Chết dưới thanh kiếm laser của dòng họ Lưu:
Mẹ ơi, có tàu vũ trụ Sát tinh (*) đang chiếu xuống Chicago
Peter Navarro và Greg Autry
Nhóm Lê Minh Thịnh dịch
Chúng tôi cam kết chỉ dùng không gian với mục đích hòa bình và sẵn sàng mở rộng hợp tác với các nước khác. – Chủ tịch Hồ Cẩm Đào
Nếu những ai muốn biết những gì mà Nhật Bản đã dự định làm trong những năm 1930, thì chỉ cần đọc các kế hoạch và các tài liệu huấn luyện của họ. Các kế hoạch này sau đó đã được thực hiện trên toàn khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Nhiều người ở Hoa Kỳ [lúc đó] đã coi những tuyên bố về mối đe dọa ngày càng tăng của quân đội Nhật Bản là vô lý bởi vì Nhật Bản đã cam kết phát triển hòa bình. Trung Quốc cũng tuyên bố phát triển hòa bình như vậy, cùng với sự phát triển mạnh mẽ lực lượng vũ trang và vũ khí của mình. Bây giờ chỉ cần xem xét kỹ các chính sách và học thuyết của Quân đội Giải phóng Nhân dân… đối với các khả năng và sức mạnh vũ khí không gian cũng như kế hoạch của họ để đối lại với ưu thế vũ trụ của chúng ta. – Christopher Stone, Space Review
Cũng giống như những phiêu lưu trên mặt đất, Trung Quốc tuyên bố họ chỉ muốn phát triển hòa bình trong vũ trụ. Tuy nhiên, một trong những câu hỏi lớn nhất mà Lầu Năm Góc đang phải đối mặt là liệu sự vươn lên mạnh mẽ của Trung Quốc trong lãnh vực không gian rốt cục có thể trở thành vũ khí để khuất phục Hoa Kỳ không. Đây là câu hỏi cực kỳ quan trọng trong kỷ nguyên khi mà một quốc gia đã từng đưa người lên đi bộ trên mặt trăng giờ đây lại đang có một chương trình không gian bị trì hoãn và ở trong tình trạng hỗn độn nhất.
Điều chắc chắn là chương trình khám phá vũ trụ của Trung Quốc rất mạnh và rất táo bạo. Trong nhiều thập niên tới, Trung Quốc dự kiến sẽ đưa phi hành đoàn lên cả Mặt Trăng và sao Hỏa, và chỉ trong năm ngoái (2010), Trung Quốc đã phóng 15 chuyến bay đưa người và thiết bị lên quỹ đạo. Lịch trình phóng phi thuyền đầy tham vọng này đã làm cho Trung Quốc trở thành quốc gia đầu tiên sánh ngang hàng với Hoa Kỳ. Trung Quốc rõ ràng là có xu thế sẽ vượt Hoa Kỳ về số lượng phóng phi thuyền với mức độ gần bằng số lần phóng của Hoa Kỳ đúng vào lúc Hoa Kỳ hoàn thành chuyến bay cuối cùng của tàu con thoi và kết thúc chương trình này.
Một cách chính xác hơn, những dụng cụ thiết bị Trung Quốc đang phóng lên không gian gồm những vệ tinh quan sát, các thiết bị bổ sung cho vệ tinh dùng cho hệ thống định vị toàn cầu, cho tới những phi vụ có người, và vệ tinh thứ hai lên quỹ đạo Mặt Trăng. Trung Quốc cũng dự kiến sẽ phóng trạm không gian dùng cho cả các mục tiêu khoa học và quân sự vào năm 2012, và dự kiến sẽ có ba phi vụ trong hai năm tiếp theo để kết nối với trạm không gian đó. Hơn nữa, bằng cách dùng lợi thế sức mạnh sản xuất của mình, Trung Quốc đang chuyển hướng sản xuất phi thuyền từ sản xuất đơn lẻ – thiết kế cá biệt – đến sản xuất dây chuyền. Sự đổi mới này sẽ khiến họ gia tăng mức độ phóng phi thuyền một cách vượt bực.
Trong khi Trung Quốc đang vượt lên thì chương trình vũ trụ NASA của Hoa Kỳ – nơi tập trung những mũi nhọn kỹ thuật quốc gia trọng yếu của chúng ta – đã để mất nguyên cả một thập niên lạc lõng trong không gian. Chương trình phi thuyền con thoi nhiều trắc trở của Hoa Kỳ được dự định kết thúc vào cuối năm 2010, nhưng do sự trì hoãn các chuyến bay và có thêm phi vụ bổ sung nên nó sẽ kết thúc vào năm nay (2011). Sau đó, vẫn chưa có kế hoạch rõ ràng nào cho những phi vụ có người của Hoa Kỳ. Điều này là do chính phủ Obama và Quốc hội Hoa Kỳ vẫn còn đang tranh cãi về cả hai vấn đề: xác định sứ mạng của chương trình không gian và những phương pháp thực hiện.
Sự bế tắc về chính trị này có nghĩa là sẽ không có phi vụ quốc gia có người điều khiển trong vòng ít nhất là 5 năm nữa. Trong tương lai gần, các phi hành gia Hoa Kỳ sẽ phải “đi nhờ” để lên Trạm Không gian Quốc tế cùng với Nga – trong khi đó Trung Quốc đang thúc đẩy mạnh các chương trình phóng trạm không gian và Mặt Trăng.
Với hai chương trình vũ trụ theo hai hướng trái ngược nhau này, chúng ta lại phải đặt câu hỏi: Liệu đây có phải là sự phát triển hòa bình vào không gian của Trung Quốc đang hướng lên hay không, hay sẽ là cuộc đua với mục đích tối hậu là chiếm ưu thế trong khi tất cả chương trình không gian của Hoa Kỳ hầu như bị ngưng trệ?
