôi khi khá quan trọng,
giữa các bộ phận khác nhau của phong trào, nhưng không nghi ngờ gì nó đã
là một phong trào dân tộc lớn có giá trị tinh thần riêng, phong trào đã
biến đổi Ba Lan. Phương thức hoạt động của nó là thực sự từ chối bạo
lực, và trong việc bác bỏ bạo lực này, những cân nhắc cả tư tưởng lẫn
thực dụng đã đóng một vai trò….
Đã là có thể để
tham gia đối thoại với phía bên kia? Tôi nghĩ rằng chắc chắn đã có các
cộng đồng chính trị ở Ba Lan mà tin rằng không thể, vì những lý do ý
thức hệ, đơn giản bởi vì người ta chỉ không nói chuyện với chính quyền
cộng sản. Hãy trung thực, tuy vậy, đó đã là các cộng đồng bên lề. Các
nhóm khác đã cho rằng đã không phải là thời điểm thích hợp, hoặc cho
rằng bên được đại diện bởi Đoàn kết và Walesa đã không hoàn toàn đại
diện cho xã hội và phe đối lập lúc đó. Nhưng tôi nghĩ rằng một đa số rõ
rệt của những người tích cực và tham gia vào phe đối lập, các nhóm và
các cá nhân, đã tin rằng đáng để chọn lựa những cuộc đàm phán đó, không
phải vì họ đã tin vào những ý định tốt của phía bên kia, mà vì những lý
do khác…
… cũng rõ ràng rằng hệ thống đã lùi
lại, không phải vì các nhà lãnh đạo của đảng cộng sản đã là những người
tự do hay cải cách, mà nó đã rút lui bởi vì những điểm yếu riêng của nó,
bởi vì các hình thức phản kháng xã hội khác nhau, và cả, tôi có thể
nói, dưới ảnh hưởng của thực tế…
Vì Giáo Hội và
Đoàn kết ngầm đã thực sự đòi, khăng khăng đòi nối lại đối thoại, cho nên
khi phía bên kia cuối cùng, dưới ảnh hưởng của nhiều yếu tố, đã thành
thực, hoặc ít nhất đã có khả năng tỏ ra thành thực, để tiến hành đối
thoại này, thì cần phải tận dụng cơ hội này. Tận dụng, tất nhiên, đã có
nghĩa là không có bất kỳ ảo tưởng nào, hay nói cách khác, cố gắng duy
trì sự độc lập của chúng ta, bản sắc riêng của chúng ta, và không bao
giờ hợp pháp hóa thực trạng mà sẽ báo hiệu rằng [Cộng hòa] Nhân dân Ba
Lan được cải cách đã là thành quả của cái chúng tôi đã đấu tranh cho. Ký
kết một thỏa thuận mà hợp pháp hóa sự hủy bỏ triển vọng dân chủ và độc
lập cho Ba Lan đã là không thể được. Nhưng trên con đường này hướng tới
dân chủ và độc lập, đã có thể thỏa hiệp một phần mà có thể đưa chúng ta
đến gần mục tiêu đó. Và đó đã có vẻ là một sự thỏa hiệp tốt…
…
chúng ta phải nhìn vào Bàn Tròn, một mặt, bằng cách loại bỏ loại truyền
thuyết đen mô tả Bàn Tròn như một sự phản bội. Bởi vì đó sẽ là một sự
phản bội rất lạ, đẩy Ba Lan mạnh mẽ về phía trước. Nhưng chúng tôi cũng
phải bác bỏ truyền thuyết khác vẽ ra huyền thoại rằng cả hai bên, Đoàn
kết và chính phủ, được trình bày cứ như đã lo lắng như nhau, đã quan tâm
như nhau đến sự cần thiết phải biến đổi Ba Lan. Và theo huyền thoại đó
cả hai bên được trao công trạng ngang nhau vì đã mang lại dân chủ ở Ba
Lan. Tôi đã không có nghi ngờ gì rằng đó đã là ý định của Đoàn kết,
nhưng đã không là ý định của chính quyền cộng sản của [Cộng hòa] Nhân
