(Trích từ “Dân Chủ Pháp Trị: Luật Pháp, Công Lý, Tự Do và Trật Tự Xã Hội.”)
Bản chất hiến pháp của một quốc gia thể hiện những bận tâm mà xã hội
và chính trị phải đương đầu. Tùy vào bối cảnh lịch sử, mỗi quốc gia phải
kiến tạo hiến pháp để xây dựng những định chế chính trị, xã hội và luật
pháp thích nghi với hoàn cảnh của mình. Những nguyên tắc hiến pháp là
những khí cụ để giải quyết những mối bận tâm đó. Chúng ta thử nhìn một
vài thí dụ điển hình: Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 được kiến tạo trên hai mối
bận tâm hàng đầu của các nhà lập hiến thời đó. Thứ nhất, vấn đề quốc
phòng và thương nghiệp. Khi mà dân thuộc địa Mỹ phải chịu luật lệ khắt
khe và bất công từ Anh quốc. Từ mối bận tâm này, nguyên tắc liên bang
(federalism) ra đời. Chế độ liên bang bảo đảm quyền tự do buôn bán giữa
các tiểu bang, nhưng đồng thời công nhận quyền tự trị của mười ba tiểu
bang nguyên thủy. Thứ hai, tự do cá nhân đối với sự lạm dụng quyền lực
của chính quyền là nguyên nhân của nguyên tắc phân quyền (seperation of
powers). Vấn đề quyền hạn công dân vẫn chưa phải là mối quan tâm hàng
đầu cho đến hơn cả thập niên sau (1791), người Mỹ mới cộng thêm những tu
chính hiến pháp bảo vệ quyền công dân, gọi là “Bill of Righs”.
Trong khi đó hiến pháp Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) 1949 thể hiện mối kinh hoàng của giai đoạn lịch sử độc tài Hitler và chiến tranh khủng khiếp của Đệ Nhị Thế Chiến cũng như mặc cảm bị chiếm đóng của quân đội Đồng Minh và thảm trạng phân chia của đất nước. Những mối bận tâm này là nguyên nhân của nguyên tắc dân quyền được đặt lên hàng đầu và không thể được tu chính; cũng như sự nhấn mạnh đến tính chất tương quan của chính quyền địa phương (lander governments) đối với chính quyền trung ương quôc gia.
Hiến pháp Nhật Bản 1947, dưới sự chiếm đóng của Mỹ, vì bận tâm đến nạn quân phiệt và tham vọng quân sự viễn chinh, đã giảm thiểu tối đa vai trò quân đội (điều 9) đặt hoàn toàn dưới thẩm quyền dân sự, và không cho sử dụng quân đội ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Hiến pháp Đệ tứ cộng hòa Pháp 1958 thể hiện sự bất mãn với tình trạng bất nhất, thiếu hiệu năng của cơ chế nghị viện, điển hình là từ vị khủng hoảng ở thuộc địa Algeria, đã kiến tạo nguyên tắc trọng hành pháp với nhiều quyền năng cho phía hành pháp; trong khi đó đánh nhẹ những nguyên tắc dân quyền vì dân Pháp đã nằm lòng và nội dụng hóa Bản Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền 1789 trong đời sống chính trị của họ.
Hiến pháp của Cộng hoà liên bang Sô Viết 1936 và 1977 bận tâm đến quyền lực chính quyền trung ương thể hiện trên hai nguyên tắc thẩm quyền nhà nước Liên bang và “dân chủ trung ương” (“democratic centralism”) (Điều 108 và 3). Cũng tương tự như thế, Hiến pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 1980 thể hiện mối bận tâm trung ương tập quyền và đảng trị cũng có “Đảng Cộng sản Việt Nam,... là lực lượng, duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội,” (Điều 4), và nguyên tắc “tập trung dân chủ.” (Điều 6).
Hiến pháp là một văn kiện chính trị thể hiện tình cảm và ước vọng của quốc dân ở một thời điểm với những vấn nạn quốc gia và xã hội liên hệ. Văn kiện này mang tính chất luật pháp để biểu thị được chức năng hiệu quả hầu hiện thực hóa tình cảm và ước vọng đó. Lawrence H. Tribe, một học giả luật Hiến pháp của đại học Harvard, Hoa Kỳ trong cuốn American Constitutions Law (Luật Hiến Pháp Mỹ) có kể lại một hí họa diễn tả hai chàng tiền phong đến xứ Mỹ từ Âu châu hai thế kỷ trước trên chuyến tàu lịch sử May Flower. Cả hai người đang đứng trên boong tàu, nhìn về phía chân trời Mỹ đang hiện ra. Một chàng nói, “Tự do tôn giáo là mục đích tức thời của tôi, nhưng kế hoạch lâu dài của tôi là đầu tư về địa ốc.”(156) Tribe phân tích câu nói trên tượng trưng cho cái nền tảng giá trị nhị nguyên (duality) trong lịch sử hiến pháp, không những của Hoa Kỳ, mà ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Bởi lịch sử, Tribe nói tiếp, chứa đựng hai năng động khác biệt hẳn nhau: Thứ nhất, năng động của khát vọng nhân bản của cá nhân, đạo đức và tự do; năng động thứ hai là của những quan tâm về những vấn đề vụn vặt và thực tế như lãnh thổ, biên giới và định chế chính trị và xã hội.(lỗ7) Những bận tâm, về hoàn cảnh và lịch sử, như đã nói ở trên, đã thúc đẩy những nhà lập hiến thiết kế những nguyên tắc hiến pháp như những guồng máy cai quản chiều hướng và vận tốc của con thuyền quốc gia trên chuyến viễn hành vô định giữa đại dương bão tố.
Những nguyên tắc hiến pháp nổi bật nhất trong các quốc gia theo mô hình chính trị dân chủ pháp trị của Tây phương, đặc biệt nhất là Hoa Kỳ, gồm [1] Nguyên tắc xác định và phân quyền [2] Nguyên tắc tư pháp ưu thế (judicial supremacy), [3] Nguyên tắc công dân quyền, và [4] Nguyên tắc tu chính hiến pháp, để đương đầu với đổi thay. Dĩ nhiên, mỗi quốc gia phải đương đầu với một hoàn cảnh địa lý, địa phương, lãnh thổ, dân tộc riêng mà hiến pháp của họ phải đương đầu. Như hiến pháp Hoa Kỳ và Nga Xô thì có nguyên tắc Liên Bang (federalism), hay hiến pháp Anh quốc và Nhật Bản thì có nguyên tắc vương quyền biểu tượng.
NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN QUYỀN
Căn bản tư tưởng được chấp nhận sâu rộng nhất cho chính trị dân chủ là quyền lực quốc gia phải bắt nguồn từ dân để phục vụ dân. Nhưng đây là một tư tưởng có tính chất khẩu hiệu biểu trưng hơn là thực tế nếu quốc gia đó không có một cơ chế chính trị hữu hiệu, đặc biệt là hiến pháp, để giới hạn sự lạm dụng của quyền lực nhà nước đối với tập thể công dân. Chính cái thực tế mâu thuẫn giữa lý tưởng dân chủ và thực tế nô lệ đã thúc đẩy những triết gia Âu châu các thế kỷ trước lên tiếng phác họa những cơ bản lý thuyết cho sự kiến tạo một guồng máy chính trị đặt trên văn kiện hiến pháp. Rousseau của Pháp, giữa thế kỷ thứ XVIII, phải kêu lên, “Nhân loại sinh ra tự do nhưng thật ra họ phải bị gông cùm khắp nơi”. Rousseau không thể giải thích được tại sao nhưng ông ta cho rằng vấn đề có thể biện minh hóa bởi một lý thuyết chính trị mới - đạo đức và biện minh của quyền hạn quốc gia phải có từ ý lực toàn dân. Nhưng Rouseau không đi xa hơn về một thực thể cấu trúc cho lý tưởng chính trị đó. Cuối thế kỷ thứ XVII, John Locke của Anh quốc đã nói như Rousseau; nhưng còn đi xa hơn nữa, “Không có ai sinh ra tự do cả!”(158) Triết học luật pháp của Locke, cũng như của Rousseau và Thomas Hobbes, đặt trên quan niệm căn bản rằng luật pháp quốc gia là kết quả của những quyết định của ý lực quốc dân. Nhưng chiếc cầu để bắc ngang được giữa ý lực quốc dân và định chế luật pháp là vãn kiện hiến pháp - một nền tảng căn bản xác định vị trí lý tưởng và giá trị tổng quát để nhà nước căn cứ khi hành xử quyền lực quốc gia. Hiến pháp, theo Locke, là nơi quyền hạn tối cao của quốc gia (sovereignty) được xác định, và phân quyền cho ba nhánh: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Locke nhấn mạnh quyền lập pháp vì nhánh này được đặt căn bản quyền hạn trên nền tảng giá trị luật tự do. Trong khi đó, Montesquieu của Pháp trong cuốn Tinh Thần Luật Pháp xuất bản năm 1748 đặt trọng tâm của chính trị để giải quyết những vấn nạn công lý của xã hội mà quốc gia là một cơ chế luật pháp. Tuy nhiên, Montesquieu ý thức được cái hiểm họa của sự tập trung quyền hành vào trong tay một cá nhân, một cơ quan hay một phân nhánh chính quyền. Muốn giảm thiểu mối hiểm họa này, Montesquieu chủ trương nguyên tắc phân quyền chính trị của guồng máy nhà nước với chủ trương liên hệ hỗ tương trên căn bản độc lập mà người Mỹ hệ thống hóa thành lý thuyết chính trị quen thuộc “Kiểm Soát và Quân Bình” (check and balance); tự do công dân có thể được bảo đảm bằng những định chế chính trị để phân tán quyền lực, nhánh này kiểm soát nhánh kia và đòi hỏi một liên hệ hỗ tương cần thiết khi hành xử quyền lực quốc gia có ảnh hưởng đến quyền lợi chung.