Ba chàng ngự lâm thám hiểm không gian
Trong 2,900 kilomet khối của [tiểu hành tinh] Eros, có chứa lượng nhôm, vàng, bạc, kẽm, các loại kim loại kiềm và kim loại quý nhiều hơn tổng lượng của tất cả các kim loại này đã từng được khai thác trong lịch sử và thậm chí có thể được khai thác từ lớp vỏ trên cùng của Trái Đất. – BBC News
Quan điểm cho rằng chương trình thám hiểm vũ trụ mạnh mẽ của Trung Quốc chỉ là sự tiếp nối quá trình vươn lên một cách hòa bình viện ra ba động cơ khiến cho Trung Quốc đẩy mạnh chương trình không gian. Trước hết là sự phát triển nhiều và đa dạng các ngành kỹ thuật mới luôn luôn đi đôi với công cuộc khám phá vũ trụ. Thứ hai là để khai thác và vận chuyển trong tương lai các nguồn năng lượng cũng như các loại nguyên liệu then chốt từ không gian tới các công xưởng Trung Quốc. Lý do thứ ba là có thể coi [công cuộc khám phá vũ trụ] như là cái van an toàn, theo thuyết sinh tồn củaDarwin, cho một hành tinh đang bị quá tải về dân số và đang nóng lên nhanh chóng. Mỗi yếu tố này đều hàm chứa những lý do quan trọng cho việc thám hiểm không gian vì mục đích dân sự. Các lý do đó có thể được dùng để vẽ nên bức tranh yên bình về những nỗ lực thám hiểu không gian của Trung Quốc.
Từ Hệ thống Định vị Toàn cầu (GPS) và năng lượng mặt trời tới máy chụp cắt lớp CAT
Từ viễn tượng yên bình này, một trong những lý do quan trọng nhất để cần tham gia vào chương trình thám hiểm không gian chính là vì Hoa Kỳ đã hoàn toàn không còn nhìn thấy rằng chính sự thúc đẩy vượt bực để thám hiểm không gian đã làm tăng trưởng vận tốc canh tân kỹ thuật và phát triển kinh tế ở một quốc gia. Điểm đáng chú ý ở đây là các nhà lãnh đạo chính trị của Hoa Kỳ đã nhanh chóng quên mất vai trò mà thám hiểm không gian đã kích thích nền kinh tế Hoa Kỳ – và cải thiện mức sống của chúng ta – trong vòng 50 năm qua.
Cần biết rằng, nếu không có NASA và chương trình không gian, có lẽ chúng ta đã không có được các thứ như: Internet như ngày nay, mạng GPS, các loại kỹ thuật thu thập năng lượng mặt trời, các ứng dụng y tế từ chụp cắt lớp (CAT scan) và chụp cộng hưởng từ (MRI) cho tới kim sinh thiết vú (needle breast biopsy), những chất dẻo và chất bôi trơn kỳ diệu, và hệ thống theo dõi thời tiết để cảnh báo bão tố và cháy rừng giúp cứu thoát hàng trăm nghìn sinh mạng cùng tránh thiệt hại hàng tỷ đô-la đồng thời góp phần đáng kể nâng cao sản lượng mùa màng. Tất cả những sáng kiến này đã làm lợi cho nền kinh tế chúng ta hàng nghìn tỷ đô-la. Và chúng ta cũng đừng quên những phát minh gọi là tầm thường nhưng không kém phần hữu dụng như “nệm (giường ngủ) có trí nhớ” như loại nệm Tempur-Pedic.
Trong khi Hoa Kỳ đã quên tầm quan trọng của thám hiểm không gian như yếu tố xúc tác cho nền kinh tế thì Trung Quốc lại hoàn toàn hiểu được điều đó. Thực vậy người đứng đầu Chương trình Mặt Trăng của Trung Quốc, Ouyang Ziyuan (Âu Dương Tự Viễn), đã tuyên bố rằng những nỗ lực của Chương trình Apollo lên Mặt Trăng đã kích động quá trình phát triển kỹ thuật ở Hoa Kỳ, và ông ta thường nêu ra sự kiện đó để biện minh cho việc Trung Quốc đi lên Mặt Trăng. Tuy nhiên, Trung Quốc không chỉ nhận được những sáng kiến nhanh chóng hơn từ chương trình không gian của mình.
Nguồn khoáng sản phong phú
Những thứ Trung Quốc cũng muốn tìm kiếm trong vũ trụ là một loạt những thứ có giá trị như những kim loại quý và những nguyên liệu khác từ lớp vỏ của Mặt Trăng hay từ các tiểu hành tinh khác gần Trái Đất. Đây có thể là vàng, platin hay những kim loại cực kỳ hiếm có vai trò trọng yếu trong sản xuất sản phẩm kỹ thuật cao.
Thực vậy, việc khai mỏ thành công trong vũ trụ sẽ giảm bớt nhiều sự khan hiếm ngày càng gia tăng của các nguyên liệu cũng như làm giảm ô nhiễm đi kèm với các quá trình khai thác tài nguyên. Ví dụ, ta hãy xem xét trường hợp tiểu hành tinh Asteroid 433, còn được gọi là Eros. Các nhà khoa học viết trên tạp chí Nature đã dự đoán rằng trong tương lai xa, khối đá khổng lồ này nặng 34 nghìn tấn có khả năng sẽ va vào trái đất và gây ra một thảm họa còn lớn hơn cả thảm họa đã quét sạch loài khủng long 65 triệu năm về trước. Tuy nhiên, tin mừng là Eros lại là kho tàng chứa đầy những khoáng chất đang chờ đợi có trạm không gian có sáng kiến kinh doanh tới khai thác. Hơn nữa, cùng với các yếu tố như trọng lực nhỏ và không có những ràng buộc nào về môi trường, việc khai thác khoáng sản tại Eros bằng năng lượng mặt trời miễn phí sẽ có thể khá đơn giản một khi có phương tiện vận tải. Điều này hoàn toàn không phải là chuyện khoa học giả tưởng vì một thiết bị thăm dò vũ trụ của NASA đã tới Eros vào năm 2000 và đáp xuống vào năm 2001.
Và đây là ý tưởng cấp tiến được đề nghị bởi nhà kinh doanh vũ trụ tư nhân Jim Benson nhằm vừa tránh thảm họa va chạm với Trái Đất, vừa lấy về cho Trái Đất những khoáng sản quý báu của Eros: phóng các hỏa tiễn tới tiểu hành tinh để điều chỉnh quỹ đạo của nó. Bằng cách này, cuối cùng có thể sẽ đưa được Eros tới được một vị trí cố định trong hệ Trái Đất – Mặt Trăng của chúng ta và do vậy loại bỏ được nguy cơ va chạm. Tất nhiên, kịch bản này làm nảy sinh câu hỏi ai sẽ đến đó đầu tiên để cắm lá cờ của mình – và ai sẽ lái các hỏa tiễn – trên các nguồn tài nguyên như của Eros.
