TÌNH " CÀ "
Anh cà tửng nên quen em cà chớn
Anh cà phê, cà pháo, em cà chua
Tình cà giựt, cà rem phơi nắng trưa
Em cà khịa đòi anh mua cà rá.
Anh cà nhong không đi làm gì cả
Thân cà tàng chỉ có khúc cà nông.
Em cà rỡn le lưỡi giống cà rồng
Nên tình mãi cà bông hạch cà đụi
Anh cà rề chờ đón em mỗi tối
Cùng sánh vai cà thọt tới cà ri
Em cà sàng lại chỉ muốn ăn mì
Nên cà khùng chửi em giống cà na
Chộp cà mên em dộng anh dập cà
Tình cà đong cà đưa xa từ đó.
Em thù anh đi lên đèo Cà Ná
Anh buồn tình xuống tận xứ Cà Mau
Cà nhỏng hoài chưa tìm được tình sau
Thân cà tong cà teo sầu cà chớn.
(Tác Giả?)
Cà gì không hột ai ơi?
Cà gì một hột ngậm chơi nuốt đừng?
Cà gì hai hột nên ngừng?
Cà gì muốn nói nhưng đừng làm thinh?
Cà gì bốc khói linh tinh?
Cà gì lẽo đẽo một mình đàng sau?
Cà gì hơi thở không sâu?
Cà gì cháy túi tiền đâu không còn?
Cà gì không thấy có con?
Cà gì nhìn đám đàn con thấy thèm?
Cà gì một hột ngậm chơi nuốt đừng?
Cà gì hai hột nên ngừng?
Cà gì muốn nói nhưng đừng làm thinh?
Cà gì bốc khói linh tinh?
Cà gì lẽo đẽo một mình đàng sau?
Cà gì hơi thở không sâu?
Cà gì cháy túi tiền đâu không còn?
Cà gì không thấy có con?
Cà gì nhìn đám đàn con thấy thèm?
Blog BảoMai
(Trileo mail)
Người Ấn Độ thích ăn cơm cà RI.
Người uống thuốc bắc hay ăn cánh chỉ, cà NA để làm hết vị đắng trong miệng.
Ăn bánh cuốn, nhiều người thích nước mắm có thêm giọt cà CUỐNG.
Trẻ con (ngay cả người lớn) rất thích cà REM mà còn gọi là cà LEM
Các loại cà ăn được, kể về màu sắc thì có cà TÍM và cà TRẮNG,
Buổi sáng, nhiều người về hưu có thói quen uống trà hay cà PHÊ, nói chuyện cà KÊ dê ngỗng.
Nếu nói lải nhải cả ngày, như cho gia vị thêm vào, là nói cà RIỀNG, cà tỏi,
Cần cẩn thận với lá cây Mạn-đà-la, có tính trị suyễn, nhưng dùng nhiều thì có thể hôn mê và
Đồ đựng cơm hay thức ăn có âm hưởng tiếng Pháp gamelle, gọi là cà MÊN (MÈN).
Một số người Thượng du có tục cà RĂNG căng tai.
Làm lề mề, chậm chạp thì bị chê là cà RỀ, hay cà RỊCH cà TANG,chậm rì hơn nữa là cà RỊ cà MỌ.
Nói năng cẩu thả thì bị mắng là đồ cà CHỚN.
Nói lắp bắp là cà LĂM.
Kiếm chuyện gây gổ là cà KHỊA.
Cư xử như người “mát dây” là cà TỬNG.
Khi vui quá, thì nhảy cà TƯNG.
Không tìm việc làm, chỉ cà NHỎNG cả ngày.
Cứ la cà, lẩn quẩn một nơi làm người khác bực mình là cà RÀ.
Đùa giỡn thái quá là cà RỠN.
Nói năng, hành động vụt chạc là cà GIỰT.
Chiếc xe hơi cũ là cà TÀNG.
Người không nghề nghiệp, không gia cư: cà LƠ thất thểu.
Làm ăn không khá là cà XỊCH, cà ĐỤI.
Người lùn thấp muốn cao hơn người thì dùng cà KHÊU (KHEO).
Bị trặc chân sẽ đi cà NHẮC.
Có tật chân thì đi cà THỌT.
Trong lễ tiệc cưới, nhiều ông thắt cà VẠT, ngón tay nhiều bà đeo cà RÁ hột xoàn lớn 2, 3 cà RA.
Ông sư hay mặc áo cà SA.
Súng lớn gọi là cà NÔNG (cũng là tên máy chụp hình của Nhật).
Nhiều sĩ quan VNCH bị gạt 10 ngày học tập, bị lùa vô trại cải tạo Cà TUM ở tỉnh Tây Ninh.
Sau khi “tốt nghiệp” ra khỏi trại, nhiều người ốm cà TONG cà TEO.
Dracula là ma cà RỒNG.
Người không nhà cửa, không nghề nghiệp, sống lang thang, kiếm sống bằng nghề bất chính là
Phan Thiết có địa danh Cà NÁ.
Gần vùng Năm Căn, U Minh có cù lao Mút Cà THA thường được nhà văn Nguyễn Ngọc Tư nhắc đến.
Ở tỉnh Long Xuyên, địa danh Chắc Cà ĐAO nổi danh từ khi tướng Ba Cụt Lê Quang Vinh bị bắt vào năm 1956.
Nước Việt Nam đang bị mất ải Nam Quan, nhưng may mắn là còn mũi Cà MAU.
Người Miên dùng cà rèm, cà tăng là phên che trong nhà,
Để chấm dứt, mời các bạn cùng tôi ăn củ cà RỐT cho sáng mắt vì có carotene, khi vào cơ thể
Ghi chú: có độc giả cho biết còn thiếu cà niễng, cà cộ, cà tơn, cà mèng, cà rờ, cà chớp, cà tắt .…
(TC mail)
Thiếu mất loại "cà dái dê" ???
Trả lờiXóa