Cái liên hệ hỗ tương nhưng độc lập được phác họa bởi James Madison trong The Federalist Papers rằng quyền hạn của một chi nhánh đều được bắt nguồn và tùy thuộc vào phân nhánh khác. Ví dụ trên phương diện hình luật, lập pháp làm luật, hành pháp truy tố, tư pháp xử án.(159) Chánh án được bổ nhiệm bởi hành pháp (nhiều quốc gia đòi hỏi lập pháp chấp thuận sự bổ nhiệm này). Tức nhiên là mỗi phân nhánh phải được tách biệt và độc lập tuy nhiên trên sự hành xử chức năng mặc dù vai trò và cấu trúc của quyền hạn phải nằm trong phạm trù liên hệ hỗ tương. Vấn đề là mức độ độc lập và định chế hỗ tương nhằm bảo đảm chức năng hành sự để một nhánh không thể áp chế phân nhánh kia đi theo ý lực của mình. Ví dụ điển hình là chánh án tối cao pháp viện Hoa kỳ được bổ nhiệm suốt đời, được miễn tố từ vai trò của mình, và hành pháp và lập pháp không được cắt lương bổng hay quyền lợi của các chánh án này. Trường hợp Hoa Kỳ, vấn đề phân quyền không những chỉ ở phương diện chiều ngang ở mức độ quốc gia với định chế "tam quyền phân lập" - hành pháp, lập pháp, tư pháp - mà còn ở chiều dọc - Liên bang kiểm soát tiểu bang, tiểu bang cai quản độc lập đối với liên bang.
Một số quốc gia khác, nguyên tắc phân quyền chiều dọc còn có đến vị thế của vương quyền như Nhật Bản - hoàn toàn biểu trưng, không mang ý niệm “Thiên Tử” sau Thế Chiến Thứ Hai khi mà uy tín của nhà vua đã bị tiêu hao nặng nề bởi chính sách quân phiệt và xâm lăng trong giai đoạn thế chiến thứ Hai đối với các nước Á châu và Thái Bình Dương với những hậu quả tai hại; hay trường hợp Anh quốc khi vì Vua là Quốc Trưởng nhưng chức năng thì chỉ có tính cách biểu trưng và lễ nghi.
Nguyên tắc phân quyền hàng dọc bao gồm vị thế vương quyền là một nỗ lực để duy trì truyền thống và tính cách biểu tượng của lịch sử; tuy nhiên, cái kết quả chính yếu của nguyên tắc này là tước đoạt tất cả quyền hành từ vị vua và đem trao cho ba phân nhánh của một chế độ dân chủ hiện đại. Do đó, một cái nhìn tổng hợp của các vấn đề phân quyền là [1] Thiết lập cơ chế chính trị để chia sẻ và kiểm soát quyền lực hòng bảo vệ thế quân bình cần thiết, tránh khỏi sự lạm dụng quyền lực từ một cá nhân hay một phân nhánh của chính quyền, và [2] Sự phân phối chức năng để hiệu năng hóa quyền hành và quản trị được bảo đảm hơn. Một thí dụ cho mục tiêu thứ hai này là phía lập pháp sẽ không đáp ứng nổi nhu cầu hành pháp được trên hầu hết tất cả các lãnh vực từ quân sự đến hình luật đến thuế má. Lập pháp cũng không thể có tư thế lãnh đạo hiệu quả và hiệu năng như hành pháp; cũng như không mang bản chất độc lập đối với dư luận công chúng, hay có giá trị lâu dài của vai trò tư pháp. Hơn nữa, nếu lập pháp đóng vai trò hành pháp thì ai sẽ giám sát vấn đề thi hành chính sách và luật pháp vì chính mình không thể giám thị mình với mức độ ngay thẳng và năng động đúng mức được.
Định chế luật hiến pháp Hoa Kỳ, còn có truyền thống “Tư Pháp Ưu Thế” (Judicial Supremacy). Định chế này phát xuất từ quan niệm chính trị bao gồm hai phạm trù: [1] Đối với nguyên tắc phân quyền, nó cho phép tư pháp đóng vai trò quyết định tối hậu để phán xét và quyết định tính cách hợp hiến của hai phía lập pháp và hành pháp, và [2] Đối với giá trị dân chủ, nó cho phép những định chế phản đa số, phản dân chủ đương thời được làm chủ và quyết định hòng đạt được những mục tiêu lâu dài mà hiến pháp quốc gia đã vạch ra. Thứ nhất, đây là quan niệm cho rằng tư pháp là một phân nhánh “ít nguy hiểm nhất” theo quan niệm của Alexander Hamilton của Hoa Kỳ, vì tư pháp không làm được luật, không có tự túc về ngân sách, không có sức mạnh tổ chức hay vũ lực như phía hành pháp có quân đội. Tư pháp có bản chất độc lập, vô tư và không bị áp lực quần chúng nhất thời. Vì thế, tư pháp đã dần dần được công nhận đóng vai trò tối hậu về phán xét tính chất hợp hiến của hành vi nhà nước, chính quyền. Ý niệm “tư pháp ưu thế” bắt nguồn từ thế kỷ XVII ở Anh quốc khi mà tư pháp đóng vai trò quan trọng trong việc chế ngự lập pháp bằng cách tạo án lệ mang bản chất làm luật từ phía các chánh án khi đối đầu với các vấn đề pháp lý đang được tuyên xử. Tuy nhiên, cán cân phân quyền và biên giới xác định giữa hai phía không được đánh dấu rõ ràng cho đến năm 1803 trong án lệnh Marbury V. Madison Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, mới vạch rõ chủ thuyết judicial review (quyền duyệt xét của tư pháp), trong đó, chánh án Marshall sử dụng lời của giám mục Anh Hoadly cả thể kỷ trước đó rằng, “Tư cách duyệt xét luật pháp thực ra mới đóng vai trò làm luật, với tất cả những mục đích và chủ ý, chứ không phải kẻ làm ra luật chính nó,” và tuyên án rằng, “tất cả luật làm nên bởi lập pháp và hành pháp phải hợp hiến mà sự quyết định tối hậu của tính chất hợp hiến nằm ở trong phạm vi quyền hạn của tư pháp.” Án lệ Mabury V. Madison này nói lên cái thực tế của chính trị phân quyền của hiến pháp mà hơn thế kỷ sau một người Mỹ Charles E. Hyphes có nói, “Tất cả chúng ta đều phải tôn trọng hiến pháp, nhưng hiến pháp mang ý nghĩa, nội dung hay tác động nào tùy vào vị chánh án giải thích mà thôi.”(160)
Chủ thuyết judicial review được tồn tại vì nhờ phía tư pháp Hoa Kỳ đóng vai trò khiêm tốn chỉ sử dụng khi cần thiết và với một nền tảng biện minh bằng lý luận pháp lý vững chắc. Từ đó, chủ thuyết này là kết quả của niềm tin vào lý trí vì hơn ai hết, tư pháp có thì giờ, tư cách để nhìn một bộ luật vượt lên trên những áp lực xã hội, chính trị và văn hóa nhất thời hòng nhằm phục vụ một lý tưởng cao đẹp và lâu dài hơn.