Trung Quốc không chỉ tìm kiếm những nguyên liệu thô nhôm, vàng và kẽm trong không gian. Từ quan điểm của Trung Quốc, trong thời gian ngắn hạn, Trung Quốc có thể thu được những kết quả lớn trên Mặt Trăng khi khai thác tiềm năng thực hiện các phản ứng tổng hợp nhiệt hạch. Khác với những nhà máy điện hạt nhân đang có với đầy rẫy các vấn đề trên Trái Đất, năng lượng nhiệt hạch có thể sẽ vừa sạch, vừa an toàn và thực sự là “rẻ đến mức không cần gắn đồng hồ đo điện tiêu dùng”. Vấn đề này liên quan đến Mặt Trăng như sau: Một chất mà các nhà khoa học tin rằng sẽ giúp thực hiện phản ứng nhiệt hạch chính là Helium-3 – một đồng vị (isotope) cực kỳ hiếm (trên Trái Đất) nhưng lại được cho rằng khá phong phú trên Mặt Trăng.
Như người đứng đầu Chương trình Mặt Trăng của Trung Quốc đã mô tả tiềm năng của Helium-3 như sau: “Hàng năm, chỉ cần ba chuyến tàu con thoi cũng sẽ có thể mang về đầy đủ nhiên liệu cho loài người trên toàn trái đất”. Ông Âu Dương cũng có thể đã nói trắng ra là việc phát triển thành công nguồn năng lượng nhiệt hạch từ mặt trăng sẽ khai tử tổ chức độc quyền dầu mỏ OPEC và là một giải pháp mầu nhiệm chống lại sự hâm nóng toàn cầu.
Những người Trung Quốc có viễn kiến như ông Ouyang cũng coi Mặt Trăng như là nơi hứa hẹn một môi trường tự do, hầu như không có ban đêm mà tại đó có thể sản xuất năng lượng mặt trời hữu hiệu gấp tám lần so với ở Trái Đất và sau đó truyền về Trái Đất. ‘Chuyện khoa học giả tưởng à?’ – bạn có thể hỏi vậy. Vâng, đúng là như vậy. Cũng chẳng khác gì truyện đi bộ trên Mặt Trăng và việc dùng thiết bị cầm tay nói chuyện với người khác ở bất kỳ nơi nào trên Trái Đất.
Nhân nói chuyện về đi bộ trên Mặt Trăng, hoàn toàn có thể hiểu được vì sao chương trình vũ trụ của Trung Quốc lại nóng lòng nhằm vào Mặt Trăng với việc phóng thành công hai vệ tinh bay quanh Mặt Trăng và đang có kế hoạch đổ bộ bằng thiết bị robot và người. Tuy nhiên, điều bận tâm đối với các tổ chức không gian tư nhân của Hoa Kỳ, như trường hợp của nhà tỷ phú Robert Bigelow là trong khi Trung Quốc bận rộn chuẩn bị cho việc cắm cờ lên Mặt Trăng thì Hoa Kỳ lại giậm chân tại chỗ. Như Bigelow cảnh báo:
Khi Trung Quốc bắt đầu làm việc này một cách có hệ thống tại những khu vực then chốt trên Mặt Trăng, thì có thể đã là quá muộn để các nước khác cùng nhau tiến hành những cuộc viễn chinh để ngăn cản Trung Quốc chiếm hữu tất cả những nơi có nước, có băng và những khu vực có giá trị khác.
Lối thoát khỏi thuyết Darwin
Ngoài việc làm yếu tố xúc tác cho việc sáng tạo kỹ thuật và là nguồn cung cấp dồi dào năng lượng và các khoáng sản tự nhiên, thám hiểm không gian còn có tiềm năng là chiếc van thoát hiểm quan trọng trong kỷ nguyên nhân mãn và biến đổi khí hậu. Nếu bạn nghĩ rằng đây cũng lại là chuyện khoa học giả tưởng thì hãy nghĩ lại. Như Michael Griffin, người quản trị NASA đã nhận xét:
Mục đích này không chỉ là khảo sát khoa học… nó còn bao gồm việc mở rộng môi trường sống của loài người từ Trái Đất vào trong hệ mặt trời trong tương lai… Trong dài hạn những loài chỉ sống được trên một hành tinh sẽ không thể tồn tại. Chúng ta đã có nhiều bằng chứng về điều này.
Còn đây là một cảm nghĩ được chia sẻ bởi nhà vật lý Stephen Hawking khi ông đánh những dòng này trên máy điện toán của mình: “Cơ hội duy nhất để tồn tại lâu dài của chúng ta là không chỉ nhìn vào Trái Đất mà là phải nhìn rộng ra vào vũ trụ.”
Tất nhiên, công cuộc chinh phục Mặt Trăng, sao Hỏa và những hành tinh khác sẽ phải mất nhiều thập niên nữa. Tuy nhiên, một trong những ưu thế mà Trung Quốc có hơn Hoa Kỳ là khả năng tập trung cho dài hạn và suy tính cho nhiều thế hệ thay vì cho các cá nhân. Do cách nhìn dài hạn này, vào thời điểm hiện tại, Trung Quốc có nhiều khả năng hơn bất cứ nước nào để chinh phục thành công những tài sản có giá trị nhất trong vũ trụ. Câu hỏi mà chúng ta phải quay lại là liệu việc Trung Quốc chiếm đoạt được những đỉnh cao tuyệt đối này có phải chỉ được dùng cho các mục đích hòa bình hay không, hay ngược lại sẽ giúp họ chinh phục các đối thủ. Đây là câu hỏi mà bây giờ chúng ta phải quay lại khi nhìn thấy kho vũ khí phòng thủ của Trung Quốc đang gia tăng nhanh chóng cùng với những kế hoạch phát triển khả năng vũ khí tấn công của họ.
Nhận thức bộc phát về chiến tranh không gian của Trung Quốc – Thế thủ hay nhất là phòng thủ tốt
Vũ trụ sẽ trở thành vũ khí ngay trong thời đại của chúng ta. – Đại tá Yao Yunzhu (Diêu Vân Trúc) , Học viện Khoa học Quân sự, Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
Có lẽ bằng chứng rõ nhất về những ý định quân sự hóa và vũ khí hoá vũ trụ của Trung Quốc có thể được tìm thấy trong vô số những nguồn tài liệu công khai về chiến tranh không gian của rất nhiều sĩ quan và những nhà chiến lược quân sự Trung Quốc. Từ “tấn công plasma tiêu diệt các vệ tinh quỹ đạo thấp” và “tên lửa tiêu diệt mục tiêu bằng động năng” cho tới “các vũ khí chùm tia” và “các tên lửa đạn đạo trên quỹ đạo”. Nội dung chung của các tài liệu này – mà phần lớn đã được phân tích kỹ trong Ủy ban Hoa Kỳ – Trung Quốc – là phá hủy hoặc chinh phục các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ bằng cách khai thác các điểm cao chế ngự từ vũ trụ.
