Tháng 2 25, 2013
Perry Link
Bùi Xuân Bách dịch
pro&contra – Trường hợp Mạc Ngôn phân hóa giới phê bình quốc tế. Trên tờ Guardian, Pankaj Mishra yêu cầu Salman Rushdie thôi lên án Mạc Ngôn về vấn đề kiểm duyệt. Salman Rushdie đập lại. Trên Kenyon Review Anna Sun phân tích ngôn ngữ bệnh hoạn của Mạc Ngôn và trên New York Review of Books Perry Link đặt câu hỏi liệu Mạc Ngôn có xứng đáng với giải thưởng này không. Trên ChinaFile, Charles Laughlin vạch ra những người phê bình Mạc Ngôn hiểu sai điều gì, và Perry Link chỉ ra những điều mà những người bênh vực Mạc Ngôn hiểu sai…
Sau đây là
bản dịch bài của Perry Link, nguyên là Giáo sư Khoa Nghiên cứu Đông Á
của Viện Đại học Princeton, chuyên ngành ngôn ngữ Hán và văn học Trung
Quốc hiện đại.
*
Ngày 11 tháng 10 (2012), Peter Englund,
Thư ký thường trực của Viện Hàn lâm Thụy Điển ở Stockholm, thông báo,
Giải Nobel Văn học năm 2012 sẽ được trao tặng cho nhà văn Trung Quốc
Quản Mô Nghiệp (管謨業), 57 tuổi, thường được biết với bút danh Mạc Ngôn
(莫言), nghĩa là “không nói”. (Bút danh này được cho là bắt nguồn từ lời
khuyên của cha mẹ, khi ông còn là học trò dưới thời Mao.)
Tin này được Bắc Kinh hãnh diện đón
mừng. Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị (cơ quan lãnh đạo cao nhất của
Đảng, gồm chín người) Lý Trường Xuân (李長春) lập tức gửi thư tới Hội nhà
văn Trung Quốc, một hội do nhà nước đỡ đầu và Mạc Ngôn là Phó Chủ tịch.
Trong thư, Lý Trường Xuân đã gọi giải thưởng này “không chỉ là hiện thân
của sự tiến bộ ngày càng gia tăng của văn học Trung Quốc, mà còn là
biểu hiện của sự tăng trưởng không ngừng về sức mạnh nói chung của nhà
nước ta cùng ảnh hưởng quốc tế của nó”. Các cơ quan truyền thông chính
thức thì hân hoan rằng, cuối cùng, một nhà văn Trung Quốc thuộc “dòng
chính” cũng đoạt Nobel, giải thưởng mà nhân dân Trung Quốc đã chờ đợi
quá lâu. Một tuần sau đó, nhà nước công bố kế hoạch đầu tư 110 triệu đô
la, để biến ngôi làng quê của nhà văn thành “Vùng thí điểm văn hóa Mạc
Ngôn”.
Đồng thời, một trận bão tranh luận đã nổ
ra trên mạng Internet tiếng Hán, cả bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc.
Liệu nhà văn này, so với những người khác cũng có khả năng đoạt giải,
có xứng đáng với giải thưởng không? Và liệu một giải thưởng tầm cỡ như
vậy có nên trao cho một nhà văn, vốn là người “bên trong hệ thống” của
một chính phủ độc đoán? Chính phủ này từng bỏ tù các nhà văn khác –
trong số đó có Lưu Hiểu Ba (劉曉波), khôi nguyên Giải Nobel Hòa bình năm
2010 (một “tội phạm hình sự đã bị kết án”, theo quan điểm của chính phủ
Trung Quốc) và đây chỉ là thí dụ nổi tiếng nhất. Trên mạng Twitter, một
người có tên Uông Tiểu Hồng[1] châm biếm bằng cách bày tỏ nỗi lo lắng thay cho ông Nobel quá cố, người mà bà hình dung đang vật vã dưới mồ:
Hai năm trước
người Thụy Điển chúng tôi trao giải cho một người Trung Quốc và việc này
đã xúc phạm chính phủ Trung Quốc. Giờ đây chúng tôi lại tặng giải cho
một người Trung Quốc khác, và việc này xúc phạm nhân dân Trung Quốc. Ối
giời ơi. Cả Trung Quốc bị xúc phạm chỉ trong vòng hai năm.
Gạt sang một bên vụ châm biếm, Uông Tiểu
Hồng đã nói đúng rằng, Giải Nobel được quan tâm sát sao và thèm thuồng ở
Trung Quốc – thậm chí, nói chung, còn hơn ở bất kỳ nơi nào khác. Giống
như huy chương vàng Olympic, họ coi đó là biểu hiện sự tôn trọng của thế
giới, mà trong những thế kỷ gần đây, nhiều người Trung Quốc nghĩ rằng
họ đã nhận được ít hơn là họ đáng có. Cảm giác bất an ngầm ẩn trong cái
yêu cầu được tôn trọng đã giảm đi rất nhiều trong trường hợp Giải Nobel
Văn chương này, khi Trung Quốc, về cơ bản đã trao sự đánh giá những
thành tựu văn hóa của họ cho một ủy ban Thụy Điển (chỉ có một thành viên
của Ủy ban, Gölan Malmqvist, đọc được chữ Hán, còn những người khác
phải dựa vào bản dịch). Trung Quốc cũng có giải thưởng văn học riêng của
họ, Giải Mao Thuẫn (茅盾), mà Mạc Ngôn nhận được năm 2010. Song kể cả Mạc
Ngôn lẫn bất kỳ người nào khác ở Trung Quốc, chẳng ai lại đi so sánh nó
với Giải Nobel. (Mao Thuẫn là nhà văn viết tiểu thuyết chính trị trong
những thập kỷ 1920 và 1930; ông làm Bộ trưởng Văn hóa dưới thời Mao, từ
1949 đến 1965, và nổi tiếng – cũng xứng đáng thôi – với những trang viết
nhạt nhẽo. Tuy nhiên, lý do chính của việc giải Mao Thuẫn chỉ có được
tiếng tăm hạng nhì vì nó chỉ là giải thưởng quốc nội, do nhà nước đặt
ra.)