Phạm trù liên quan đến nguyên tắc phân quyền trên cũng nằm trộn lẫn trong một chủ thuyết chính trị cao hơn về vai trò của hiến pháp: Tất cả luật đều phải xây dựng trên nền móng hiến pháp vì hiến pháp đại diện cho một lý tưởng lâu dài, nhân bản và căn bản hơn. Điều này có nghĩa là hiến pháp mang thẩm quyền vô hiệu hóa những bộ luật dân chủ đi ngược lại một lý tưởng lớn hơn mặc dù lý tưởng này có thể đã lỗi thời hay là phản dân chủ. Đây là quan niệm nòng cốt để đề phòng hiểm họa quan trọng nhất của chính trị dân chủ, cái mà Alexis de Toqueville gọi là tyrany of the majority (Tính chuyên chế của Đa Số).(161) Nhưng chủ thuyết chính trị này mâu thuẫn với tiền đề chính trị dân chủ căn bản rằng ý lực tổng thể của quốc dân, tức là đa số trong chính trị dân chủ, là quyết định tối hậu. Vậy thì, tư pháp, đứng trên vị thế chính thống nào để phán định rằng đa số là sai khi họ làm luật trái với tinh thần hiến pháp?
Tại sao, ví dụ ở Hoa Kỳ, thế hệ của thập niên 1990-2000 lại phải bị trói buộc bởi những quy tắc hiến pháp đã được đặt ra cho họ hơn 200 năm trước? Câu trả lời nằm trong vấn đề giá trị phổ quát được công nhận và kinh nghiệm lịch sử đối với những giá trị đó. Khi công nhận hiến pháp là một thực thể giá trị có quyền hạn tối cao, căn bản thì quốc dân phải chấp nhận tính bền vững lâu dài của nó. Nhưng nếu giá trị của tập thể công dân, ý lực tổng thể - như Rousseau nói - đã đổi thay đến một mức độ quan trọng, thì hiến pháp cũng có thể đổi thay - nhưng khó khăn hơn để bảo đảm cái tính vững bền - hòng đáp ứng với giá trị mới. Bởi vậy, hiến pháp nào cũng phải có phân định quy luật tu chính để giải quyết vấn nạn đổi thay này. Hiến pháp là cơ chế quan trọng nhất để đương đầu với khủng hoảng và quản trị đổi thay. Hiến pháp không những là một văn kiện tối cao và căn bản, nó còn là một tuyên ngôn giá trị mà quốc gia phải dựa vào đó để tìm cho mình biện minh lịch sử và quốc tế. Hiến pháp phải được bảo vệ như là một định hướng cho quốc dân trong cơn bão tố của tình cảm và quyền lợi nhất thời .
NGUYÊN TẮC CÔNG DÂN QUYỀN
Quyền công dân, hay dân quyền, là những quyền hạn của công dân được quy định bởi hiến pháp để thỏa mãn cái mà chánh án Mỹ Cardozo gọi là "nguyên tắc quyền hạn căn bản có gốc rễ từ truyền thống và lương tri của con người,”(162) trước sự đe dọa của bạo lực và lạm dụng quyền hành của nhà nước và chính quyền. Đi tìm một căn bản biện minh cho dân quyền mới đầu gần như là một sự thừa thải. Tại sao cá nhân, với mỗi ý lực riêng biệt, với tư cách là chủ nhân của quốc gia, giao quyền hạn tổng thể cho nhà nước lại phải phân định những quyền hạn của họ, trên căn bản của mỗi công dân như là một sự ban bố quyền lợi và cho phép từ phía quốc gia? Đây là một luận đề có tính cách lý thuyết vì thực tế thì công dân tính ra đời sau khi quốc gia tính đã được thiết kế. Khi chưa có cơ bản quốc gia, cá nhân chỉ mang được những quyền hạn tự nhiên - nhưng quyền hạn tự nhiên đối với ai? Đối với láng giềng? Với thiên nhiên? Tôn giáo? Chính mình? Thomas Paine, một lý thuyết gia cực đoan của nhân quyền và dân quyền thời cách mạng Pháp 1787 xác định trong cuốn Quyền Hạn Con Người (The Rights of Man) rằng cá nhân trong xã hội có hai phạm trù quyền hạn: quyền tự nhiên (natural rights) và dân quyền (civil rights). Paine giải thích:
Quyền tự nhiên có căn bản trên sự hiện hữu của con người. Ví dụ như quyền tư duy, quyền tư tưởng, và những quyền hạn theo đuổi đời sống và hạnh phúc cá nhân mà không có ảnh hưởng tiêu cực đến quyền tự nhiên của người khác. Còn dân quyền thì được đặt căn bản trên tư cách là một thành viên của xã hội. Mỗi quyền hạn trên phạm trù dân quyền đều đặt nền móng trên quyền tự nhiên đã có sẵn nhưng sự hưởng đạt của nó không được bảo đảm.(163)
Có nghĩa rằng, dân quyền là những quyền hạn cá nhân mà tự mỗi chính họ không thể hoàn tất hay bảo đảm được, ví dụ quyền chính trị, như bầu cử, chẳng hạn. Vì thế mỗi cá nhân, thể hiện quyền hạn cá nhân, quy nạp sức mạnh tổng thể, để tái xác nhận một tầm mức quyền hạn cao hơn, đặt căn bản trên tập thể - đó là công dân quyền. Câu hỏi được đặt ra ở đây là cá nhân phải dựa trên căn bản quyền hạn nào để ủy thác quyền tập thể cho quốc gia? Paine trả lời, trong dòng thác tư tưởng của Hobbes và Rousseau rằng, tập thể công dân, tự chính họ thiết lập một cơ chế khế ước tổng thể để ủy thác quyền lực cho quốc gia. Nếu thế thì tại sao hiến pháp lại phải minh định quyền của họ vì họ, công dân và tập thể chung, chưa ủy giao phạm trù dân quyền cho quốc gia? Đây là tiền đề chính trị hiến pháp căn bản và khó giải quyết nhất. Hiến pháp của Hoa Kỳ phải đương đầu với vấn nạn này trên một bối cảnh khác trong tu chính số Mười vào năm 1791: "Quyền hạn không được ủy thác cho chính quyền Liên bang bởi hiến pháp, cũng không bị ngăn cấm bởi hiến pháp Liên bang khi ủy thác cho các Tiểu bang, đều được hành xử bởi các Tiểu bang, hay bởi quốc dân. Trong khi đó, Tu chính án số Chín xác định rõ là những quyền hạn không được minh định đều vẫn là của quốc dân (retained by the people). Tu chính án số Mười chỉ làm sáng tỏ điều I, khoản 8 đối với enumerated powers (quyền hạn đã được minh định) cũng như giới hạn quyền làm luật của quốc hội phải đặt căn bản trên sự cần thiết và thích đáng (“necessary and proper”) mà thôi. Vì quan niệm cũng như niềm tin vào tiền đề và giá trị của nguyên tắc ủy quyền trên mà các nhà lập hiến Mỹ không minh xác dân quyền một cách rõ ràng cho đến mấy năm sau bằng một loạt những tu chính án dân quyền (The Bill of Rights).
Một vấn đề nữa của nguyên tắc pháp lý là “Những gì mà luật pháp không cấm là không bất hợp pháp.” Điều này không có nghĩa là những gì không cấm là hợp pháp hay được tự do hành động. (Ví dụ tự tử không phải là một quyền hạn hay là hợp pháp; nhưng nó chỉ không bất hợp pháp mà thôi). Nguyên tắc pháp lý này tái xác nhận quyền hạn tối thượng của công dân mà từ đó luật pháp được thiết kế. Hơn nữa, thực tế không cho phép luật pháp liệt kê hết tất cả, ví dụ, những gì bạn có thể làm ở trong nhà bạn, mà chỉ có thể liệt kê những gì bị cấm đoán mà thôi. Từ đó, trên nguyên tắc dân quyền của hiến pháp, văn kiện này phải xác nhận cái tiền đề chính trị căn bản trên; nghĩa là, những gì không được minh định là quyền hạn của quốc gia là quyền của công dân.
Trong cuốn Reflections On the Revolution in Europe (Suy Tưởng Vê Cuộc Cách Mạng Ở Ầu Châu), xuất bản năm 1990, Ralf Dahrendorf viết thư cho một người bạn ở Ba Lan về cuộc cách mạng 1989-1990 ở Đông Âu, Dahrendorf nói rằng sau hơn 40 năm xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, về phương diện chính trị hiến pháp, Đông Âu không đạt được một điều nào cả vì tất cả những quyền xã hội, ví dụ như quyền làm việc, đều không mang thực chất pháp lý. Vì không có chánh án nào có thể ra lệnh cưỡng chế cái quyền làm việc được; mặc dù, quyền có công ăn việc làm là một ưu tiên chính trị kinh tế cần thiết. Ông quan niệm rằng quyền không làm việc có lẽ có lý hơn để bảo vệ công dân khỏi sự lao động cưỡng bách.(164) Thực ra điều này hiến pháp Hoa Kỳ đã có minh định rõ trong tu chính án số Tám năm 1865 hủy bỏ chế độ nô lệ và cưỡng bách lao động.