dân Ba Lan…
… Tôi đã có một cảm giác rất rõ rệt
rằng đã là rất quan trọng đối với xã hội để nhấn mạnh hết sức rõ ràng
rằng hai tầm nhìn trái ngược của Ba Lan gặp nhau, rằng họ cũng đại diện
cho các quan điểm đạo đức khác nhau, và rằng phái đoàn của chúng tôi
tiếp cận bàn này để đạt được một mục tiêu nhất định, một mục tiêu sẽ đưa
Ba Lan gần hơn tới độc lập và dân chủ, và rằng, đối với kẻ thù, bởi vì
đã hoàn toàn không có nghi ngờ gì rằng đây đã là những kẻ thù của chúng
tôi, mà chúng tôi cần chứng tỏ cho họ, phải, thái độ nào đó, tôi có thể
nói, một thái độ tôn trọng con người. Tuy nhiên, đồng thời, chúng ta
không thể tạo ra ấn tượng rằng những khác biệt cơ bản này đã được làm mờ
đi và thiết quân luật, với các nạn nhân của nó, và toàn bộ bảng cân đối
của nước Cộng hòa Nhân dân Ba Lan đã bị lãng quên…
Tất
nhiên, Bàn Tròn đã không đại diện cho toàn bộ phe đối lập, phe đối lập
thực tế ý tôi muốn nói, vì cũng đã có những nhóm mà nói chung đã phản
đối bất kỳ chiều nào hướng tới đàm phán. Vì sao điều đó đã xảy ra? Đã
không phải… bởi vì quyết định của chính phủ, mà đã là quyết định của ông
Lech Walesa và các cố vấn của ông ta, bởi vì họ đã là những người lập
ra nhóm tham gia các cuộc đàm phán Bàn Tròn. Và tôi nghĩ đã là không tốt
rằng các giới quan trọng và những người quan trọng đã không tham gia
vào các cuộc đàm phán.
Adam Michnik
…
Trong thời gian các cuộc đàm phán Bàn Tròn và, thực sự, tại một trong
các tiểu ban, nơi các vấn đề gây tranh cãi nhất đã được thảo luận, một
cuộc đối thoại rất quan trọng đã diễn ra giữa đại diện của chính phủ và
đại diện của Giáo Hội. Cụ thể, đại diện của chính phủ, ông Stanislaw
Ciosek, trong một nỗ lực để giải thích cho chúng tôi việc quan trọng đến
thế nào, đã nói: “Phải, tôi có một con chó và tên của nó là Pikus.
Pikus bị bệnh, và con Pikus của tôi cần thuốc men, và con Pikus này là
Ba Lan, và tôi biết rằng thuốc này cho Pikus là dân chủ, nhưng nếu chúng
ta tiêm quá nhiều thuốc này vào con Pikus của tôi, thì thay vì trở nên
khỏe hơn, nó sẽ ngoẻo.” Vì thế sau đó đại diện Giáo Hội, Cha Orszulik,
đã nói: “Phải, ông Tổng thư ký, nhưng con Pikus của ông bị co giật ngay
khi vừa nhìn ống tiêm”. Cho nên trong giai thoại nhỏ đó, chúng ta có thể
nhìn thấy cả sự nóng và bản chất của các cuộc thảo luận nhưng chúng ta
cũng có thể thấy một cái gì đó mà, ngược với người tiền nhiệm của tôi và
bạn tôi Aleksander Hall, tôi sẽ gọi ... có lẽ không phải là tinh thần,
mà là một bầu không khí nhất định của Bàn Tròn đã làm cho hai thế giới,
nói hai ngôn ngữ khác nhau, có thể giao tiếp…
Những
người cộng sản, và những người chấp nhận chính quyền cộng sản vì lợi
ích riêng của họ, là một phần của dân tộc Ba Lan, mà không thể bị loại
bỏ khỏi Ba Lan, trừ phi người ta muốn tiêu diệt cộng đồng dân tộc Ba
Lan. Và đây là cái tôi đã học được ở Bàn Tròn..