Ví dụ, đây rõ ràng là quan điểm hiếu chiến của Đại tá Li Daguang (Lý Đại Quang) trong cuốn sách của ông ta Vũ khí Không gian. Ngoài việc biện hộ cho chương trình không gian của Trung Quốc kết hợp sử dụng cho cả dân sự và quân sự vì các lý do kinh tế, Lý cho rằng chiến lược quân sự tối ưu là chiến lược phải làm được các việc sau:
Phá hủy hay làm vô hiệu hóa tạm thời mọi vệ tinh của kẻ thù bên trên lãnh thổ của chúng ta, [triển khai] các loại vũ khí chống vệ tinh trên mặt đất và trong không gian, các hệ thống phòng thủ chống lại các tên lửa của Hoa Kỳ, duy trì hình ảnh quốc tế tốt của chúng ta [bằng cách che giấu việc triển khai và cất giữ] các loại vũ khí tấn công không gian được giấu kín và chỉ tung ra vào thời điểm xảy ra khủng hoảng.
Những bài viết như thế này mà được phổ biến trong một xã hội được kiểm duyệt chặt chẽ bởi Đảng Cộng sản thì quả là một điều lạ lùng. Chúng không chỉ công khai mâu thuẫn với luận điểm chính thức của giới lãnh đạo dân sự Trung Quốc mà chúng còn gây hoang mang cho các chuyên gia phân tích của Lầu Năm Góc trong việc hình dung ra chính xác những điều gì đang diễn ra đằng sau tấm màn tre – và Hoa Kỳ cần có phản ứng như thế nào.
Có thể là cả khối lớn tài liệu mô tả các phương thức để khuất phục chú Sam này đơn giản chỉ là âm mưu nhằm kích động Hoa Kỳ lao vào cuộc chạy đua vũ trang không gian tốn kém. Cũng có thể là những nguy cơ tương tự như điều mà đại tá Lý nói là có thực, và nếu không có những biện pháp đáp ứng đầy đủ thì Hoa Kỳ sẽ phải chịu nguy cơ bị một trận tấn công không gian kiểu Trân Châu Cảng nữa, hoặc sẽ là kẻ thua cuộc trước một sự đã rồi.
Dù theo cách nào đi chăng nữa thì cũng có một điều rõ ràng là: Hoa Kỳ hiển nhiên vẫn còn giữ vị trí chiến lược cao trong không gian vào thời điểm hiện tại. Tuy nhiên, nhiều người sẽ hỏi rằng, vậy thì ai sẽ nắm giữ vị trí chiến lược cao này sau nhiều lần “ngày mai” nữa?
Từ vị trí chiến lược cao này, cả nền kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ phụ thuộc nặng nề vào hệ thống phức tạp gồm hơn 400 vệ tinh trên quỹ đạo cung cấp tất cả các loại thông tin, từ do thám và dẫn đường cho tới viễn thông và đo đạc từ xa. Đây thực sự là một mạng lưới hùng hậu giúp cho sức mạnh của Hoa Kỳ trở nên gần như siêu phàm trong con mắt của các đối thủ.
Sử dụng lợi điểm trong không gian và hàng loạt ưu thế về vũ khí kỹ thuật cao, Hoa Kỳ đã có thể tham gia vào hàng loạt các cuộc chiến tranh với tỷ lệ chênh lệch về thương vong rất lớn. Trong khi chỉ có 150 người Mỹ tử thương trong cuộc chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, thì đã có tới khoảng 30.000 – 56.000 lính Iraq bị tiêu diệt. Tỷ lệ chênh lệch về thương vong tương tự như vậy cũng xảy ra trong cuộc tấn công của NATO do Hoa Kỳ điều hợp vào năm 1999 trong cuộc chiến tại Kosovo cũng như trong giai đoạn đầu chiến dịch chiếm lạiIraqvào năm 2003.
Bất kể bạn có quan điểm thế nào về những hành động quân sự này của Hoa Kỳ, sự thống trị không gian “làm thay đổi cuộc chơi” của người Mỹ đã được Trung Quốc để ý. Thực vậy, cuộc chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 đã thường xuyên được Lầu Năm Góc coi như những tiếng chuông báo động cho Bắc Kinh rằng ngay cả một đội quân lớn nhất thế giới, ở đây là Trung Quốc, cũng có thể bị chinh phục bởi một đối thủ có số lượng ít hơn nhiều lần.
Tiêu diệt hay làm lóa mắt, đó là câu hỏi của Trung Quốc
Khi chương trình không gian của Trung Quốc được giao phó cho các tướng lĩnh, nó sẽ phản ánh phần lớn những nhu cầu chiến lược của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Đây là trường hợp đã từng xảy ra ở Liên bang Xô Viết cũ, nơi mà lực lượng quân sự cũng kiểm soát chương trình không gian của Liên Xô. Quan sát sự phát triển của các hệ thống vũ khí chống vệ tinh đa dạng với việc sẵn sàng đưa các ứng dụng quân sự vào trong chương trình không gian có người điều khiển, cùng với những hành động dối trá cho thấy Trung Quốc ngày càng theo đuổi mạnh hơn phương thức của Liên Xô cũ trong việc tìm ưu thế thống trị về quân sự trong vũ trụ. – Richard Fisher, StrategyCenter.net
Theo quan điểm của Trung Quốc, có ít nhất hai biện pháp có thể sử dụng để đối phó với ưu thế không gian của Hoa Kỳ. Cách thứ nhất là phá hủy một phần hay toàn bộ các chùm vệ tinh của chúng ta. Cách thứ hai – cũng đạt được mục đích như vậy mà không cần phá hủy – đơn giản là làm mù mắt những con chim giám sát của chúng ta. Đối với những ai quan tâm lo ngại thì sẽ có nhiều bằng chứng cho họ tìm hiểu về việc Trung Quốc đang phát triển các năng lực trên cả hai phương diện này.
Trong lãnh vực phá hủy các vệ tinh, Trung Quốc đã thực hiện thử nghiệm một số phương pháp làm nổ tung – hay bắt cóc – các vệ tinh của Hoa Kỳ. Thử nghiệm này được bắt đầu với một vụ nổ lớn tung tóe mảnh vụn vào tháng 1 năm 2007, khi quân đội Trung Quốc đã bắn hạ một vệ tinh cũ của chính họ.