Trong những năm gần đây, nhà cầm quyền
cộng sản Trung Quốc đặc biệt nhạy cảm với uy tín của Giải Nobel và đã
phải đối phó với một hồ sơ lịch sử đáng thất vọng. Có tám người Hoa đã
được Giải Nobel về khoa học tự nhiên, nhưng sáu trong số đó là công dân
các nước Tây phương (Mỹ, Anh và Pháp) khi họ đoạt giải, và hai người còn
lại là công dân Trung Hoa Dân quốc tại Đài Loan.[2]
Ngoài ra còn có hai khôi nguyên Giải Nobel Hòa bình, nhưng một là Lưu
Hiểu Ba, người làm mất mặt cái chế độ đã bỏ tù ông, và người kia, Đức
Đạt-lai Lạt-ma (Nobel Hòa bình 1989), đã phải lưu vong suốt từ 1959.
(Nhà cầm quyền Trung Quốc gọi Đức Đạt-lai Lạt-ma là “kẻ chia rẽ”, là
“con sói đội lốt cừu”, nhưng thật bất tiện nếu bảo rằng ông không phải
người Trung Quốc, bởi nói vậy khác nào thừa nhận rằng, Tây Tạng không
phải một phần của nước Trung Hoa). Cao Hành Kiện (高行健), một nhà văn
Trung Hoa, với những tác phẩm tố cáo chế độ cộng sản Trung Quốc, nhập
quốc tịch Pháp năm 1997. Sau khi ông đoạt Giải Nobel Văn học năm 2000,
các phương tiện truyền thông nhà nước ở Trung Quốc nhất loạt lên tiếng
rằng, Ủy ban Nobel đã “đánh mất uy tín của mình”, và “chỉ là một nhúm
những kẻ được gọi là chuyên viên văn học, những người có quan điểm cực
kỳ bệnh hoạn đối với nhân dân Trung Quốc”.
Giải thưởng trao cho Mạc Ngôn đã khiến
những nhận định tương tự cần phải xoay ngược hẳn lại 180 độ, và cũng
không có dấu hiệu nào cho thấy, có ai đó trong hệ thống truyền thông nhà
nước đã gặp khó khăn khi phải trở mặt như thế. Công việc của họ là đề
cao nhà nước, chứ không cần phải phát ngôn trước sau như một. Giờ thì
tới lượt phía bên kia, những người bất đồng chính kiến và những người
suy nghĩ độc lập vô danh trên mạng internet, tấn công. Một số người phê
bình Ủy ban Nobel, nhưng chủ yếu sự phê phán của họ nhằm vào chính Mạc
Ngôn, căn bản vì những lựa chọn chính trị gần đây của ông ta. Tại lễ
khai mạc Hội chợ Sách ở Frankfurt, tháng 10-2009, ông đọc một bài diễn
văn được sửa sang kỹ lưỡng, trong đó ông có nói rằng, cần đặt văn học
trên chính trị; nhưng lúc chính quyền Trung Quốc ra lệnh tẩy chay một
cuộc thảo luận, khi trong số người tham dự có nhà văn chính kiến độc lập
Đái Tình (戴晴) và Bối Linh (貝嶺), thì Mạc Ngôn đã bỏ về, rồi sau đó giải
thích rằng ông ta “không có sự lựa chọn nào khác”.
Tháng 12-2009, sau khi Lưu Hiểu Ba bị
kết án nặng nề bất ngờ, mười một năm tù giam, Thôi Vệ Bình (崔衛平), nhà
nghiên cứu điện ảnh, đã tiến hành một cuộc thăm dò dư luận bằng điện
thoại với hơn một trăm trí thức nổi tiếng ở Trung Quốc để xem phản ứng
của họ. Nhiều người, bất chấp những nguy hiểm cho bản thân, đã biểu lộ
sự kinh tởm và nói với Thôi rằng, bà có thể công bố những gì họ phát
biểu. Mạc Ngôn, cũng cho phép công bố, nhưng chỉ nói: “Tôi không được
biết rõ về chi tiết, nên tốt hơn hết là không nhận xét. Hiện giờ tôi
đang có khách trong nhà và tôi rất bận.”
Tuy nhiên, đối với những người phê phán
Mạc Ngôn, điều khó chịu nhất là hồi tháng 6-2012, ông đã đồng ý tham gia
một đề án do nhà nước đỡ đầu. Người ta mời những tác gia nổi tiếng chép
tay lại cuốn Những bài nói chuyện về văn học nghệ thuật ở Diên An
của Mao Trạch Đông thời 1942, để kỷ niệm bảy mươi năm sự kiện này.