…
Tôi có cảm giác rằng ở Bàn Tròn, chúng tôi, với tư cách một quốc gia và
một xã hội, đã tìm được cách để rời khỏi chủ nghĩa cộng sản theo hai
cách. Thứ nhất, toàn bộ mô hình của một chế độ độc tài độc đảng, được hỗ
trợ bởi sự kiểm duyệt, bạo lực cảnh sát, sự lệ thuộc vào Moscow, và ý
thức hệ, đã bị đập tan và bị quăng vào bãi rác lịch sử. Nhưng cách thứ
hai trên hết, chúng tôi cũng đã bác bỏ chủ nghĩa Bolshevik bằng việc
chấp nhận sự thực rằng xã hội chúng ta là đa nguyên, với nhiều lợi ích
khác nhau, ý tưởng khác nhau, sức mạnh khác nhau, và hệ thống giá trị
khác nhau. Và chỉ trong những lĩnh vực đó nơi chúng ta có khả năng đạt
được thỏa thuận là chúng ta có năng lực bảo vệ lợi ích của nhà nước của
chúng ta…
…Đây đã là một cuộc xung đột cơ bản,
và trong cuộc xung đột này, cả hai bên đã có các lý lẽ tốt và tôi không
phủ nhận các điểm đạo đức đối với các đối thủ của tôi, bởi vì trong xác
tín của họ, họ đã đang bảo vệ điều quan trọng nhất đối với Ba Lan. Tất
cả cái tôi kỳ vọng là sự có đi có lại. Tôi muốn phải được thừa nhận rằng
việc bảo vệ lập trường của Đoàn kết hết sức mạnh mẽ, theo niềm tin của
tôi, đã là sự bảo vệ điều quan trọng nhất đối với Ba Lan.
Janusz Reykowski
Giáo sư Tâm lý học tại Đại học Warsaw từ 1972,
Janusz Reykowski (sinh năm 1929) đã tham gia vào các cuộc đàm phán Bàn
Tròn như một nhà đàm phán cho chính phủ. Ông là đảng viên của Đảng Công
nhân Thống Nhất Ba Lan từ 1949 đến 1990 và là ủy viên Trung ương, ủy
viên Bộ Chính trị từ 1988 đến 1990. Reykowski nhận các học vị thạc sỹ
(1954) và tiến sỹ (1959) từ Đại học Warsaw. Từ 1980, ông đã lãnh đạo các
tổ chức tâm lý khác nhau, kể cả Viện Tâm lý học của Viện Hàn lâm Khoa
học Ba Lan. Reykowski đã là Tổng biên tập của tạp chí Studia
Psychologiczne từ 1972 và là hội viên của nhiều hội tâm lý học Ba Lan và
quốc tế. Ông là tác giả của rất nhiều xuất bản phẩm về stress tâm lý và
nhân cách.