Hình như đây là một vệ tinh thời tiết “đã đến hạn về hưu” đã từng bay mỗi ngày vài vòng quanh trái đất trong hơn một thập niên; nhưng đây cũng là một miếng mồi ngon cho loại tên lửa đạn đạo xuyên lục địa cải tiến DF-21 được phóng từ căn cứ ở Xichang (Tây Xương) thuộc tỉnh Tứ Xuyên. Tên lửa này phóng ra một thiết bị tiêu diệt mục tiêu bằng động năng được điều khiển vào quỹ đạo nhằm đụng với mục tiêu vô hại; và khi đụng, tất cả những thứ như đinh ốc, bù loong, các tấm bảng, dây điện… của vệ tinh cùng với hàng ngàn mảnh vụn của tên lửa tiêu diệt sẽ tạo thành một đống rác vũ trụ lớn nhất dải Thiên hà.
Ngày nay, bãi rác thải vũ trụ do vụ phá hủy đó của Trung Quốc vẫn còn là mối hiểm họa lớn cho các chuyến bay; Trung Quốc hiển nhiên là luôn sẵn lòng gây ô nhiễm cho vũ trụ giống như họ đã làm cho các sông ngòi và bầu khí quyển của họ. Hơn 2/3 trong số gần 3.000 vệ tinh và thiết bị bay trong quỹ đạo có nguy cơ va chạm với đám rác vũ trụ của Trung Quốc. Thực vậy, những thiết bị và người có thể là nạn nhân bao gồm cả trạm Vũ trụ Quốc tế cùng phi hành đoàn, họ đã từng phải điều chỉnh quỹ đạo ít nhất một lần để tránh va phải phần dày đặc nhất của đám rác vũ trụ Trung Quốc.
Đây không phải là dấu hiệu duy nhất cho thấy việc Trung Quốc đang phát triển các loại vũ khí chống vệ tinh (gọi tắt là “ASAT”) để bắn hạ hệ thống GPS của Hoa Kỳ. Tháng 1 năm 2010, vũ khí vũ trụ của Trung Quốc đã bắn hạ một mục tiêu ở quỹ đạo thấp với độ cao khoảng 150 dặm bằng một loại hỏa tiễn dùng nhiên liệu rắn đặt trên xe cơ động và một thiết bị tiêu diệt bằng động năng va chạm kiểu mới được gọi là KT2. Cần lưu ý rằng KT2 là kỹ thuật có hai công dụng đe dọa – vừa là phương tiện phòng thủ chống tên lửa đạn đạo lại vừa có thể phá hủy các hệ thống trên quỹ đạo.
Ngoài những vũ khí này dùng để phá tan các vệ tinh Hoa Kỳ trên bầu trời đêm, Trung Quốc còn có loại vũ khí mới mang tên “Kẻ bắt cóc không gian”. Loại vũ khí này được thử nghiệm vào tháng 8 năm 2010 khi hai vệ tinh của Trung Quốc có cuộc gặp nhau bí mật trong vũ trụ. Mục đích của thử nghiệm là để tìm hiểu xem liệu một vệ tinh có thể thực hiện cái được gọi giản dị là “cuộc gặp gỡ robot không hợp tác” với một vệ tinh khác không. Thế giới vẫn còn chờ đợi để nghe từ Trung Quốc xem cuộc gặp gỡ có thành công không – mặc dù các quan sát từ mặt đất cho thấy nó đã thành công. Và nếu kỹ thuật này được ứng dụng thành công, bạn chỉ cần tưởng tượng ra viễn cảnh một phi đội những kẻ bắt cóc này được tung ra để tóm gọn toàn bộ gia đình các vệ tinh của Hoa Kỳ.
Mù vì ánh sáng chói chang – Các vệ tinh của chúng ta cần dụng cụ che mắt trong một tương lai quá nhiều ánh sáng
Họ cho chúng ta thấy laser của họ. Dường như họ đang đe dọa chúng ta. – Gary Payton, Phó trợ lý Bộ trưởng về Không lực Hoa Kỳ phụ trách các Chương trình Không gian.
Tất nhiên, bạn không nhất thiết phải phá hủy hay bắt cóc một vệ tinh của Hoa Kỳ để vô hiệu hóa nó. Có một cách khác vừa lịch sự hơn và vừa bớt khiêu khích hơn là tạm thời “làm chói mắt” hay đơn giản là làm mù vệ tinh. Trên đấu trường này, dường như Trung Quốc đang phát triển những năng lực khủng khiếp của mình.
Thực vậy, cuộc trình diễn mang tính khiêu khích kiểu này của Trung Quốc đã bắt đầu vào mùa thu năm 2006. Như được đưa tin trong tạp chí Jane’s Defence Weekly, trong thời gian này, các vệ tinh gián điệp của Hoa Kỳ đã “bất ngờ bị suy giảm hiệu quả” khi chúng “bay ngang qua Trung Quốc”. Cũng vào thời điểm đó, các kính viễn vọng đặt tại bãi thử Reagan tại quần đảo san hô Kwajelein, vùng Nam Thái Bình Dương, đã phát hiện được ánh phản xạ từ các tia sáng laser để xác nhận nguyên nhân và nguồn gốc từ Trung Quốc.
Ở mức độ rộng hơn, tạp chí The Economist đã viết, “Trung Quốc thường xuyên chiếu tia laser cường độ mạnh lên trời để trình diễn khả năng làm lóa mắt hay làm mù vĩnh viễn các vệ tinh gián điệp”. Tuy nhiên, phản ứng của Hoa Kỳ lại là im lặng – chủ yếu là do phải đối mặt với những giới hạn về ngân sách khi lực lượng quân sự Hoa Kỳ đang vướng vào các cuộc chiến tranh trên các chiến trường khác.
Tất nhiên, đối với những nước láng giềng của Trung Quốc như Nhật Bản và Đài Loan thì khả năng bị mất cơ sở hạ tầng không gian để hỗ trợ cho hải quân Hoa Kỳ tiếp cận không hạn chế vùng Tây Thái Bình Dương sẽ rất đáng quan ngại.