Những bài nói chuyện đó – chính là cái vòng kim cô đối với văn nhân
Trung Quốc suốt thời Mao, và hầu hết các nhà văn đồng loạt lên án nó
trong nhiều năm, từ khi Mao chết năm 1976 đến cuộc tàn sát ở Thiên An
Môn 1989 – giờ đây lại được đưa ra để tung hô. Một số nhà văn được mời
tham gia đã từ chối làm chuyện đó. Mạc Ngôn không những đồng ý làm mà
còn đi xa hơn những người khác, giải thích rằng, “Những bài nói chuyện”,
vào thời của nó, là “một sự cần thiết của lịch sử” và “đóng một vai trò
tích cực”.
Tại cuộc họp báo sau khi Giải Nobel trao
cho ông được công bố, Mạc Ngôn yêu cầu rằng, lập trường chính trị của
ông cần được tách bạch với những tác phẩm ông viết. Giải Nobel “là một
giải thưởng văn học, không phải chính trị”, ông nói. Một số người phê
bình ông trên mạng internet đã thẳng thừng bác bỏ sự phân cách này. (Có
người viết trên mạng Twitter rằng “nếu có đầu bếp mang thức ăn đến cho
tôi mà người dính đầy phân, thì dù món ăn có ngon lành đến đâu, tôi cũng
khó mà nuốt nổi”). Tuy nhiên, vấn đề lớn hơn là, việc một nhà văn đã
chìm ngập trong một chế độ cực quyền và tự điều chỉnh để thích ứng với
nó sẽ ảnh hưởng tới những gì ông ta/bà ta viết như thế nào và tới chừng
mực nào. Chuyện này vừa tinh tế lại vừa hệ trọng, và Mạc Ngôn đã cung
cấp một thí dụ hữu ích.
Mạc Ngôn bắt đầu nổi tiếng vào cuối những năm 1980, khi đạo diễn Trương Nghệ Mưu (張藝謀) chuyển thể cuốn tiểu thuyết Cao lương đỏ (紅高粱家族 – Hồng cao lương gia tộc) của ông sang điện ảnh, thành một bộ phim được giải thưởng. Cao lương đỏ
là trường thiên tiểu thuyết về cuộc sống ở vùng nông thôn Sơn Đông thời
Nhật Bản xâm lược, trong những năm 1930 và 1940. Lưu Hiểu Ba biết Mạc
Ngôn từ đó và sau này đã viết rằng, một lý do khiến bộ phim đạt được
thành công rực rỡ
chính vì nó đã
dựng lại hết sức thông thoáng đề tài tình dục nguyên sơ và thông dâm.
Bài hát chủ đề của bộ phim, “Em gái ơi, hãy mạnh dạn lên nào”, là một sự
tán thành không giới hạn sức sống bản năng của nhục dục. Trên nền đỏ
rực như lửa của những cánh đồng cao lương ở vùng Đông Bắc Trung Quốc
tiêu điều, dưới bầu trời xanh bao la và ánh mặt trời rực rỡ, bọn thổ phỉ
đã bắt cóc phụ nữ trong làng một cách tàn bạo, sự thông dâm cuồng dại
đã diễn ra trong những cánh đồng cao lương, tụi thổ phỉ giết lẫn nhau để
giành giật phụ nữ, những lực điền làm thuê đã chế ra một cách kỳ diệu
loại rượu nổi tiếng “Lục Lý Hồng” (“六里紅”), bằng cách đái vào những nồi rượu đang cất của nữ nhân vật chính, và v.v…
Tất cả những
chuyện đó… không chỉ dựng lên một bối cảnh cho sự hoàn thiện tuyệt vời
khát khao tình dục của nam lẫn nữ; nó tạo ra một viễn cảnh trong mơ rộng
lớn hơn, mang sinh khí diệu kỳ. Việc phim “Cao lương đỏ” được giải
thưởng đã tượng trưng cho sự thay đổi trong thái độ chung của cả nước
đối với dục tính: việc đưa ra “những biểu tượng gợi dục” cũng phải được
xem như “những biểu hiện của sức sống tràn trề”.
Mạc Ngôn chỉ ra rằng, đúng vậy, Cao lương đỏ
đã bị phê bình kịch liệt trong những năm 1980 từ phía chính quyền. Sau
đó, ít nhất, ông cũng không phải là kẻ bợ đỡ. Tác phẩm không chỉ thách
thức những cấm kỵ về tình dục; nó diễn tả một khía cạnh của cuộc sống
người dân Trung Quốc dưới thời Nhật Bản chiếm đóng, mà về cơ bản khác
hẳn với quan điểm cộng sản chính thống xưa nay, chỉ nói về cuộc kháng
chiến anh hùng của nông dân. Mạc Ngôn, Trương Nghệ Mưu và một số khác bị
coi như là những thanh niên nổi loạn.
Oe Kenzaburo, một nhà văn Nhật Bản
chuyên viết tiểu thuyết và tản văn, khôi nguyên Nobel Văn học 1994, đã
phát biểu trong diễn văn nhận giải thưởng:
Bằng cách chia sẻ những ẩn dụ cũ kỹ, quen thuộc nhưng sinh động, tôi đã xếp mình đứng chung cùng các nhà văn như Kim Chi Hà (金芝河) của Nam Hàn và Trịnh Nghĩa (鄭
義) cùng Mạc Ngôn, cả hai của Trung Quốc. Đối với tôi, tình anh em trong
văn học thế giới chính là nằm trong những tương quan như vậy, với những
giao thiệp cụ thể… Giờ đây tôi hết sức lo lắng cho số phận của những nhà
văn Trung Quốc tài năng đó, những người đã bị tước đoạt tự do của họ kể
từ sự kiện Thiên An Môn [cuộc đàn áp ngày mồng 4 tháng 6-1989].