Tôi phải nói rằng khi Giáo sư
Michael Kennedy tiếp cận tôi, yêu cầu tôi tham gia vào panel này, liên
quan đến vấn đề đạo đức, tôi cảm thấy áy náy. Tôi cảm thấy áy náy bởi vì
tôi nghĩ rằng điều đó sẽ dẫn đến một cuộc tranh cãi về đạo đức với
những người, bảo vệ các giá trị và niềm tin của mình, phải chịu một sự
hy sinh rất lớn, hy sinh cá nhân. Và thái độ đạo đức của họ, sự hy sinh
của họ, làm cho họ trông giống như thánh. Và bạn khó có thể tranh luận
với một vị thánh. Vì vậy, tôi do dự, có nhận tham gia cuộc thảo luận này
hay không. Nhưng, cuối cùng, tôi nghĩ rằng sự tôn trọng của tôi với
thái độ đạo đức của những người đó và cuộc đấu tranh của họ cho Ba Lan
dân chủ, mà họ có thể coi một cách đúng đắn là đã chiến thắng, không
được ngăn cản tôi tham gia mà thực sự buộc tôi phải trình bày các lập
luận đạo đức được chia sẻ bởi những người đã nhìn nhận tình huống từ góc
độ khác…
Một mặt, có một tập hợp các giá trị mà
Đoàn kết đấu tranh cho, các giá trị như xã hội dân sự, chủ quyền quốc
gia, bảo đảm các quyền dân sự. Mặt khác, tuy vậy, có các giá trị do
chính phủ đại diện. Phải, trên hết, đã là bảo vệ chủ quyền tối thiểu,
hạn chế mà họ đã có khả năng giữ và mở rộng. Đối với phương Tây và cả
nhiều thành viên của cộng đồng Ba Lan ở nước ngoài những người đã nhìn
từ xa vào phe xã hội chủ nghĩa, mọi thứ nhìn đều như nhau, nhưng với
nhiều người Ba Lan sống ở Ba Lan, sự khác biệt giữa tình hình của chúng
tôi và tình hình ở Liên Xô, Đông Đức, Tiệp Khắc, hoặc Romania, đã là rất
lớn. Bảo vệ, che chở điều này, chúng tôi tin, đã là một giá trị rất
quan trọng cho xã hội. Một vấn đề khác mà chúng tôi cũng đã coi là một
giá trị đã là nỗi sợ hãi của chúng tôi ... hoặc việc bảo vệ trật tự cơ
bản trong nước, mà không có nó thì không loại nào của đời sống xã hội là
có thể. Nhiều người trong chúng tôi đã nghĩ rằng tại thời điểm đó, dưới
những điều kiện đó, khi phe đối lập đã chưa sẵn sàng để nắm quyền lực,
đã không có khả năng nào cho Đoàn kết để tiếp quản một cách an toàn,
rằng có một mối nguy hiểm tiềm tàng về sự mất ổn định rất lớn. Tại thời
điểm ấy, đó chủ yếu đã là tư duy lý thuyết, nhưng kinh nghiệm nhiều nước
đã trải qua sau năm 1989 cho thấy nó có nghĩa là gì khi có sự sụp đổ
của một hệ thống nơi không có các thể chế khác tồn tại…
Một
khía cạnh của phong trào Đoàn kết đã là huy động xã hội xung quanh ý
tưởng chuyển đổi hòa bình tới dân chủ. Một khía cạnh khác là sự bùng nổ
của chủ nghĩa dân túy hung hăng, các đòi hỏi leo thang, và chủ nghĩa dân
tộc và sự bất khoan dung Ba Lan truyền thống. Cả hai yếu tố đã có thể
thấy rõ bên trong phong trào Đoàn kết. Tất cả điều đó đã khiến chúng tôi
nghĩ rằng tình hình đạo đức đã là không rõ ràng như được trình bày bởi
các nhà hoạt động ở cả hai bên…
Chúng tôi… đã
tin chắc rằng logic tự nhiên của xung đột gây ra sự cắt đứt bất kỳ mối
quan hệ nào giữa hai bên tranh đấu, gây ra một xu hướng ngày càng tăng
để phỉ báng kẻ thù, và không ngớt dẫn đến đối đầu vũ lực. Đây là logic
bi thảm kích động các bên tham gia trong cuộc xung đột Balkan và tất cả
các bên khác dính líu đến các cuộc xung đột đẫm máu. Và chúng tôi đã
muốn chống lại loại logic đó, vì vậy chúng tôi đã muốn, bằng mọi giá, để
cố tránh dẫn hai phe tách biệt đó đến vực thẳm. Loại tư duy đó thường
bị chỉ trích là cố tham gia vào thỏa thuận với ma quỷ. Lời buộc tội này
được đưa ra không chỉ đối với những người đã cộng tác với chế độ theo
cách này hay cách khác, hoặc những người, như bản thân tôi, đã đồng ý để
đại diện cho họ, mà cũng đối với những người Đoàn kết tham gia các cuộc
đàm phán Bàn Tròn. Những người sau, trong khi bảo vệ mình, nói rằng đã
đáng thương lượng với ma quỷ nếu nó cuối cùng truyền bá cái thiện và sự
biến đổi hòa bình mà đã dẫn đến tự do và dân chủ….