Ngoài việc liệt kê những quyền hạn có tính chất tích cực, hiến pháp phải đồng thời quân bình với những quyền hạn có tính chất thụ động - như quyền tự do báo chí tích cực phải cân bằng với quyền được miễn tiếp nhận truyền thông từ bất cứ của ai, chính quyền hay cá nhân. Quyền này rất quan trọng nhất là trong các quốc gia mà chính quyền cưỡng bách dân chúng phải học tập, lắng nghe tuyên truyền, và nhất là phải đọc những khẩu hiểu lố lãng và vô nghĩa trên đường phố, thôn xóm, hay phải chịu loa phóng thanh phát ra inh ỏi ở các nơi bất cứ giờ phút nào. Quyền không được cưỡng bách lao động phải cân đối với quyền tự do lao động; quyền không phải là đảng viên của một đảng phái chính trị đối với quyền tự do đảng phái; quyền tự do đi lại, hội họp, phải quân bình bằng quyền tư riêng (privacy right) như trong những phát triển gần đây của luật hiến pháp Hoa Kỳ. Hay là một nguyên tắc quân bình mới hơn là quyền phá thai, nếu có, phải quân bình bằng quyền được sinh ra đời cho các thai nhi. Hoặc thí dụ khác, hiến pháp Nigeria, Phi Châu 1960, điều 32 cân bằng quyền tự do ngôn luận, ý kiến bằng quyền tiếp nhận tư tưởng và ngôn luận mà không bị ngăn cản. Do đó, khi chính quyền duyệt một bài báo, một bản tin không phải chỉ quyền ngôn luận của người làm báo bị đe dọa (quyền tích cực) mà quyền được tiếp nhận, đọc, nghe (thụ động) cũng bị vi phạm. Kinh nghiệm của nhiều nền dân chủ chưa trưởng thành cho thấy, như trường hợp của Negeria sau khi Anh quốc trả độc lập, cần nhu cầu chi tiết hóa những định chế về truyền thông để bảo đảm tự do ngôn luận cho quần chúng. Chính quyền ở các nước chậm tiến thường độc quyền về vô tuyến truyền thanh và truyền hình, những tờ báo lớn bị đặt dưới ảnh hưởng của nhà nước, và loại bỏ hết hệ thống báo chí và các phương tiện truyền thông tư nhân. Đây chính là vấn nạn lớn cho chiều hướng củng cố dân chủ hiến pháp vì có quyền mà không có thế và phương tiện để thực thi quyền đó thì chỉ là những văn tự trừu tượng thiếu thực chất.
Chúng tôi không muốn nêu hết tất cả những quyền hạn của công dân phải được minh định bởi hiến pháp. Nhưng những nguyên tắc và lý luận trên chỉ nêu lên những điểm quan trọng trong cái nhìn chính trị hiến pháp dưới con mắt pháp lý. Nói theo Charles Mcllwain thì bản chất hiến pháp có một chức năng nổi bật nhất - đó là một giới hạn pháp chế đối với chính quyền và nhà nước.(165) Nhưng quan niệm này phải được dàn xếp ổn thỏa trên căn bản ý thức rằng chính quyền và quốc gia sinh ra bởi và từ dân là sản phẩm tổ chức mang tính chất pháp chế mà chủ nhân của cơ chế này là quốc dân. James Madison, một người đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo hiến pháp Hoa Kỳ, lúc đầu đã phản đối mạnh mẽ việc bao gồm những quyền hạn công dân trong văn kiện hiến pháp vì lẽ rằng như thế không cần thiết và hơn nữa, như đã nói ở trên, hiến pháp không thể liệt kê hết tất cả những quyền hạn. Mà nếu đã liệt kê thì phải chi tiết, dài dòng và không hoàn toàn. Khi đó, những quyền hạn không được liệt ra có thể bị coi là không được tôn trọng và bảo vệ.(166) Nhưng sau đó, Madison cũng phải ủng hộ sự minh định quyền hạn công dân bằng những Tu Chính Án Dân Quyền (Bill of Rights) vì theo ông, thứ nhất, dù không hoàn toàn liệt kê, những quyền căn bản của hiến pháp khi nêu ra sẽ tạo một nền tảng giá trị đối diện với sức mạnh và bản chất lạm dụng của chính quyền. Thứ hai, sự minh định này kiến tạo một giá trị giáo dục công dân ý thức được quyền hạn của quốc dân và giới hạn của nhà nước. Hiến pháp chỉ là “mảnh giấy lộn” nếu giới lãnh đạo nhà nước không ý thức và không có tinh thần tôn trọng; hay nếu văn hóa và bối cảnh chính trị và xã hội chưa đủ tầm mức cho một cơ chế hiến pháp dân chủ thực thi. Madison nói đến cái thảm trạng giấc mơ và sự quyến rũ quyền lực “là cái năng lực cao độ nhất nhì trong những trái tim của con người mà “ít người có thể vượt qua nếu có cơ hội để lạm dụng nó.”(167) Ông nói tiếp, “Trong sự kiến tạo một chính quyền để con người quản trị con người, cái khó là ở chỗ: Trước hết, chính quyền có khả năng cai trị; nhưng cái khó hơn là khả năng tự chế và tự giới hạn bởi chính nó”.(168) Tự chế và tự giới hạn đòi hỏi truyền thống văn hóa và chính trị mà trong đó, cái mà Alexis De Tocqueville gọi là civil society (cơ chế dân sự) đã trưởng thành để tạo một đối lực khả thể cũng như tạo sự tương kính và tin tưởng của các nhà lãnh đạo. Để từ đó, lịch sử chính trị quốc gia không phải bị tan rã vì sự sụp đổ của một chế độ như trường hợp Nam Việt Nam năm 1963 tổng thống Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: “Sau ta (nếu không có ta) là hồng thủy”.
(phần 2)
Chú thích:
[1] Anh quốc không có hiến pháp thành văn mà chỉ có một hệ thống pháp lý tổng hợp của truỳên thống và tiên lệ pháp chế mà thôi.
[2] Những đặc thù của hiến pháp Hoa Kỳ là sự ngấn gọn, tổng quát để cho phép sự diễn giải được linh dộng theo thờỉ gian và hoàn cảnh.
[3] Hans Kelsen dề nghị trong cuốn General Theory of State and Law (Lý Thuyết Đại Cương Về Quốc Gia và Pháp Luật) (1945) rằng nên có một tòa án hiến pháp, chỉ định bởi lập pháp, để duyệt xét tính hợp hiến của một đạo luật quốc gia. Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa Miên Nam Việt Nam (1957-1963) có điêu 86 quy định "Viện Bảo Hiến" cho mục đích này. Nhưng "Viện Bảo Hiến" cũng như Quốc Hội là những cơ chế mang bản chất năng động chính trị nhất thời cao độ khó mà giữ được vị thế dộc lập, thuần pháp lý. Tôi đề nghị là chỉ có Tối Cao Pháp Viện - như mô thức Hoa Kỳ - có quyền cứu xét tính hợp hiến của Đạo Luật; nhưng, muốn phán quyết một đạo luật là bất hợp hiến phải cần toàn thể hay ít nhất là ba phần tư chánh án - hơn là da số đơn giản.
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Sáu, 01/03/2013
nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20130228/nguyen-huu-liem-nhung-nguyen-tac-hien-phap-1
======================================================================
Nguyễn Hữu Liêm - Những Nguyên tắc Hiến pháp (2)
Nguyễn Hữu Liêm
LS Nguyễn Hữu Liêm
Trong khi đó hiến pháp Cộng Hòa Liên Bang Đức (Tây Đức) 1949 thể hiện mối kinh hoàng của giai đoạn lịch sử độc tài Hitler và chiến tranh khủng khiếp của Đệ Nhị Thế Chiến cũng như mặc cảm bị chiếm đóng của quân đội Đồng Minh và thảm trạng phân chia của đất nước. Những mối bận tâm này là nguyên nhân của nguyên tắc dân quyền được đặt lên hàng đầu và không thể được tu chính; cũng như sự nhấn mạnh đến tính chất tương quan của chính quyền địa phương (lander governments) đối với chính quyền trung ương quôc gia.