Vào thời điểm đó [1994], Oe không thể
biết được “số phận” của hai nhà văn Trung Quốc trẻ mà ông ngưỡng mộ,
Trịnh Nghĩa và Mạc Ngôn, sẽ xoay vần hết sức khác biệt ra sao. Trịnh
Nghĩa đã khiến Oe chú ý tới mình qua tác phẩm Giếng cổ [老井- Lão
tỉnh] (1984), một tiểu thuyết trữ tình dựa trên bối cảnh nhu cầu về
nước, kéo dài nhiều thế kỷ, ở một vùng nông thôn khô hạn thuộc tỉnh Sơn
Tây. Cũng như Cao lương đỏ, câu chuyện đã được chuyển thể qua
điện ảnh và cuốn phim cũng được giải thưởng. Năm 1997, Oe nói với tôi
rằng, ông thích “sự định hướng theo chiều thẳng đứng” của Trịnh – những
cái giếng cổ đã ăn sâu vào lòng đất và những “cây thần” [thần thụ - 神樹]
đã vươn cao theo chiều ngược lại, chĩa lên trời. (Trịnh sau đó đã bắt
tay vào viết cuốn tiểu thuyết dài, có tên là Thần thụ, trong đó
ông mô tả cuộc sống ở nông thôn Trung Quốc hết sức tài hoa). Năm 1989,
Trịnh Nghĩa ủng hộ cuộc phản kháng của sinh viên ở Thiên An Môn, sau đó
bị chính phủ đưa vào danh sách truy nã. Ông sống lẩn lút ở Trung Quốc
trong ba năm, rồi trốn thoát sang Hong Kong trên một con thuyền nhỏ vào
năm 1993, và từ đó sống lưu vong tại Hoa Kỳ. Ông tiếp tục viết rất
khỏe, luôn luôn mạnh mẽ phê phán chính phủ Trung Quốc.
Mạc Ngôn, trong cả chính trị lẫn văn
chương, đã chọn một con đường khác. Tất cả văn nghệ sĩ Trung Quốc nghiêm
túc, trong thời kỳ hậu 1989 đều phải đối mặt với sự lựa chọn liệu có
nên ở lại “bên trong hệ thống” và tới chừng mực nào. Nhiều người, cũng
giống như Mạc Ngôn, đã lựa chọn dứt khoát ở lại, rồi điều chỉnh ít hay
nhiều cho phù hợp với đường lối chỉ đạo chính thức, thậm chí họ còn công
khai giữ ảo tưởng dường như họ không hề làm chuyện đó. (Tại một cuộc
họp báo gần đây, Mạc Ngôn nhận xét với bộ mặt tỉnh khô rằng, “chúng ta
đang sống trong một thời đại tự do thể hiện”). Trong hai thập kỷ vừa
qua, với sự bùng phát của nền kinh tế, tiền bạc đã trở thành một lý do
quan trọng xui khiến người ta ở lại trong hệ thống. Trương Nghệ Mưu, đạo
diễn phim Cao lương đỏ, đã chuyển dịch ngày càng sâu và sâu
hơn vào “bên trong” cho đến khi, năm 2008, ông ta được mời làm Tổng đạo
diễn cho lễ khai mạc Thế vận hội ở Bắc Kinh và nhận xét (rõ ràng không
có ý mỉa mai) rằng, chỉ có những nhà nước như Trung Quốc hoặc Bắc Hàn
mới có thể dàn dựng những tác phẩm hoành tráng đến thế.
Phần lớn những nhà văn đã lựa chọn “rời
bỏ” hệ thống – Lưu Tân Nhạn (劉賓雁), Tô Hiểu Khang (蘇晓康), Trịnh Nghĩa,
Liêu Diệc Vũ (廖亦武) và những người khác –chấp nhận lưu vong như một cái
giá phải trả để có thể nói điều họ nghĩ mà không cần phải uốn nắn lại.
Cáp Kim (哈金 Ha Jin) đã đi một bước khác thường, không chỉ rời bỏ Trung
Quốc mà cả tiếng Hán nữa; ông chỉ viết bằng tiếng Anh, một phần để chắc
chắn rằng, thậm chí vô thức cũng không ảnh hưởng đến cách diễn đạt của
ông. Một số người chọn sống lưu vong sau sự kiện 1989 về sau đổi ý, quay
về Trung Quốc. Từ Băng (徐冰), một nghệ sĩ sắp đặt, đã sống ở New York từ
1990 đến 2008, rồi lại trở về Trung Quốc, làm Phó Viện trưởng Học viện
Mỹ thuật Trung ương. Nhà thơ xuất sắc Bắc Đảo (北島) cũng quay về và hiện
nay, phần lớn thời gian ông sống ở Hong Kong. Chế độ đã hoan nghênh sự
trở về của những nhân vật nổi tiếng, bởi vì việc này giúp đánh bóng hình
ảnh của nó. Chính quyền đã ưu đãi họ bằng tiền bạc, địa vị và nhiều tự
do hơn những người khác – nhưng không bao giờ là tự do hoàn toàn.