…
tôi không nghĩ rằng những người đã chịu trách nhiệm về Ba Lan tại thời
điểm đó lại đáng bị gọi là ma quỷ. Trước hết, họ cũng đã hoạt động nhân
danh các giá trị nhất định mà quan trọng đối với người Ba Lan, mặc dù ta
phải thừa nhận rằng những giá trị đó là khiếm khuyết và hạn chế. Tôi đã
đề cập đến vài trong các giá trị đó. Phải, tôi có thể thêm nhiều loại
đạo đức hơn nhưng tôi không có đủ thời gian để đi vào chi tiết. Họ không
đáng để bị gọi thế bởi vì họ đã thực hiện một số nỗ lực để hạn chế hoặc
xóa bỏ những cái xấu nhất định mà chế độ đã tạo ra. Những nỗ lực này bị
giới hạn bởi tầm nhìn hạn chế của những người chịu trách nhiệm tại thời
điểm đó, nhưng chúng là một yếu tố thường trực của việc cai trị đất
nước. Cuối cùng, họ không đáng bị gọi thế bởi vì họ đã tự nguyện tiến
hành các hành động hướng tới chuyển đổi cơ bản của hệ thống khi họ đã
nhận ra đầy đủ rằng nó không thể đứng vững về mặt kinh tế và không thích
hợp về mặt chính trị cho các nhu cầu và nguyện vọng của xã hội Ba Lan…
Một
mặt, đã có một cuộc xung đột, thảo luận, đấu tranh, tranh luận thực. Đã
có những khoảnh khắc nguy hiểm và kịch tính. Nhưng trên tất cả, đã có
một niềm tin rằng chúng ta chia sẻ một mục tiêu chung. Và mục tiêu chung
đó đã khởi động những cải cách như vậy mà sẽ cho phép Ba Lan chuyển qua
một cách an toàn và hòa bình sang một con đường hoạt động khác…
…
Vào ngày đảng cộng sản Ba Lan giải thể, một thanh niên đã đến gần tôi,
đưa tay ra, và với một cái nhăn mặt giận dữ trên khuôn mặt anh, đã nói,
“Phải, cảm ơn ông rất nhiều vì đã phá hủy đảng…”.
…
tôi luôn luôn có cảm giác rằng, phải, tôi phải nói thế nào rằng… mối
quan tâm chính của tôi là nhà nước, là đất nước chứ không phải bất kỳ tổ
chức chính trị cụ thể nào. Các tổ chức chính trị đến rồi đi, trong khi
những mối quan tâm về nhà nước và xã hội Ba Lan là trên hết. Và từ viễn
cảnh đó… tôi đã chưa bao giờ có bất kỳ nghi ngờ nào về điều đó...
…Với
nỗi buồn tôi nhìn vào những người, trong khi họ đã đóng góp rất nhiều
cho các cuộc đàm phán, những người thấy mình bị tấn công một cách bất
công, tôi nghĩ, và rằng tôi đã không làm được bất cứ điều gì có lẽ ngay
cả một phần để bảo vệ những người đó khỏi các cuộc tấn công đó. Người ta
có thể nói, phải, đây là công lý của lịch sử: khi còn nắm quyền, họ đã
gây tổn thương kẻ thù của họ hơn các kẻ thù đang làm tổn thương họ bây
giờ. Nhưng tôi nghĩ rằng lý do mà chúng tôi đã cố gắng thay đổi thế giới
này, thế giới chính trị này, đã là để ngăn nó khỏi trở thành một chuỗi
các tác hại tăng cường lẫn nhau, ngay cả khi một số là nhỏ hơn số khác.
Giám mục Bronisław Dembowski
Về lâu dài, một sự lựa chọn đạo đức đúng luôn luôn tỏ ra là đúng về chiến thuật.