Hiến pháp Nhật Bản 1947, dưới sự chiếm đóng của Mỹ, vì bận tâm đến nạn quân phiệt và tham vọng quân sự viễn chinh, đã giảm thiểu tối đa vai trò quân đội (điều 9) đặt hoàn toàn dưới thẩm quyền dân sự, và không cho sử dụng quân đội ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Hiến pháp Đệ tứ cộng hòa Pháp 1958 thể hiện sự bất mãn với tình trạng bất nhất, thiếu hiệu năng của cơ chế nghị viện, điển hình là từ vị khủng hoảng ở thuộc địa Algeria, đã kiến tạo nguyên tắc trọng hành pháp với nhiều quyền năng cho phía hành pháp; trong khi đó đánh nhẹ những nguyên tắc dân quyền vì dân Pháp đã nằm lòng và nội dụng hóa Bản Tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền 1789 trong đời sống chính trị của họ.
Hiến pháp của Cộng hoà liên bang Sô Viết 1936 và 1977 bận tâm đến quyền lực chính quyền trung ương thể hiện trên hai nguyên tắc thẩm quyền nhà nước Liên bang và “dân chủ trung ương” (“democratic centralism”) (Điều 108 và 3). Cũng tương tự như thế, Hiến pháp của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam 1980 thể hiện mối bận tâm trung ương tập quyền và đảng trị cũng có “Đảng Cộng sản Việt Nam,... là lực lượng, duy nhất lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo xã hội,” (Điều 4), và nguyên tắc “tập trung dân chủ.” (Điều 6).
Hiến pháp là một văn kiện chính trị thể hiện tình cảm và ước vọng của quốc dân ở một thời điểm với những vấn nạn quốc gia và xã hội liên hệ. Văn kiện này mang tính chất luật pháp để biểu thị được chức năng hiệu quả hầu hiện thực hóa tình cảm và ước vọng đó. Lawrence H. Tribe, một học giả luật Hiến pháp của đại học Harvard, Hoa Kỳ trong cuốn American Constitutions Law (Luật Hiến Pháp Mỹ) có kể lại một hí họa diễn tả hai chàng tiền phong đến xứ Mỹ từ Âu châu hai thế kỷ trước trên chuyến tàu lịch sử May Flower. Cả hai người đang đứng trên boong tàu, nhìn về phía chân trời Mỹ đang hiện ra. Một chàng nói, “Tự do tôn giáo là mục đích tức thời của tôi, nhưng kế hoạch lâu dài của tôi là đầu tư về địa ốc.”(156) Tribe phân tích câu nói trên tượng trưng cho cái nền tảng giá trị nhị nguyên (duality) trong lịch sử hiến pháp, không những của Hoa Kỳ, mà ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Bởi lịch sử, Tribe nói tiếp, chứa đựng hai năng động khác biệt hẳn nhau: Thứ nhất, năng động của khát vọng nhân bản của cá nhân, đạo đức và tự do; năng động thứ hai là của những quan tâm về những vấn đề vụn vặt và thực tế như lãnh thổ, biên giới và định chế chính trị và xã hội.(lỗ7) Những bận tâm, về hoàn cảnh và lịch sử, như đã nói ở trên, đã thúc đẩy những nhà lập hiến thiết kế những nguyên tắc hiến pháp như những guồng máy cai quản chiều hướng và vận tốc của con thuyền quốc gia trên chuyến viễn hành vô định giữa đại dương bão tố.
Những nguyên tắc hiến pháp nổi bật nhất trong các quốc gia theo mô hình chính trị dân chủ pháp trị của Tây phương, đặc biệt nhất là Hoa Kỳ, gồm [1] Nguyên tắc xác định và phân quyền [2] Nguyên tắc tư pháp ưu thế (judicial supremacy), [3] Nguyên tắc công dân quyền, và [4] Nguyên tắc tu chính hiến pháp, để đương đầu với đổi thay. Dĩ nhiên, mỗi quốc gia phải đương đầu với một hoàn cảnh địa lý, địa phương, lãnh thổ, dân tộc riêng mà hiến pháp của họ phải đương đầu. Như hiến pháp Hoa Kỳ và Nga Xô thì có nguyên tắc Liên Bang (federalism), hay hiến pháp Anh quốc và Nhật Bản thì có nguyên tắc vương quyền biểu tượng.
NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH VÀ PHÂN QUYỀN
Căn bản tư tưởng được chấp nhận sâu rộng nhất cho chính trị dân chủ là quyền lực quốc gia phải bắt nguồn từ dân để phục vụ dân. Nhưng đây là một tư tưởng có tính chất khẩu hiệu biểu trưng hơn là thực tế nếu quốc gia đó không có một cơ chế chính trị hữu hiệu, đặc biệt là hiến pháp, để giới hạn sự lạm dụng của quyền lực nhà nước đối với tập thể công dân. Chính cái thực tế mâu thuẫn giữa lý tưởng dân chủ và thực tế nô lệ đã thúc đẩy những triết gia Âu châu các thế kỷ trước lên tiếng phác họa những cơ bản lý thuyết cho sự kiến tạo một guồng máy chính trị đặt trên văn kiện hiến pháp. Rousseau của Pháp, giữa thế kỷ thứ XVIII, phải kêu lên, “Nhân loại sinh ra tự do nhưng thật ra họ phải bị gông cùm khắp nơi”. Rousseau không thể giải thích được tại sao nhưng ông ta cho rằng vấn đề có thể biện minh hóa bởi một lý thuyết chính trị mới - đạo đức và biện minh của quyền hạn quốc gia phải có từ ý lực toàn dân. Nhưng Rouseau không đi xa hơn về một thực thể cấu trúc cho lý tưởng chính trị đó. Cuối thế kỷ thứ XVII, John Locke của Anh quốc đã nói như Rousseau; nhưng còn đi xa hơn nữa, “Không có ai sinh ra tự do cả!”(158) Triết học luật pháp của Locke, cũng như của Rousseau và Thomas Hobbes, đặt trên quan niệm căn bản rằng luật pháp quốc gia là kết quả của những quyết định của ý lực quốc dân. Nhưng chiếc cầu để bắc ngang được giữa ý lực quốc dân và định chế luật pháp là vãn kiện hiến pháp - một nền tảng căn bản xác định vị trí lý tưởng và giá trị tổng quát để nhà nước căn cứ khi hành xử quyền lực quốc gia. Hiến pháp, theo Locke, là nơi quyền hạn tối cao của quốc gia (sovereignty) được xác định, và phân quyền cho ba nhánh: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Locke nhấn mạnh quyền lập pháp vì nhánh này được đặt căn bản quyền hạn trên nền tảng giá trị luật tự do. Trong khi đó, Montesquieu của Pháp trong cuốn Tinh Thần Luật Pháp xuất bản năm 1748 đặt trọng tâm của chính trị để giải quyết những vấn nạn công lý của xã hội mà quốc gia là một cơ chế luật pháp. Tuy nhiên, Montesquieu ý thức được cái hiểm họa của sự tập trung quyền hành vào trong tay một cá nhân, một cơ quan hay một phân nhánh chính quyền. Muốn giảm thiểu mối hiểm họa này, Montesquieu chủ trương nguyên tắc phân quyền chính trị của guồng máy nhà nước với chủ trương liên hệ hỗ tương trên căn bản độc lập mà người Mỹ hệ thống hóa thành lý thuyết chính trị quen thuộc “Kiểm Soát và Quân Bình” (check and balance); tự do công dân có thể được bảo đảm bằng những định chế chính trị để phân tán quyền lực, nhánh này kiểm soát nhánh kia và đòi hỏi một liên hệ hỗ tương cần thiết khi hành xử quyền lực quốc gia có ảnh hưởng đến quyền lợi chung.
Cái liên hệ hỗ tương nhưng độc lập được phác họa bởi James Madison trong The Federalist Papers rằng quyền hạn của một chi nhánh đều được bắt nguồn và tùy thuộc vào phân nhánh khác. Ví dụ trên phương diện hình luật, lập pháp làm luật, hành pháp truy tố, tư pháp xử án.(159) Chánh án được bổ nhiệm bởi hành pháp (nhiều quốc gia đòi hỏi lập pháp chấp thuận sự bổ nhiệm này). Tức nhiên là mỗi phân nhánh phải được tách biệt và độc lập tuy nhiên trên sự hành xử chức năng mặc dù vai trò và cấu trúc của quyền hạn phải nằm trong phạm trù liên hệ hỗ tương. Vấn đề là mức độ độc lập và định chế hỗ tương nhằm bảo đảm chức năng hành sự để một nhánh không thể áp chế phân nhánh kia đi theo ý lực của mình. Ví dụ điển hình là chánh án tối cao pháp viện Hoa kỳ được bổ nhiệm suốt đời, được miễn tố từ vai trò của mình, và hành pháp và lập pháp không được cắt lương bổng hay quyền lợi của các chánh án này. Trường hợp Hoa Kỳ, vấn đề phân quyền không những chỉ ở phương diện chiều ngang ở mức độ quốc gia với định chế "tam quyền phân lập" - hành pháp, lập pháp, tư pháp - mà còn ở chiều dọc - Liên bang kiểm soát tiểu bang, tiểu bang cai quản độc lập đối với liên bang.