Thách thức chủ yếu đối với Mạc Ngôn, bắt
đầu vào những năm 1990, là tìm cho được một giọng nói riêng mà ông có
thể dùng về lâu về dài. Cao lương đỏ quả thật là một bước đột
phá, nhưng chỉ nhờ vào hoàn cảnh chính trị trong những năm 1980, khi các
nhà văn Trung Quốc có thể tạo dựng tên tuổi bằng cách “đi vào những
vùng cấm”. Cao lương đỏ đột phá vào hai lĩnh vực: sự phóng đãng
tình dục và việc kể sự thật về cuộc chiến với Nhật Bản. Song đến năm
1990 chỉ còn rất ít vùng cấm chờ đột phá, và với những vùng cấm còn lại
(vụ tàn sát 1989, tham nhũng trong hàng ngũ chóp bu chính trị, và những
đề tài như Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương) thì việc nghiêm cấm cực kỳ
chặt chẽ, tuyệt đối không được đụng chạm tới. Mạc Ngôn cần một cái gì đó
khác hơn.
Giọng nói mà ông chọn lựa từng được gọi
là giọng Rabelais, nhưng thậm chí nó còn trần tục hơn cả Rabelais. Cái
bản tính động vật trong con người – ăn uống, bài tiết, đấm đá, gào thét,
đổ máu, sợ hãi, gian dâm – thì đầy ra, cũng như một số đặc tính khác mà
động vật tránh làm như bắt nạt, đồng lõa và phản bội. Thỉnh thoảng, chứ
không phải luôn luôn, cách thể hiện của Mạc Ngôn có chút mỉa mai, và nó
bao hàm cả sự tưởng tượng được thăng hoa mà những nhà phê bình đã so
sánh với “chủ nghĩa hiện thực có ma lực” của Gabriel García Márquez.
(Chưa chắc Mạc Ngôn đã đọc Rabelais hoặc García Márquez, đó là những sự
tương tự chứ không phải ảnh hưởng.)
Mạc Ngôn viết về những con người ở dưới đáy xã hội và trong truyện Cây tỏi nổi giận
[“天堂蒜薹之歌” – “Thiên đường toán đài chi ca”] (1988), rõ ràng ông đứng về
phía những người nông dân nghèo bị lũ cường hào quan chức địa phương bắt
nạt, khiến cho họ phá sản. Cảm tình với những người bị áp bức có một
thị trường đáng kể trong thế giới văn học Trung Quốc thời gian gần đây,
chủ yếu bởi vì chính xã hội bao gồm rất nhiều người bị chà đạp và họ đã
thu hút được cảm tình. Song điều cốt yếu là phải nhận ra được sự khác
biệt giữa cung cách Mạc Ngôn viết về số phận của những người bị giày xéo
và cách viết, mà những nhà văn như Lưu Hiểu Ba, Trịnh Nghĩa và những
người bất đồng chính kiến khác đã sử dụng. Lưu và Trịnh đã lên án toàn
bộ hệ thống chuyên chế này, kể cả những người ở cấp cao nhất. Mạc Ngôn
và những nhà văn bên-trong-hệ-thống chỉ đổ lỗi cho lũ cường hào địa
phương, mà không đả động đến tầng lớp lãnh đạo cao cấp.
Dẫu sao, đó cũng là chiến thuật kinh
điển của giới lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc. Họ thường đổ lỗi cho
những quan chức cấp thấp đã hành xử sai trái và việc đó chính là nguyên
nhân gây ra những khó khăn của nhân dân. Họ muốn đưa ra một thông điệp
rằng, “ở đây, tại Trung ương, chúng tôi đã nghe tiếng quý vị và rất
thông cảm; đừng lo ngại là có chuyện gì sai trái với cả hệ thống của
chúng ta”. Hai mươi năm trước, khi người dân Trung Quốc chỉ tiếp cận
được những nguồn tin tức do nhà nước đưa ra, phần lớn tin vào những lời
đảm bảo như vậy; hiện giờ, với mạng internet, số người cả tin như vậy ít
hơn, nhưng thông điệp đó vẫn rất hiệu quả. Những nhà văn như Mạc Ngôn
hiểu rõ chiến lược này của chế độ, và có thể họ cũng chả thích đâu,
nhưng họ chấp nhận thỏa hiệp trong cách diễn đạt. Đó là cái giá của việc
viết lách bên trong hệ thống.
Mạc Ngôn đã viết những tiểu thuyết hoành
tráng, miêu tả phần lớn lịch sử Trung Quốc trong thế kỷ XX. “Viết lại
lịch sử” đã từng là thời trang trong tiểu thuyết Trung Hoa từ những năm
1990; nó đã hấp dẫn những độc giả đang phải vật lộn khi đối mặt với câu
hỏi “chuyện gì đã diễn ra?” trên đất nước trong và sau thời kỳ chủ nghĩa
Mao hành hạ đất nước. Những nhà văn bên trong hệ thống đã rơi vào thế
tiến thoái lưỡng nan, khi phải đụng chạm đến những thời kỳ như Đại nhảy
vọt (1959-1962), trong thời gian đó ba mươi triệu người hoặc hơn bị chết
đói, hoặc Đại Cách mạng Văn hóa vô sản (1966-1970), nó đã cướp đi mạng
sống của hai hoặc ba triệu người nữa, và đầu độc tinh thần dân tộc với
sự yếm thế và hoài nghi sâu sắc đến nỗi thậm chí hôm nay, cái tinh thần
đó vẫn chưa hoàn toàn hồi phục. Những người lãnh đạo cộng sản hiện nay
lo ngại quyền lực của họ có thể bị suy giảm nếu gắn liền với những đại
họa thời Mao, nên tuyên bố rằng, những đề tài đó là “nhạy cảm” và nói
chung là vùng cấm đối với những nhà văn “quốc doanh”. Song một nhà văn,
khi dựng lại toàn cảnh, không thể bỏ qua những giai đoạn đó được. Vậy
phải làm thế nào?