Từ Buck Rogers (**) đến hệ thống hạt nhân quỹ đạo của Bắc Kinh
Trung Quốc tìm cách vượt lên trong cuộc chạy đua không gian tại châu Á hướng tới Mặt Trăng, đưa một phi thuyền vào quỹ đạo Mặt Trăng vào ngày 6/10 với mục tiêu chuẩn bị cho một cuộc hạ cánh xuống Mặt Trăng trong vòng 2-3 năm tới… Chuyến bay được gọi là Chang’e 2 (Thường Nga – theo tên nhân vật nữ trong truyện dân gian Trung Quốc đã đi lên Mặt Trăng cùng với một con thỏ – Việt ngữ là Hằng Nga) đánh dấu sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật vũ trụ Trung Quốc… Chuyến bay lên Mặt Trăng của Trung Quốc, giống như mọi chương trình không gian khác, có tiềm ẩn những ý đồ quân sự. Chương trình không gian của Trung Quốc được kiểm soát bởi quân đội, vẫn liên tục tích lũy ngày càng nhiều kinh nghiệm về viễn thông và đo đạc tầm xa, kỹ thuật tên lửa, và vũ khí chống vệ tinh thông qua các chuyến bay như Thường Nga 2. – The Christian Science Monitor
Trong khi sử dụng vũ trụ làm điểm quan sát các hoạt động quân sự của Hoa Kỳ và vô hiệu hóa các hệ thống vệ tinh của Hoa Kỳ là những mục tiêu phòng thủ quan trọng trong chương trình không gian của Trung Quốc, thì giá trị thực tế có thể lại là sử dụng không gian làm căn cứ cho vũ khí tấn công quân sự. Các phương án bao gồm toàn bộ những thứ có thể, từ việc ném những hòn đá từ mặt trăng với sức mạnh đủ để tiêu hủy cả một trung tâm đô thị trên Trái Đất, các loại bom xung điện từ trường được thiết kế để vô hiệu hóa cơ sở hạ tầng điện tử của chúng ta, và các loại vũ khí năng lượng được định hướng bắn từ không gian, cho tới những quả bom H được đặt trên quỹ đạo và những con phi thuyền có khả năng rải thảm hạt nhân xuống bất kỳ thành phố nào trên Trái Đất.
Thực vậy, nếu Trung Quốc có thể ném một quả bom hạt nhân từ quỹ đạo thì điều đó chắc chắn sẽ hiệu quả hơn nhiều so với việc phóng một đầu đạn giống như vậy từ sa mạc Gôbi. Đó là vì những hỏa tiễn phóng từ mặt đất phát ra những dấu hiệu về nhiệt rõ ràng để có thể phát hiện sớm và do hành trình dài nên có thể theo dõi và đánh chặn được. Mặt khác, một quả bom hạt nhân từ quỹ đạo chỉ cần một động cơ dùng không khí nén không thể phát hiện được để phóng xuống từ không gian yên lặng. Sau đó, nhờ trọng lực nó có thể dễ dàng vượt qua khoảng cách khoảng 200 dặm để rơi xuống tới bề mặt Trái Đất trong khi đường đi của nó hầu như không thể phát hiện được – cho tới khi biết thì đã quá muộn.
Để hỗ trợ cho các năng lực tấn công trong chương trình không gian của mình, Trung Quốc đang xây dựng một cơ sở hạ tầng không gian khổng lồ. Cơ sở này bao gồm: một phi đội với số lượng ngày càng tăng các phi thuyền lớn có nhiệm vụ theo dõi; những giàn phóng vũ trụ và trạm mặt đất mới; hàng chục vệ tinh mới làm nhiệm vụ thông tin, chuyển tiếp tín hiệu, và giám sát; và cuối cùng, nhưng chắc chưa phải là hết, là một hệ thống GPS cực kỳ đắt tiền của riêng họ.
Hệ thống GPS của Trung Quốc có tên gọi là Bắc Đẩu (Beidou), được đặt theo tên gọi của chòm sao Đại Hùng Tinh có đuôi kéo dài để làm dấu cho các thủy thủ biết hướng đi tới phương Bắc. Việc Trung Quốc tung ra hệ thống GPS của riêng mình đối chọi lại với hệ thống của Hoa Kỳ là dấu hiệu rõ ràng cho thấy những ý định quân sự của Trung Quốc. Hiện tại, Hoa Kỳ đang cung cấp việc sử dụng GPS miễn phí cho toàn thế giới và không có lý do gì để bất kỳ một quốc gia nào tiêu một khoản tiền lớn khủng khiếp xây dựng một hệ thống cho riêng mình – trừ phi nước đó có ý định phá hủy hệ thống GPS của Hoa Kỳ hay nói cách khác có hành động quân sự chống lại Hoa Kỳ.
Dường như không phải là chúng ta đã không được báo trước về các mối đe dọa của các vũ khí phóng từ vũ trụ của Trung Quốc. Vào tháng 1 năm 2001, Ủy ban An ninh Không gian được bổ nhiệm bởi các Ủy ban các Binh chủng của Hạ và Thượng viện đã kết luận rằng Hoa Kỳ đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng của một trận “Trân Châu Cảng không gian” và cần phải có hoạch định chiến lược gấp để cân bằng lại với sự phát triển các năng lực tấn công của Trung Quốc (và cả nước Nga). Cùng chung số phận với nhiều lời cảnh báo khác, các đề nghị của báo cáo này đã không được xem xét đến một cách đầy đủ do sự kiện 9/11 khi lực lượng quân sự Hoa Kỳ và các hoạt động tình báo đã phải chuyển hướng tập trung vào những nguy cơ cấp chiến thuật với những kẻ thù võ trang thô sơ.
Tàn cuộc trong ván cờ Đài Loan: Chặn tiếp cận / Chống xâm nhập
“Mục đích của đòn đánh bất ngờ và gieo kinh hoàng từ vũ trụ là nhằm ngăn chặn kẻ thù chứ không phải khiêu khích kẻ thù lao vào các trận chiến. Vì lý do này, những mục tiêu được lựa chọn của một đòn đánh cần phải ít và chính xác… Điều này sẽ làm đảo lộn cơ cấu hệ thống tổ chức vận hành của đối thủ và sẽ tạo ra tác động tâm lý lớn trong số những người quyết định chính sách của đối thủ”. – Đại tá Yuan Zelu (Viên Trạch Lộ), Quân đội Giải phóng Nhân dân
Đại tá Yuan đã hùng hổ vẽ ra viễn cảnh Trung Quốc về một trận Trân Châu Cảng không gian đối với chúng ta. Ông ta và nhiều lãnh đạo diều hâu của Trung Quốc coi những loại vũ khí chống vệ tinh, hệ thống laser làm mù GPS và các hệ thống bom hạt nhân trong quỹ đạo, cùng hệ thống tên lửa đạn đạo chống chiến hạm, một đội tàu ngầm lớn, các vũ khí tin học kỹ thuật cao, cũng như các dạng thức khác nhau của chiến tranh kinh tế sẽ là những quân cờ linh hoạt trong ván cờ được sắp đặt để giành nước chiếu bí bất ngờ về chính trị đối với Hoa Kỳ trong khi tránh được sự trả đũa do ưu thế vượt trội về chất lượng của lực lượng quân đội và vũ khí của Hoa Kỳ.