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_9.html
======================================================================
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 8)
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 21:10
Thương lượng sự Thay đổi Cơ bản: Hiểu và Mở rộng các Bài học của các cuộc Đàm phán Bàn Tròn Ba Lan (Kỳ 8)
(Negotiating Radical Change: Understanding and Extending the Lessons of the Polish Round Table Talks)
Dịch giả: Nguyễn Quang A
PANEL NĂM: NĂNG LỰC ĐÀM PHÁN
Giám mục Alojzy Orszulik
…
Tôi đã mong đợi cái Đoàn kết mong đợi, cái ban lãnh đạo Đoàn Kết mong
đợi. Và tại giai đoạn ban đầu này, các nhà lãnh đạo mong đợi chính
phủ..., như tôi đã từng nói, “nói lắp” ba từ: “Đoàn kết,” “tái hợp pháp
hóa,” và “nghiệp đoàn đa nguyên…”
Trong
cuộc trò chuyện của chúng tôi, ý tôi muốn nói giữa chính phủ và Hội
đồng Giám mục, chúng tôi đã cố khuyến khích, chúng tôi đã cố thuyết phục
phía bên kia để bắt đầu tìm kiếm các con đường để thiết lập liên lạc.
Chúng tôi cũng đã cố gắng giúp bên chính phủ thoát khỏi nỗi sợ hãi về
Đoàn Kết và những gì có lẽ có thể xảy ra….
… tại
Bàn Tròn chúng tôi đã không quan tâm đến bản thân Giáo hội. Mối quan
tâm của chúng tôi đã tập trung vào dân tộc, đất nước, những thay đổi
trong nước, sự cải thiện tình hình ở Ba Lan, cuộc sống của người dân. Đó
đã là mối quan tâm của chúng tôi chứ không phải phân chia mọi người
thành những người chúng tôi thích và những người chúng tôi không thích.
Janusz Reykowski
…
Bên trong giới tinh hoa chính trị và các giới chính phủ đã có một sự
bất mãn sâu sắc với hệ thống, sự thất vọng với giá trị tư tưởng và các
khả năng thực tiễn của nó….
… trong các năm 70
và các năm 80, có rất nhiều người trong chính phủ đã được đào tạo tại
các trường đại học tốt nhất Ba Lan, đã đi nước ngoài và so sánh tình
hình đó đây trên thế giới. Và những người này đã sẵn sàng cho sự thay
đổi. Về phía chính phủ, họ đã là cơ sở chính trị, hay đúng hơn là cơ sở
xã hội cho sự thay đổi. Sự tồn tại của loại này của những người quan tâm
đến sự thay đổi đã là một nhân tố rất quan trọng….
Trong
tiến trình đàm phán, điều quan trọng là phải theo các nguyên tắc nhất
định. Tôi muốn nhắc đến một vài trong số đó mà đã là những nguyên tắc
quan trọng. Một trong số đó là nguyên tắc bình đẳng. Nó đã được tuân thủ
rất nghiêm ngặt theo nhiều khía cạnh, bắt đầu với ý tưởng rằng số người
ở cả hai đoàn đại biểu phải như nhau, bình đẳng… Một điều kiện khác như
vậy mà cũng đã rất quan trọng là nguyên tắc không thảo luận về các vấn
đề mang tính biểu tượng. Chúng tôi đã giải quyết tương lai, và tránh
tranh cãi về quá khứ. Chúng tôi đã tin, và tôi nghĩ hầu hết chúng ta
đồng ý ở đây, rằng nếu chúng ta bắt đầu lao vào các cuộc thảo luận về
những cái sai trong quá khứ, chúng ta sẽ không đạt được bất cứ thứ gì.