Giải pháp của Mạc Ngôn (và ở đây không
chỉ mình ông) là sử dụng một sự hoạt kê ngớ ngẩn khi phải đụng chạm tới
những sự kiện “nhạy cảm”. Tiểu thuyết Báu vật của đời [豐乳肥臀 -
Phong nhũ phì đồn] (1996), đã xuyên qua toàn bộ thế kỷ XX, với câu
chuyện về cuộc đời của một anh chàng [Kim Đồng] cứ mê mẩn với những bộ
phận trên cơ thể phụ nữ. Trong chương VI, cuốn truyện đã phải đụng chạm
tới Đại nhảy vọt, khi nền kinh tế nông thôn Trung Quốc đã sụp đổ vì sự
can thiệp cưỡng bức do các chính sách nông nghiệp của Mao, kể cả việc
Mao khăng khăng bắt cấy dày (nông dân biết là sẽ thất bại nhưng họ không
dám phản đối vì có thể nguy hiểm đến tính mạng) và gợi ý tạo giống cây
trồng và gia súc mới bằng cách lai giống từ những loài khác nhau – chẳng
hạn như cà chua với bí ngô để được giống cà chua khổng lồ.
Mạc Ngôn đã miêu tả hết sức khôi hài
những chuyện điên rồ như vậy, nhưng không hề đụng chạm đến thảm họa.
Phối giống thỏ với cừu? Tại sao không? Trong Báu vật của đời có
nhân viên đã xung phong: “Nói gì bơm tinh dịch cừu vào tử cung thỏ,
ngay cả bơm tinh dịch của Giám đốc Lý Đỗ vào tử cung lợn nái, tôi cũng
không mảy may băn khoăn!” Những người có mặt phá lên cười. Trong khi đó
hoàn toàn không có dấu hiệu gì của nạn đói. Khi nhân vật chính, chú bé
mê bầu vú, cần một ít sữa dê, có người đã chạy đi mua. Trong Sống thác đọa đày
[生死疲勞 - Sinh tử bì lao] (2006), một tác phẩm toàn cảnh khác của Mạc
Ngôn, trải dài từ 1950 đến năm 2000, một nạn nhân bị đưa ra đấu tố công
khai thời Cách mạng văn hóa, đã bị buộc tội làm một con lừa có chửa. Nạn
nhân đã bị chế nhạo, thậm chí bị chửi mắng suốt bốn trang sách, sau đó
thì “đám đông cười rầm trời” khi anh ta bị bắt phải ăn một củ cải, tượng
trưng cho “dương vật giả của con lừa”.
Những người bênh vực Mạc Ngôn, cả bên
trong và ngoài Ủy ban trao Giải Nobel, công nhận ông có tài hài hước với
khả năng gây cười từ những chuyện không đáng cười. Có thể. Song với
những người khác, kể cả con cháu những nạn nhân của việc lăng nhục đó,
ta lại cũng có thể thông cảm nếu họ ngạc nhiên rằng, có gì đáng cười kia
chứ. Từ quan điểm của chế độ, lối viết này là hữu ích không chỉ vì nó
đánh lạc hướng cái nhìn thẳng thắn vào lịch sử, mà còn vì nó có tác dụng
như một cái van an toàn. Những đề tài này vốn “nhạy cảm”, và chúng có
nguy cơ bùng nổ, thậm chí ngày hôm nay. Đối với chế độ, việc đưa chúng
ra làm trò cười có thể có lợi hơn là cấm thẳng thừng không cho nói đến.
Năm 2004, trong một bài báo có tên “Cuộc diễu hành gợi tình trong lịch
sử Trung Quốc gần đây”, Lưu Hiểu Ba đã nhận thấy rằng, “Sự giễu cợt…
biến thành một hình thức xoa bóp tinh thần làm cho lương tâm của nhân
dân trở nên vô cảm và làm tê liệt ký ức của họ”.
Liệu Mạc Ngôn có suy tư gì hơn nữa ngoài
những truyện ông đã in? Đối với ông, cũng như với tất cả nhà văn Trung
Quốc bên-trong-hệ-thống, ít nhất chúng ta cần để ngỏ câu hỏi này. Tại
cuộc họp báo hôm 12 tháng 10 (2012), ông đã trả lời câu hỏi của một nhà
báo về người bạn cũng được Giải Nobel, Lưu Hiểu Ba, như sau:
Tôi đã đọc một
số bài ông (Lưu Hiểu Ba) viết về văn học trong những năm 1980… sau này,
khi ông rời bỏ văn học và quay sang chính trị, tôi không tiếp xúc với
ông, và tôi cũng không biết rõ phần lớn những gì ông đã làm từ bấy đến
giờ. Tuy nhiên, giờ đây tôi hy vọng rằng, ông sẽ được tự do càng sớm
càng tốt – có được tự do với sức khỏe dồi dào càng sớm càng tốt – và sau
đó có thể tiếp tục nghiên cứu đường hướng chính trị của ông, cùng việc
nghiên cứu những hệ thống xã hội, theo ý thích của ông.