Nói chung, năm loại vũ khí đang phát triển của Trung Quốc – trên mặt đất, trên không, trên biển, trên mạng tin học, và trong không gian – đều hỗ trợ cho chiến lược được các giới trong Lầu Năm Góc gọi là chiến lược chặn tiếp cận/chống xâm nhập, gọi tắt là A2/AD (anti-access/area denial). Mục đích là ngăn chặn hải quân Hoa Kỳ tiếp cận tới các vùng gần bờ biển Trung Quốc để từ đó Trung Quốc có thể bành trướng sức mạnh của mình ra khu vực.
Tất nhiên, nếu bộ máy chiến tranh năm chiều của Trung Quốc có thể đẩy lực lượng hải quân Hoa Kỳ ra ngoài vùng được gọi là “chuỗi đảo thứ hai” – một đường tưởng tượng chạy từ Nhật Bản qua Guam xuống tới Indonesia – thì chính phủ dân sự của Trung Quốc có thể sẽ dễ dàng bảo Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan và Việt Nam phải làm như thế nào và các nguồn tài nguyên sẽ phải được chia ra sao. Đây là một sự phát triển lạnh gáy, đặc biệt là đối với Đài Loan, vì một khi chiến lược A2/AD của Trung Quốc được phát triển đầy đủ, hòn đảo nhỏ của những người Trung Quốc tự do khi đó sẽ chỉ còn rất ít hy vọng được tồn tại độc lập đối với Trung Quốc lục địa.
Vì sao? Vì chiến lược hiện nay của Hoa Kỳ là chỉ là ngăn ngừa quân đội Trung Quốc chiếm Đài Loan bằng cách sử dụng những hàng không mẫu hạm của chúng ta. Nếu hạm đội Thái Bình Dương của Hoa Kỳ thực tế bị đẩy ra ngoài chuỗi đảo thứ hai, quân đội Trung Quốc sẽ dễ dàng áp đảo sức phòng ngự của Đài Loan bằng hàng ngàn tên lửa và đội quân hùng hậu. Sau đó, Hoa Kỳ thực tế sẽ không thể có kế hoạch nào hay một giải pháp có tính thuyết phục nào để tái chiếm lại hòn đảo từ một đội quân của Trung Quốc đã cố thủ lẫn lộn trong những dân thường. Đây là loại tình huống của người sắp bị treo cổ mà thuyền trưởng James T. Kirk mô tả một cách hài hước với câu nói nổi tiếng: “Chúng ta tìm thấy họ ở chính tại nơi họ bắt được chúng ta!”
Những nhận xét này đưa chúng ta quay lại với câu hỏi: Liệu sự vươn ra vũ trụ của Trung Quốc có thực sự vì mục đích hòa bình không? Xem xét chi tiết hơn những gì Trung Quốc thực sự đưa lên vũ trụ sẽ cho thấy thậm chí còn có nhiều chất đốt hơn nữa cho ngọn lửa của chủ nghĩa quân phiệt.
Hãy khóa cửa trạm Vũ trụ! Người Trung Quốc đang đến
Vào ngày 27 tháng 9, phi thuyền Thần Châu (Shenzhou) của Trung Quốc đã tiến đến khoảng cách 45 km gần trạm Vũ trụ Quốc tế, và hai trong số ba phi hành gia đã thực hiện cuộc đi bộ ra ngoài vũ trụ lần đầu tiên của Trung Quốc (bước ra ngoài phi thuyền trong bộ quần áo bảo vệ). Sau đó, một vệ tinh nhỏ nặng 40 kg (BX-1) đã được phóng từ phi thuyền Thần Châu. Có vẻ đây là một thí nghiệm khoa học, nhưng vấn đề là phi thuyền Thần Châu đã tiến đến quá gần trạm Vũ trụ Quốc tế, và sau đó phóng ra một vệ tinh cơ động nhỏ BX-1 có thể lái được (nhờ những tia khí nén), đã cho thấy đó một vụ tập dượt phá hủy vệ tinh khác. Vệ tinh BX-1 đã có thể dễ dàng được điều khiển đến một trạm không gian gần nó để phá hủy. – James Dunnigan, StrategyPage.com
Mỗi lần Trung Quốc phóng một phi thuyền Thần Châu có người điều khiển của mình, họ cũng đều đặt vào quỹ đạo một môđun (module) hình trụ lớn hoạt động tự động. Các môđun có kích thước khoảng 2,7m x 3m; và do hoàn toàn không có sự minh bạch trong chương trình không gian của Trung Quốc nên thế giới tuyệt đối không biết có những gì trong các môđun đó. Bom hạt nhân? Thiết bị gián điệp? Hay có khi chỉ là loại khoai tây tím vũ trụ hay một thí nghiệm trồng nhân sâm vô hại? Ai biết được?
Còn đây là những gì chúng ta biết, ít nhất là về một trong số những chuyến bay Thần Châu này. Sự kiện này một lần nữa cho chúng ta thấy những chiến thuật thô bạo trắng trợn của một quốc gia có thể dùng xe tăng cán lên cả Gandhi – và cán thêm lần nữa để cho biết tay.
Chuyến bay Thần Châu 7 không chỉ đưa lên vũ trụ ba phi hành gia; nó cũng còn mang theo một “vệ tinh siêu nhỏ” có tên gọi BX-1. Theo kế hoạch được lập cẩn thận nhưng vô cùng nguy hiểm, phi thuyền Thần Châu 7 – Thần Châu có nghĩa là “con tàu thần kỳ” – thực hiện một nhiệm vụ không được công bố điển hình cho những cái đầu diều hâu chiến tranh của Trung Quốc. Đó là cú lượn sát “ngang qua” trạm Vũ trụ Quốc tế của cả một phi thuyền đang bay trên quỹ đạo.
Táo bạo hơn nữa, các phi hành gia Trung Quốc cũng phóng vệ tinh nhỏ BX-1 trước khi nó bay ngang qua trạm Vũ trụ, có thể nó muốn thử làm một cuộc do thám nhỏ – hay có thể, theo ý kiến của nhà phân tích James Dunnigan, một cuộc thực tập mô phỏng vũ khí chống vệ tinh. Trong quá trình này, Trung Quốc đã vi phạm khoảng cách gọi là “khu vực tiếp cận” mà theo đó những người điều khiển các chuyến bay của NASA có thể thấy cần chuyển dịch trạm vũ trụ – nếu họ biết có vật lạ đang tiến đến.