Một số quốc gia khác, nguyên tắc phân quyền chiều dọc còn có đến vị thế của vương quyền như Nhật Bản - hoàn toàn biểu trưng, không mang ý niệm “Thiên Tử” sau Thế Chiến Thứ Hai khi mà uy tín của nhà vua đã bị tiêu hao nặng nề bởi chính sách quân phiệt và xâm lăng trong giai đoạn thế chiến thứ Hai đối với các nước Á châu và Thái Bình Dương với những hậu quả tai hại; hay trường hợp Anh quốc khi vì Vua là Quốc Trưởng nhưng chức năng thì chỉ có tính cách biểu trưng và lễ nghi.
Nguyên tắc phân quyền hàng dọc bao gồm vị thế vương quyền là một nỗ lực để duy trì truyền thống và tính cách biểu tượng của lịch sử; tuy nhiên, cái kết quả chính yếu của nguyên tắc này là tước đoạt tất cả quyền hành từ vị vua và đem trao cho ba phân nhánh của một chế độ dân chủ hiện đại. Do đó, một cái nhìn tổng hợp của các vấn đề phân quyền là [1] Thiết lập cơ chế chính trị để chia sẻ và kiểm soát quyền lực hòng bảo vệ thế quân bình cần thiết, tránh khỏi sự lạm dụng quyền lực từ một cá nhân hay một phân nhánh của chính quyền, và [2] Sự phân phối chức năng để hiệu năng hóa quyền hành và quản trị được bảo đảm hơn. Một thí dụ cho mục tiêu thứ hai này là phía lập pháp sẽ không đáp ứng nổi nhu cầu hành pháp được trên hầu hết tất cả các lãnh vực từ quân sự đến hình luật đến thuế má. Lập pháp cũng không thể có tư thế lãnh đạo hiệu quả và hiệu năng như hành pháp; cũng như không mang bản chất độc lập đối với dư luận công chúng, hay có giá trị lâu dài của vai trò tư pháp. Hơn nữa, nếu lập pháp đóng vai trò hành pháp thì ai sẽ giám sát vấn đề thi hành chính sách và luật pháp vì chính mình không thể giám thị mình với mức độ ngay thẳng và năng động đúng mức được.
Định chế luật hiến pháp Hoa Kỳ, còn có truyền thống “Tư Pháp Ưu Thế” (Judicial Supremacy). Định chế này phát xuất từ quan niệm chính trị bao gồm hai phạm trù: [1] Đối với nguyên tắc phân quyền, nó cho phép tư pháp đóng vai trò quyết định tối hậu để phán xét và quyết định tính cách hợp hiến của hai phía lập pháp và hành pháp, và [2] Đối với giá trị dân chủ, nó cho phép những định chế phản đa số, phản dân chủ đương thời được làm chủ và quyết định hòng đạt được những mục tiêu lâu dài mà hiến pháp quốc gia đã vạch ra. Thứ nhất, đây là quan niệm cho rằng tư pháp là một phân nhánh “ít nguy hiểm nhất” theo quan niệm của Alexander Hamilton của Hoa Kỳ, vì tư pháp không làm được luật, không có tự túc về ngân sách, không có sức mạnh tổ chức hay vũ lực như phía hành pháp có quân đội. Tư pháp có bản chất độc lập, vô tư và không bị áp lực quần chúng nhất thời. Vì thế, tư pháp đã dần dần được công nhận đóng vai trò tối hậu về phán xét tính chất hợp hiến của hành vi nhà nước, chính quyền. Ý niệm “tư pháp ưu thế” bắt nguồn từ thế kỷ XVII ở Anh quốc khi mà tư pháp đóng vai trò quan trọng trong việc chế ngự lập pháp bằng cách tạo án lệ mang bản chất làm luật từ phía các chánh án khi đối đầu với các vấn đề pháp lý đang được tuyên xử. Tuy nhiên, cán cân phân quyền và biên giới xác định giữa hai phía không được đánh dấu rõ ràng cho đến năm 1803 trong án lệnh Marbury V. Madison Tối cao pháp viện Hoa Kỳ, mới vạch rõ chủ thuyết judicial review (quyền duyệt xét của tư pháp), trong đó, chánh án Marshall sử dụng lời của giám mục Anh Hoadly cả thể kỷ trước đó rằng, “Tư cách duyệt xét luật pháp thực ra mới đóng vai trò làm luật, với tất cả những mục đích và chủ ý, chứ không phải kẻ làm ra luật chính nó,” và tuyên án rằng, “tất cả luật làm nên bởi lập pháp và hành pháp phải hợp hiến mà sự quyết định tối hậu của tính chất hợp hiến nằm ở trong phạm vi quyền hạn của tư pháp.” Án lệ Mabury V. Madison này nói lên cái thực tế của chính trị phân quyền của hiến pháp mà hơn thế kỷ sau một người Mỹ Charles E. Hyphes có nói, “Tất cả chúng ta đều phải tôn trọng hiến pháp, nhưng hiến pháp mang ý nghĩa, nội dung hay tác động nào tùy vào vị chánh án giải thích mà thôi.”(160)
Chủ thuyết judicial review được tồn tại vì nhờ phía tư pháp Hoa Kỳ đóng vai trò khiêm tốn chỉ sử dụng khi cần thiết và với một nền tảng biện minh bằng lý luận pháp lý vững chắc. Từ đó, chủ thuyết này là kết quả của niềm tin vào lý trí vì hơn ai hết, tư pháp có thì giờ, tư cách để nhìn một bộ luật vượt lên trên những áp lực xã hội, chính trị và văn hóa nhất thời hòng nhằm phục vụ một lý tưởng cao đẹp và lâu dài hơn.
Phạm trù liên quan đến nguyên tắc phân quyền trên cũng nằm trộn lẫn trong một chủ thuyết chính trị cao hơn về vai trò của hiến pháp: Tất cả luật đều phải xây dựng trên nền móng hiến pháp vì hiến pháp đại diện cho một lý tưởng lâu dài, nhân bản và căn bản hơn. Điều này có nghĩa là hiến pháp mang thẩm quyền vô hiệu hóa những bộ luật dân chủ đi ngược lại một lý tưởng lớn hơn mặc dù lý tưởng này có thể đã lỗi thời hay là phản dân chủ. Đây là quan niệm nòng cốt để đề phòng hiểm họa quan trọng nhất của chính trị dân chủ, cái mà Alexis de Toqueville gọi là tyrany of the majority (Tính chuyên chế của Đa Số).(161) Nhưng chủ thuyết chính trị này mâu thuẫn với tiền đề chính trị dân chủ căn bản rằng ý lực tổng thể của quốc dân, tức là đa số trong chính trị dân chủ, là quyết định tối hậu. Vậy thì, tư pháp, đứng trên vị thế chính thống nào để phán định rằng đa số là sai khi họ làm luật trái với tinh thần hiến pháp?
Tại sao, ví dụ ở Hoa Kỳ, thế hệ của thập niên 1990-2000 lại phải bị trói buộc bởi những quy tắc hiến pháp đã được đặt ra cho họ hơn 200 năm trước? Câu trả lời nằm trong vấn đề giá trị phổ quát được công nhận và kinh nghiệm lịch sử đối với những giá trị đó. Khi công nhận hiến pháp là một thực thể giá trị có quyền hạn tối cao, căn bản thì quốc dân phải chấp nhận tính bền vững lâu dài của nó. Nhưng nếu giá trị của tập thể công dân, ý lực tổng thể - như Rousseau nói - đã đổi thay đến một mức độ quan trọng, thì hiến pháp cũng có thể đổi thay - nhưng khó khăn hơn để bảo đảm cái tính vững bền - hòng đáp ứng với giá trị mới. Bởi vậy, hiến pháp nào cũng phải có phân định quy luật tu chính để giải quyết vấn nạn đổi thay này. Hiến pháp là cơ chế quan trọng nhất để đương đầu với khủng hoảng và quản trị đổi thay. Hiến pháp không những là một văn kiện tối cao và căn bản, nó còn là một tuyên ngôn giá trị mà quốc gia phải dựa vào đó để tìm cho mình biện minh lịch sử và quốc tế. Hiến pháp phải được bảo vệ như là một định hướng cho quốc dân trong cơn bão tố của tình cảm và quyền lợi nhất thời .