Lời phát biểu nhanh chóng được một số
người ủng hộ Lưu Hiểu Ba hoan nghênh. Đây là một người vừa mới đoạt giải
Nobel đã lên tiếng cho một người khác, mà tên tuổi bị cấm trên các
phương tiện truyền thông của nhà nước Trung Quốc. Hơn nữa, chính lời
phát biểu của Mạc Ngôn cũng bị xóa bỏ trên mạng internet trong nội địa
Trung Quốc, vậy là chính quyền cũng bực bội vì những lời nói này. Hiển
nhiên, Mạc Ngôn đã có một lời tuyên bố của lương tâm.
Lời phát biểu chắc chắn là có giá trị,
nhưng theo tôi, có một lời giải thích khác hợp lý hơn, chứ không chỉ vì
lòng dũng cảm của lương tâm. An ninh và các quan chức tuyên truyền ở
Trung Quốc theo rất sát những người có ảnh hưởng, kể cả những nhân vật
có danh vọng lẫn những người bất đồng chính kiến. Có những “cuộc đàm
đạo” [tức là làm việc với cơ quan an ninh, N.D.], đôi khi được gọi bóng
bảy là “uống trà” [喝茶], về việc người ta nên hoặc không nên nói hay làm
những gì công khai. Khi có một chuyện ngoạn mục như được trao Giải Nobel
chẳng hạn, không thế tưởng tượng được rằng người đoạt giải lại không
được mời tới nói chuyện [với an ninh] một hoặc nhiều lần, và câu hỏi
‘Mạc Ngôn sẽ nói gì về Lưu Hiểu Ba’ nhất định sẽ bật ra. Đó là một câu
hỏi hiển nhiên. Các phóng viên của báo chí thế giới đã hỏi câu đó gần
như ngay lập tức sau khi giải thưởng trao cho Mạc Ngôn được công bố, và
câu hỏi đó thậm chí lại càng không thể tránh được hơn, khi ông đến
Stockholm nhận giải. (Cư dân mạng Trung Hoa cũng đặt vấn đề ra. Có người
đã viết trên Twitter rằng, “nếu Mạc Ngôn có can đảm, ông ta sẽ đứng
ngay cạnh chiếc ghế trống khi đọc diễn văn ở Stockholm”.)[3]
Bằng cách này hay cách khác, Mạc Ngôn cũng đành phải “thuyết pháp”
vậy – một “cách diễn đạt”. Từ quan điểm của chế độ, cách nào có thể gây
ra ít tổn thất nhất? Nếu Mạc Ngôn nói với thế giới rằng, Lưu Hiểu Ba là
tội phạm cần phải bỏ tù, hình ảnh của chính Mạc Ngôn sẽ xấu đi rất
nhiều, và niềm vinh quang của việc thắng giải – niềm vinh quang mà chế
độ muốn khuyếch trương và bay lên cùng nó – sẽ đâm đầu xuống đất. Mặt
khác, nếu quả thật Mạc Ngôn lại đứng về phía Lưu Hiểu Ba, người đã nhiều
lần viết rằng, “việc bỏ tù vì những lời phát biểu” luôn luôn và trên
nguyên tắc là sai, thì chế độ cũng chẳng lợi lộc gì. Tốt nhất, có lẽ là
một lời phát biểu “trung dung”, nhẹ nhàng về hy vọng là Lưu sẽ sớm được
thả.
Một cụm từ trong lời phát biểu trên đã
khiến cho cách lý giải này càng đặc biệt hợp lý. Ông đã lặp lại từ “tự
do” để nhấn mạnh rằng nó phải là sự tự do với sức khỏe dồi dào. Liệu Mạc
Ngôn có biết về tình hình sức khỏe hiện nay của Lưu Hiểu Ba hay không?
Chưa chắc. Chỉ có Lưu Hà (劉霞), vợ Hiểu Ba, mới được gặp ông trong những
tháng gần đây, nhưng bà bị buộc phải im lặng tuyệt đối, nếu không, quyền
thăm viếng sẽ bị cắt. Mạc Ngôn có thể chỉ đơn thuần lưu tâm tới một sự
thật là trong khi bị giam giữ, sức khỏe của những nhà bất đồng chính
kiến khác thường bị suy yếu, đôi khi còn trầm trọng nữa kia. Song chúng
ta được biết chắc rằng, vợ chồng Lưu có thể đang bị chế độ gây áp lực
ép họ chấp nhận rời Trung Quốc sống lưu vong. Những người bất đồng
chính kiến trong khi lưu vong thường ít gây khó khăn cho chính quyền hơn
là lúc họ còn ở trong nước. Luật sư nhân quyền khiếm thị Trần Quang
Thành (陳光誠) người trong tháng tư vừa qua (2012) đã trốn khỏi cảnh quản
thúc tại gia ở Sơn Đông và lánh nạn tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Bắc Kinh,
hiện nay đang ở New York, khiến chế độ đỡ đau đầu hơn rất nhiều, so với
khi ông còn ở Sơn Đông hoặc Bắc Kinh.