Để hiểu được sự kinh ngạc mà điều này gây ra tại NASA, cần biết rằng các phi hành gia Trung Quốc đi qua ngay phía dưới trạm Vũ trụ với khoảng cách chỉ 25 dặm, và vệ tinh bí mật tí hon BX-1 có thể đã tiến tới gần đến khoảng cách chỉ 15 dặm. Khi bạn ở trong quỹ đạo với chiều dài hơn 26.000 dặm trong không gian rộng lớn ba chiều và bay với tốc độ 18.000 dặm / giờ, thì đây là khoảng cách rất gần và cực kỳ nguy hiểm.
Để tăng thêm vẻ gay cấn về sự nguy hiểm có thể xảy ra, đài truyền hình Trung Quốc thậm chí còn thông báo là trong chuyến bay vệ tinh nhỏ 40 kg đã “bắt đầu đi chệch ra ngoài quỹ đạo định trước”. Điều này khó có thể làm yên tâm các phi hành gia vũ trụ châu Âu và Hoa Kỳ đang ngồi trong chiếc thùng nhôm trị giá 100 tỷ đô-la nhìn vệ tinh gián điệp của Trung Quốc và một “đàn” phi hành gia Trung Quốc đang tiến lại gần nhòm ngó.
Đương đầu bất cân xứng với sức mạnh quân sự Hoa Kỳ
Một kẻ thù mạnh với ưu thế tuyệt đối không hẳn là không có những điểm yếu… Những sự chuẩn bị quân sự của chúng ta cần nhằm vào việc tìm kiếm những chiến thuật để khai thác những điểm yếu của một kẻ thù mạnh. – Nhật báo Quân đội Giải phóng Nhân dân
Trước khi ngưng nói về đề tài Trung Quốc nổi lên thành mối nguy cơ trong vũ trụ, cũng cần xem xét các năng lực vũ khí phòng thủ và tấn công đang lớn mạnh của họ trong một bối cảnh chiến lược rộng lớn hơn. Thực vậy, cái bảo vật quý giá nhất của kế hoạch quân sự tinh vi Trung Quốc chính là tập trung vào cái gọi là “chiến tranh bất cân xứng.”
Các kỹ thuật chiến tranh bất cân xứng điển hình là đóng vai trò chàng David yếu hơn nhưng khôn hơn đấu với gã Goliath khổng lồ về sức mạnh hay kỹ thuật. Trong trường hợp của Trung Quốc, khi phải đối mặt với sự yếu thế rõ ràng về kỹ thuật – mặc dầu có một đội quân hùng hậu – các nhà chiến lược Trung Quốc thường xuyên tìm kiếm những phương thức bất ngờ và không tốn kém để vô hiệu hóa, phá hủy, hay đánh bại bằng cách nào đó những sức mạnh kỹ thuật lớn nhất của Hoa Kỳ.
Ví dụ, chúng ta đã thấy một loại vũ khí chiến tranh bất cân đối điển hình trong chương 8, “Chết bởi hải quân viễn dương”. Đây là một loại tên lửa đạn đạo chống hạm không đắt tiền lắm có khả năng đánh chìm hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ – hay ít nhất làm cho nó phải khiếp sợ và chạy ra ngoài chuỗi đảo thứ hai. Một ví dụ khác trong chương này là các loại vũ khí chống vệ tinh có khả năng làm hỏng mạng lưới vệ tinh GPS và viễn thông của Hoa Kỳ. Như Clausewitz, nhà chiến lược quân sự lớn nước Phổ, đã từng nói, “Nếu ta cố thủ trong thành trì kiên cố thì ta bắt buộc kẻ thù phải tìm ra giải pháp ở một chỗ nào khác”.
Để hiểu được ý tưởng bằng cách nào mà các vũ khí rẻ tiền của Trung Quốc lại có thể đương đầu trong tương lai với các kỹ thuật đắt tiền hơn nhiều của Hoa Kỳ, hãy xem xét thế cờ thí quân (gambit) sau được nêu ra trong Sách Trắng Quốc phòng Trung Quốc với tiêu đề “Những phương pháp đánh bại GPS”:
Một hỏa tiễn thời tiết thông thường không đắt tiền lắm có thể mang lên một quỹ đạo dự định trước một quả bom chứa một lượng lớn các viên đạn chì nhỏ. Khi bom nổ, những viên đạn chì nhỏ sẽ bay ra với tốc độ tới 6,4 km/giây và phá hủy bất cứ thứ gì nó gặp. Khi vài ki-lô sỏi được ném vào quỹ đạo, chúng sẽ tấn công các vệ tinh giống như những trận mưa sao băng và vô hiệu hóa những chòm sao GPS đắt tiền.
Chính những loại vũ khí và kịch bản này, mà Trung Quốc đang phát triển, lột trần sự dối trá trong các tuyên bố của Trung Quốc về chương trình vũ trụ vì hòa bình. Tất cả chúng ta đang sống ở bên ngoài Trung Quốc cần luôn nhớ rằng cái mỹ từ “vũ trụ vì hòa bình” này nhằm che đậy những ý định quân sự thực sự của Trung Quốc. Đại tá Jia Junming (Cổ Tuấn Minh) đã nói trắng những điều này khi viết rằng:
Trong tương lai chương trình vũ khí không gian của chúng ta cần ít gây chú ý, mạnh bên trong nhưng nhẹ nhàng bên ngoài, để duy trì ấn tượng và vị thế quốc tế tốt đẹp.
Vào năm 2001, Ủy ban Không gian Hoa Kỳ đã cảnh báo: “Chúng ta đã được báo – nhưng chẳng ai để ý”.
P.N. & G.A.
Ghi chú:
(*) Sát tinh (Death Star): tên của một trạm không gian trong phim khoa học giả tưởng Star Wars có khả năng tiêu diệt một hành tinh bằng chùm tia năng lượng
(**) Tên nhân vật chính trong loạt truyện tranh, phim, truyền hình nhiều tập khoa học giả tưởng nổi tiếng của Philip Francis Nowlan sáng tác từ năm 1928.Rogersbị chìm vào giấc ngủ 492 năm. Khi tỉnh dậy vào năm 2419 đã thấy có phi thuyền và đang trong cuộc kháng chiến chống lại người Hans chiếm đóng Hoa Kỳ.
Nhóm dịch giả gửi trực tiếp cho BVN.
nguồn:http://www.boxitvn.net/bai/45585
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001