Chúng ta đã phải chấp nhận sự thực rằng chúng ta nhìn vào các thứ khác
nhau từ quá khứ theo những cách khác nhau, và rằng chúng ta đã có tầm
nhìn khác nhau về các vấn đề mang tính biểu tượng khác nhau…
Nếu
Đoàn kết bị cáo buộc gây đổ vỡ các cuộc đàm phán, nó sẽ nghĩ rằng đó là
một cái bẫy ngay từ đầu, tất cả các cuộc đàm phán đó đã có nghĩa là để
làm hại Đoàn Kết… Lúc đầu, tôi đã nghĩ đến bản thân mình, không còn cách
nào khác, nhưng ngày mai, điều đầu tiên vào buổi sáng, tôi chuyển đơn
từ chức chính thức và kết thúc thế thôi. Và rồi tôi đã có một số suy
nghĩ chớp nhoáng về ngày tận thế, về những gì sẽ xảy ra tiếp theo với sự
mong đợi của xã hội. Tôi tưởng tượng ra cảm xúc của những người Đoàn
Kết và họ đi thẳng xuống đường phố thế nào... đó là những gì tôi đã
nghĩ….
Và vào một thời điểm, Ireneusz Sekula...
nói điều này: “Tôi sẽ kể với các bạn một giai thoại.” Tôi nghĩ rằng ông
ta điên, một giai thoại trong tình huống này! Nhưng ông tiếp tục: “Một
ngày, Goethe đi dọc theo một con đường hẹp ở vùng núi và ông đã gặp kẻ
thù dữ tợn nhất của mình, và kẻ thù của ông nói: ‘Tao chẳng bao giờ
nhường bên phải đường cho những kẻ ngu.’ Và Goethe đáp lại, ‘Còn tôi thì
luôn luôn nhường.’ Và ông ta quay ngược lại và bỏ đi…”
Các
cuộc đàm phán đã thỏa mãn các nhu cầu của một xã hội muốn thay đổi
nhưng không muốn đối đầu. Nó đã đáp ứng các nhu cầu của phe đối lập đang
gây áp lực đòi những thay đổi hòa bình trong nước, nhưng đã bắt đầu
hiểu ra rằng: nếu tình hình tiếp tục, họ sẽ không trở thành một đấu thủ
trên đấu trường này vì các lực lượng mới đang nổi lên, cấp tiến hơn và
có một định hướng khác. Nó cũng đã đáp ứng các nhu cầu của các nhà chức
trách ngày càng nhận thức được rằng: không thể tiếp tục điều hành đất
nước theo cách này, không thể thực hiện bất kỳ cải cách nào, và lựa chọn
thay thế cho các cuộc đàm phán là một chính sách đàn áp leo thang….
Đã
có rất nhiều hoàn cảnh lịch sử đã bị bỏ phí, nhưng một trong số đó đã
không bị bỏ phí. Đó là… tôi tin rằng huyền thoại về Bàn Tròn đáng để ủng
hộ, bởi vì đây là một huyền thoại của những người Ba Lan, những người
đã có khả năng tận dụng cơ hội. Và tôi nghĩ rằng cho dù chúng ta không
biết điều gì sẽ xảy ra trong mười năm, nhưng huyền thoại đó, truyền
thuyết đó, có thể hỗ trợ chúng ta trong những thời điểm khó khăn.
Grażyna Staniszewska
Một
nhà hoạt động Đoàn Kết ở Bielsko-Biała trong các năm 1980, Grażyna
Staniszewska (sinh năm 1949) đã tham gia các cuộc Đàm phán Bàn Tròn cho
phe đối lập. Cô đã nhận học vị thạc sỹ về văn học Ba Lan từ Đại học
Jagiellonian trong năm 1972. Suốt thập niên tiếp theo, cô đã làm việc
trong một trường trung học địa phương, trung tâm văn hóa, và thư viện
trung tâm nghiên cứu ở Bielsko-Biała. Staniszewska đã tham gia Đoàn Kết
trong năm 1980; cô đã bị giam giữ từ 1981 đến 1982 và bị bỏ tù trong năm
1983. Từ 1983 đến 1988, cô đã biên tập báo khu vực Solidarność Podbeskidzia
và đã là thành viên của Ủy ban Helsinki ở Ba Lan. Năm 1988, cô đã được
chọn như đại diện khu vực của Ủy ban Điều hành Quốc gia của Đoàn Kết. Từ
1988 đến 1990, cô đã là thành viên của Ủy ban Công dân. Một Dân biểu
trong Hạ viện từ 1989, Staniszewska đã đại diện Câu lạc bộ Nghị viện
Công dân (1989-91), Liên minh Dân chủ (1991-94), và Liên minh Tự do
(1994 - hiện nay).