NGUYÊN TẮC CÔNG DÂN QUYỀN
Quyền công dân, hay dân quyền, là những quyền hạn của công dân được quy định bởi hiến pháp để thỏa mãn cái mà chánh án Mỹ Cardozo gọi là "nguyên tắc quyền hạn căn bản có gốc rễ từ truyền thống và lương tri của con người,”(162) trước sự đe dọa của bạo lực và lạm dụng quyền hành của nhà nước và chính quyền. Đi tìm một căn bản biện minh cho dân quyền mới đầu gần như là một sự thừa thải. Tại sao cá nhân, với mỗi ý lực riêng biệt, với tư cách là chủ nhân của quốc gia, giao quyền hạn tổng thể cho nhà nước lại phải phân định những quyền hạn của họ, trên căn bản của mỗi công dân như là một sự ban bố quyền lợi và cho phép từ phía quốc gia? Đây là một luận đề có tính cách lý thuyết vì thực tế thì công dân tính ra đời sau khi quốc gia tính đã được thiết kế. Khi chưa có cơ bản quốc gia, cá nhân chỉ mang được những quyền hạn tự nhiên - nhưng quyền hạn tự nhiên đối với ai? Đối với láng giềng? Với thiên nhiên? Tôn giáo? Chính mình? Thomas Paine, một lý thuyết gia cực đoan của nhân quyền và dân quyền thời cách mạng Pháp 1787 xác định trong cuốn Quyền Hạn Con Người (The Rights of Man) rằng cá nhân trong xã hội có hai phạm trù quyền hạn: quyền tự nhiên (natural rights) và dân quyền (civil rights). Paine giải thích:
Quyền tự nhiên có căn bản trên sự hiện hữu của con người. Ví dụ như quyền tư duy, quyền tư tưởng, và những quyền hạn theo đuổi đời sống và hạnh phúc cá nhân mà không có ảnh hưởng tiêu cực đến quyền tự nhiên của người khác. Còn dân quyền thì được đặt căn bản trên tư cách là một thành viên của xã hội. Mỗi quyền hạn trên phạm trù dân quyền đều đặt nền móng trên quyền tự nhiên đã có sẵn nhưng sự hưởng đạt của nó không được bảo đảm.(163)
Có nghĩa rằng, dân quyền là những quyền hạn cá nhân mà tự mỗi chính họ không thể hoàn tất hay bảo đảm được, ví dụ quyền chính trị, như bầu cử, chẳng hạn. Vì thế mỗi cá nhân, thể hiện quyền hạn cá nhân, quy nạp sức mạnh tổng thể, để tái xác nhận một tầm mức quyền hạn cao hơn, đặt căn bản trên tập thể - đó là công dân quyền. Câu hỏi được đặt ra ở đây là cá nhân phải dựa trên căn bản quyền hạn nào để ủy thác quyền tập thể cho quốc gia? Paine trả lời, trong dòng thác tư tưởng của Hobbes và Rousseau rằng, tập thể công dân, tự chính họ thiết lập một cơ chế khế ước tổng thể để ủy thác quyền lực cho quốc gia. Nếu thế thì tại sao hiến pháp lại phải minh định quyền của họ vì họ, công dân và tập thể chung, chưa ủy giao phạm trù dân quyền cho quốc gia? Đây là tiền đề chính trị hiến pháp căn bản và khó giải quyết nhất. Hiến pháp của Hoa Kỳ phải đương đầu với vấn nạn này trên một bối cảnh khác trong tu chính số Mười vào năm 1791: "Quyền hạn không được ủy thác cho chính quyền Liên bang bởi hiến pháp, cũng không bị ngăn cấm bởi hiến pháp Liên bang khi ủy thác cho các Tiểu bang, đều được hành xử bởi các Tiểu bang, hay bởi quốc dân. Trong khi đó, Tu chính án số Chín xác định rõ là những quyền hạn không được minh định đều vẫn là của quốc dân (retained by the people). Tu chính án số Mười chỉ làm sáng tỏ điều I, khoản 8 đối với enumerated powers (quyền hạn đã được minh định) cũng như giới hạn quyền làm luật của quốc hội phải đặt căn bản trên sự cần thiết và thích đáng (“necessary and proper”) mà thôi. Vì quan niệm cũng như niềm tin vào tiền đề và giá trị của nguyên tắc ủy quyền trên mà các nhà lập hiến Mỹ không minh xác dân quyền một cách rõ ràng cho đến mấy năm sau bằng một loạt những tu chính án dân quyền (The Bill of Rights).
Một vấn đề nữa của nguyên tắc pháp lý là “Những gì mà luật pháp không cấm là không bất hợp pháp.” Điều này không có nghĩa là những gì không cấm là hợp pháp hay được tự do hành động. (Ví dụ tự tử không phải là một quyền hạn hay là hợp pháp; nhưng nó chỉ không bất hợp pháp mà thôi). Nguyên tắc pháp lý này tái xác nhận quyền hạn tối thượng của công dân mà từ đó luật pháp được thiết kế. Hơn nữa, thực tế không cho phép luật pháp liệt kê hết tất cả, ví dụ, những gì bạn có thể làm ở trong nhà bạn, mà chỉ có thể liệt kê những gì bị cấm đoán mà thôi. Từ đó, trên nguyên tắc dân quyền của hiến pháp, văn kiện này phải xác nhận cái tiền đề chính trị căn bản trên; nghĩa là, những gì không được minh định là quyền hạn của quốc gia là quyền của công dân.
Trong cuốn Reflections On the Revolution in Europe (Suy Tưởng Vê Cuộc Cách Mạng Ở Ầu Châu), xuất bản năm 1990, Ralf Dahrendorf viết thư cho một người bạn ở Ba Lan về cuộc cách mạng 1989-1990 ở Đông Âu, Dahrendorf nói rằng sau hơn 40 năm xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, về phương diện chính trị hiến pháp, Đông Âu không đạt được một điều nào cả vì tất cả những quyền xã hội, ví dụ như quyền làm việc, đều không mang thực chất pháp lý. Vì không có chánh án nào có thể ra lệnh cưỡng chế cái quyền làm việc được; mặc dù, quyền có công ăn việc làm là một ưu tiên chính trị kinh tế cần thiết. Ông quan niệm rằng quyền không làm việc có lẽ có lý hơn để bảo vệ công dân khỏi sự lao động cưỡng bách.(164) Thực ra điều này hiến pháp Hoa Kỳ đã có minh định rõ trong tu chính án số Tám năm 1865 hủy bỏ chế độ nô lệ và cưỡng bách lao động.
Ngoài việc liệt kê những quyền hạn có tính chất tích cực, hiến pháp phải đồng thời quân bình với những quyền hạn có tính chất thụ động - như quyền tự do báo chí tích cực phải cân bằng với quyền được miễn tiếp nhận truyền thông từ bất cứ của ai, chính quyền hay cá nhân. Quyền này rất quan trọng nhất là trong các quốc gia mà chính quyền cưỡng bách dân chúng phải học tập, lắng nghe tuyên truyền, và nhất là phải đọc những khẩu hiểu lố lãng và vô nghĩa trên đường phố, thôn xóm, hay phải chịu loa phóng thanh phát ra inh ỏi ở các nơi bất cứ giờ phút nào. Quyền không được cưỡng bách lao động phải cân đối với quyền tự do lao động; quyền không phải là đảng viên của một đảng phái chính trị đối với quyền tự do đảng phái; quyền tự do đi lại, hội họp, phải quân bình bằng quyền tư riêng (privacy right) như trong những phát triển gần đây của luật hiến pháp Hoa Kỳ. Hay là một nguyên tắc quân bình mới hơn là quyền phá thai, nếu có, phải quân bình bằng quyền được sinh ra đời cho các thai nhi. Hoặc thí dụ khác, hiến pháp Nigeria, Phi Châu 1960, điều 32 cân bằng quyền tự do ngôn luận, ý kiến bằng quyền tiếp nhận tư tưởng và ngôn luận mà không bị ngăn cản. Do đó, khi chính quyền duyệt một bài báo, một bản tin không phải chỉ quyền ngôn luận của người làm báo bị đe dọa (quyền tích cực) mà quyền được tiếp nhận, đọc, nghe (thụ động) cũng bị vi phạm. Kinh nghiệm của nhiều nền dân chủ chưa trưởng thành cho thấy, như trường hợp của Negeria sau khi Anh quốc trả độc lập, cần nhu cầu chi tiết hóa những định chế về truyền thông để bảo đảm tự do ngôn luận cho quần chúng. Chính quyền ở các nước chậm tiến thường độc quyền về vô tuyến truyền thanh và truyền hình, những tờ báo lớn bị đặt dưới ảnh hưởng của nhà nước, và loại bỏ hết hệ thống báo chí và các phương tiện truyền thông tư nhân. Đây chính là vấn nạn lớn cho chiều hướng củng cố dân chủ hiến pháp vì có quyền mà không có thế và phương tiện để thực thi quyền đó thì chỉ là những văn tự trừu tượng thiếu thực chất.