Và chuyện này liên quan gì đến “sức khỏe
dồi dào”? Uyển ngữ ưa thích của chế độ khi muốn đẩy những người bất
đồng chính kiến ra khỏi nước là nói “họ đi chữa bệnh”. Tháng 6 – 1990,
chẳng hạn, khi nhà vật lý thiên văn Phương Lệ Chi (方勵之), một người bất
đồng chính kiến, được thả cho đi sang Anh, (chính quyền Trung Quốc khăng
khăng yêu cầu ông phải sống ít nhất sáu tháng ở “một nước thứ ba” trước
khi đi Mỹ), “đi chữa bệnh” là cái cớ mà chế độ viện ra khi họ đàm phán
với những nhà ngoại giao Anh. Phương Lệ Chi đã chấp nhận trò chơi chữ
này, thậm chí sức khỏe của ông chẳng có vấn đề gì. Cụm từ “sức khỏe dồi
dào” của Mạc Ngôn liệu có phải là do chính quyền Trung Quốc mớm cho ông
không, có thể là cách họ chuẩn bị dư luận quốc tế cho Lưu Hiểu Ba “đi
chữa bệnh ở nước ngoài”? Tôi không rõ, nhưng dường như nó là một lời
giải thích khả hữu cho việc tại sao cụm từ này lại bật ra trong phát
biểu của Mạc Ngôn.
Một sự thật là hệ thống kiểm duyệt Trung
Quốc đã xóa phát biểu của Mạc Ngôn trên mạng internet nội địa. Việc này
hoàn toàn phù hợp với cách lý giải trên. Đối tượng của trò chơi chữ
“được trả lại tự do với sức khỏe tốt” (nếu nó là như vậy) có thể không
phải là nhân dân Trung Quốc, mà là cộng đồng quốc tế, những người sẽ
tiếp nhận Lưu Hiểu Ba, nếu ông chịu lưu vong, và những người đang có ấn
tượng tốt với khôi nguyên Nobel mới, cái ấn tượng mà chế độ thiết tha
muốn gìn giữ.
Những nhà văn Trung Quốc hôm nay, dù ở
“bên trong hệ thống” hay không, tất cả đều phải có sự lựa chọn nên hành
xử thế nào với chính quyền toàn trị của đất nước họ. Việc này không thể
nào tránh khỏi những toan tính, trao đổi, và bưng bài theo nhiều kiểu.
Những chọn lựa của Lưu Hiểu Ba đã là hết sức khác thường. Những phản ứng
của Mạc Ngôn “bình thường” hơn, gần với trung tâm của đường cong hình
chuông.[4]
Sẽ là sai đối với những khán giả như tôi và bạn, những người có một
khoảng cách thoải mái, lại yêu cầu Mạc Ngôn phải hy sinh tất cả và trở
thành một Lưu Hiểu Ba nữa. Tuy nhiên, sẽ sai nhiều hơn nếu không thấy rõ
sự khác biệt giữa hai người.
___________
Nguồn: Perry Link, “Does this writer deserve the prize?” The New York Review of Books, 6.12.2012
Bản tiếng Việt © 2013 Bùi Xuân Bách & pro&contra
[1]
Nguyên văn trong bản tiếng Anh dùng bính âm Bắc Kinh (pinyin), vì không
có chữ Hán để chuyển chính xác sang âm Hán Việt, chúng tôi phỏng dịch
Wang Xiaohong là Uông Tiểu Hồng. Thành thực xin lỗi bạn đọc về sự bất
tiện này.
[2]
Dương Chấn Ninh và Lý Chính Đạo được Giải Nobel Vật lý năm 1957, khi đó
còn là công dân Đài Loan, sau này xin nhập quốc tịch Hoa Kỳ. Họ có quan
hệ gần gũi với Trung Hoa đại lục.
Yang Zhenning – Dương Chấn Ninh (楊振寧), cũng còn viết Chen Ning Yang.
Li Zhengdao – Lý Chính Đạo (李政道), cũng còn viết Tsung-Dao Lee.
Yang Zhenning – Dương Chấn Ninh (楊振寧), cũng còn viết Chen Ning Yang.
Li Zhengdao – Lý Chính Đạo (李政道), cũng còn viết Tsung-Dao Lee.
[3]
Bằng chứng nhận Giải Nobel Hòa bình của Lưu Hiểu Ba được đặt lên một
chiếc ghế trống trong buổi lễ trao giải tại Oslo, tháng 12-2010. Sau đó,
chính quyền Trung Quốc đã cấm cụm từ “chiếc ghế trống” trên mạng
internet trong nước. Theo thông tin từ Oslo, tại lễ trao giải trong ngày
thứ Sáu ngày 10/12, 19 quốc gia không tham dự, trên tổng số 194 các
quốc gia toàn thế giới, là: Việt Nam, Trung Quốc, Nga, Colombia,
Tunisia, Ả Rập Saudi, Pakistan, Serbia, Iraq, Iran, Kazakhstan,
Afghanistan, Venezuela, Ai Cập, Sudan, Ukraine, Cuba, Morocco và
Philippines. Trong buổi lễ trao giải sáng 10/12/2010 tại Oslo, do ông
Lưu Hiểu Ba vẫn bị giam và thân nhân của ông bị quản thúc hoặc công an
giám sát nên ban tổ chức đã chọn một động thái biểu tượng. Trước chiếc
ghế trống, chủ tịch Ủy ban Nobel Thorbjoern Jagland nhắc lại rằng: “Ông
Lưu Hiểu Ba không làm điều gì sai trái. Ông chỉ hành xử quyền công dân
của mình mà thôi”.
[4]
Đường cong hình chuông: Biểu đồ của một hàm Gauss là một đường cong đối
xứng đặc trưng “hình quả chuông”. Hàm số này được sử dụng rộng rãi,
nhất là trong thống kê.
nguồn:http://www.procontra.asia/?p=1631
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001