Suốt từ đầu đến cuối, đối
với tôi, dường như chúng tôi đã dính líu vào một ván bài cuối không
phải là của chúng tôi. Và ngay từ đầu tôi đã sợ suốt thời gian, rằng,
phải, bạn biết, tuyệt vời, chúng tôi đã trò chuyện, chúng tôi đã thăm
các salon, chúng tôi đã thấy mọi người cư xử thế nào trong salon, chúng
tôi đã ăn thức ăn lạ lùng nào đó, nhưng rốt cuộc chúng tôi bắt đầu đóng
vai trong trò chơi của người khác….
Tôi nghĩ rằng nếu bất cứ ai đã nghĩ rằng hệ thống được tháo dỡ, thì Bàn Tròn đã chẳng hề xảy ra….
Chỉ
sau cuộc họp thực sự đầu tiên của Bàn Tròn, đột nhiên, các ủy ban Đoàn
Kết địa phương nổi lên như nấm sau mưa. Mọi người đã bắt đầu họp, làm
việc trên mọi thứ. Khi các cuộc đàm phán chùn bước, khi tin tức không
tốt, mọi người ngừng đến các cuộc họp, công việc bị đóng băng. Đó là
bằng chứng rõ ràng cho tôi rằng nếu chúng tôi không tiếp tục các cuộc
đàm phán, các hoạt động đó sẽ ngừng tồn tại ngay, và người dân sẽ bỏ
hoàn toàn hoạt động này….
Đã chẳng bao giờ tôi
nảy ra ý nghĩ rằng nó sẽ là sự kết thúc của chủ nghĩa cộng sản. Tôi đã
nghĩ rằng sẽ có loại khác nào đó của thời kỳ tan băng*
mà có thể kéo dài một hai năm, có thể ba, có thể lâu hơn một chút, và
sau đó tình hình sẽ trở lại như cũ, như cũ. Thế nhưng đã có vẻ như đáng
để sống và thấy hơi thở này của tự do; đã có vẻ đáng để lập ra loại mạng
lưới nào đó cho việc này….
Tôi đã nghĩ rằng đã
có các gangster thực đang ngồi ở phía bên kia bàn, rằng họ chắc chắn đã
muốn bẫy chúng tôi, nhưng chúng tôi đã phải thăng bằng trên sợi dây này
và chơi trò chơi này, như chúng tôi đã làm việc với cảnh sát mật, khi
chúng tôi đã biết rằng cuộc trò chuyện của chúng tôi bị nghe lén và
chúng tôi đã bị theo dõi trong khi chúng tôi đã có một số ấn phẩm bất
hợp pháp trên mình…
Chúng tôi đã biết rằng chúng
tôi phải nỗ lực tối đa và chỉ cố để khôn hơn họ. Nhận thức của tôi về
bên kia có thay đổi không trong thời gian các cuộc đàm phán? Không...,
không nhiều! Không có trong thời gian đàm phán…
Tất
cả chúng tôi có cảm giác rằng chúng tôi đã thực sự biến đổi Ba Lan.
Phải, có lẽ đây là một từ to tát, nhưng... bầu không khí yêu nước này,
bầu không khí quên mình này, nó đã thống trị Hạ viện khoá thứ mười, thật
không may đã qua. Tôi lấy làm tiếc nhưng nó đã qua…
Dịch giả Nguyễn Quang A gửi trực tiếp cho BVN
*
Thời kỳ tan băng – thaw period – bắt đầu từ tháng 10-1956 với việc
Gomulka, một người cộng sản không được những người Soviet ưa, lên nắm
quyền và đã có sự tự do hóa nào đó, người dân Ba Lan đã dễ thở hơn
trước.
nguồn;http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/thuong-luong-su-thay-oi-co-ban-hieu-va_10.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001