Chúng tôi không muốn nêu hết tất cả những quyền hạn của công dân phải được minh định bởi hiến pháp. Nhưng những nguyên tắc và lý luận trên chỉ nêu lên những điểm quan trọng trong cái nhìn chính trị hiến pháp dưới con mắt pháp lý. Nói theo Charles Mcllwain thì bản chất hiến pháp có một chức năng nổi bật nhất - đó là một giới hạn pháp chế đối với chính quyền và nhà nước.(165) Nhưng quan niệm này phải được dàn xếp ổn thỏa trên căn bản ý thức rằng chính quyền và quốc gia sinh ra bởi và từ dân là sản phẩm tổ chức mang tính chất pháp chế mà chủ nhân của cơ chế này là quốc dân. James Madison, một người đóng vai trò quan trọng trong việc kiến tạo hiến pháp Hoa Kỳ, lúc đầu đã phản đối mạnh mẽ việc bao gồm những quyền hạn công dân trong văn kiện hiến pháp vì lẽ rằng như thế không cần thiết và hơn nữa, như đã nói ở trên, hiến pháp không thể liệt kê hết tất cả những quyền hạn. Mà nếu đã liệt kê thì phải chi tiết, dài dòng và không hoàn toàn. Khi đó, những quyền hạn không được liệt ra có thể bị coi là không được tôn trọng và bảo vệ.(166) Nhưng sau đó, Madison cũng phải ủng hộ sự minh định quyền hạn công dân bằng những Tu Chính Án Dân Quyền (Bill of Rights) vì theo ông, thứ nhất, dù không hoàn toàn liệt kê, những quyền căn bản của hiến pháp khi nêu ra sẽ tạo một nền tảng giá trị đối diện với sức mạnh và bản chất lạm dụng của chính quyền. Thứ hai, sự minh định này kiến tạo một giá trị giáo dục công dân ý thức được quyền hạn của quốc dân và giới hạn của nhà nước. Hiến pháp chỉ là “mảnh giấy lộn” nếu giới lãnh đạo nhà nước không ý thức và không có tinh thần tôn trọng; hay nếu văn hóa và bối cảnh chính trị và xã hội chưa đủ tầm mức cho một cơ chế hiến pháp dân chủ thực thi. Madison nói đến cái thảm trạng giấc mơ và sự quyến rũ quyền lực “là cái năng lực cao độ nhất nhì trong những trái tim của con người mà “ít người có thể vượt qua nếu có cơ hội để lạm dụng nó.”(167) Ông nói tiếp, “Trong sự kiến tạo một chính quyền để con người quản trị con người, cái khó là ở chỗ: Trước hết, chính quyền có khả năng cai trị; nhưng cái khó hơn là khả năng tự chế và tự giới hạn bởi chính nó”.(168) Tự chế và tự giới hạn đòi hỏi truyền thống văn hóa và chính trị mà trong đó, cái mà Alexis De Tocqueville gọi là civil society (cơ chế dân sự) đã trưởng thành để tạo một đối lực khả thể cũng như tạo sự tương kính và tin tưởng của các nhà lãnh đạo. Để từ đó, lịch sử chính trị quốc gia không phải bị tan rã vì sự sụp đổ của một chế độ như trường hợp Nam Việt Nam năm 1963 tổng thống Ngô Đình Diệm đã tuyên bố: “Sau ta (nếu không có ta) là hồng thủy”.
(phần 2)
Chú thích:
[1] Anh quốc không có hiến pháp thành văn mà chỉ có một hệ thống pháp lý tổng hợp của truỳên thống và tiên lệ pháp chế mà thôi.
[2] Những đặc thù của hiến pháp Hoa Kỳ là sự ngấn gọn, tổng quát để cho phép sự diễn giải được linh dộng theo thờỉ gian và hoàn cảnh.
[3] Hans Kelsen dề nghị trong cuốn General Theory of State and Law (Lý Thuyết Đại Cương Về Quốc Gia và Pháp Luật) (1945) rằng nên có một tòa án hiến pháp, chỉ định bởi lập pháp, để duyệt xét tính hợp hiến của một đạo luật quốc gia. Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa Miên Nam Việt Nam (1957-1963) có điêu 86 quy định "Viện Bảo Hiến" cho mục đích này. Nhưng "Viện Bảo Hiến" cũng như Quốc Hội là những cơ chế mang bản chất năng động chính trị nhất thời cao độ khó mà giữ được vị thế dộc lập, thuần pháp lý. Tôi đề nghị là chỉ có Tối Cao Pháp Viện - như mô thức Hoa Kỳ - có quyền cứu xét tính hợp hiến của Đạo Luật; nhưng, muốn phán quyết một đạo luật là bất hợp hiến phải cần toàn thể hay ít nhất là ba phần tư chánh án - hơn là da số đơn giản.
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Sáu, 01/03/2013
nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20130228/nguyen-huu-liem-nhung-nguyen-tac-hien-phap-1
======================================================================
Nguyễn Hữu Liêm - Những Nguyên tắc Hiến pháp (2)
Nguyễn Hữu Liêm
NGUYÊN TẮC BỔN PHẬN CÔNG DÂN
Dan Kemmis, một thị trưởng của thành phố nhỏ Missoula, tiểu bang Montana, Hoa Kỳ, trong một buổi luận đàm trong năm 1990 phát biểu, “Hiến pháp còn đóng vai trò và mang chức năng khác hơn là pháp lý. Nó là một tác động mà trong đó con người tự họ kiến tạo cho chính họ một xã hội.”(169) Kemmis nói tiếp, khi nhìn về quốc gia qua hiến pháp, chúng ta phải từ bỏ hai thái cực mà một phía cái mà cựu tổng thống Mỹ Kennedy hỏi, “Bạn đã làm gì cho quốc gia?”; còn phía kia thì chỉ đến trên tư thế vị kỷ của cá nhân “quyền hành của tôi” (mu rights). Kemmis dựa trên tinh thần của Rousseau và đề nghị, hiến pháp phải thể hiện được mệnh đề, “Dân tộc ta ước vọng gì?” (What do we will as a people?)
Buổi luận đàm mà Kemmis tham dự xuất pháp từ bối cảnh hiện đại Hoa Kỳ mà một số nhà xã hội học Mỹ cho rằng sự thoái hóa của ý thức bổn phận công dân trong cao trào đòi dân quyền từ mọi phía của dân Mỹ. Câu hỏi đặt ra từ số học giả này là, với đà này, liệu hiến pháp Hoa Kỳ phải có những tu chính bao gồm những bổn phận công dân (Bill of Duties) để cân bằng với tu chính quyền hạn (Bill of Rights). Nhìn lại lịch sử Hoa Kỳ, sở dĩ hiến pháp Mỹ không nói đến Bill of Duties vì phạm trù bổn phận là vấn đề đức hạnh công dân (civic virtue). Hiến pháp của Mỹ được kiến tạo để củng cố nền tảng chính quyền liên bang khi mà xã hội công dân của người Mỹ đã có khả năng tự quản. Hơn nữa, đức hạnh công dân, bao gồm ý thức trách nhiệm và bổn phận đối với cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia thuộc về lãnh vực tự giác và tự nguyện. Nếu pháp chế hóa và cưỡng bách hóa phạm trù tự giác thì cái nền tảng đức hạnh sẽ bị phá hủy. Cảm nhận của bổn phận, nếu pháp chế hóa và cưỡng bách hóa phạm trù tự giác thì nền tảng đức hạnh sẽ trở nên một phản đề của tự do - như Edmund Burke của Anh quốc viết sau cách mạng Pháp 1789 rằng nếu nhà nước cưỡng chế bổn phận công dân thì công dân sẽ không còn là một hữu thể đức hạnh (“moral being”) ý thức được thế đúng vào vai trò của mình đối với quốc gia và xã hội nữa.(170) Hay nói theo Christopher P. Stone, Khoa trưởng Luật, Đại học Chicago thì, “cưỡng bách bổn phận bằng luật pháp sẽ làm tàn lụn ý thức tự giác, tự phát của trách nhiệm công dân.”(171) Nhưng thực tế thì sao? Mặc dù hiến pháp Hoa Kỳ không nêu lên bổn phận công dân nhưng nó lại cho phép chính quyền làm luật, pháp chế hóa và cưỡng bách nhiều trách nhiệm công dân như đóng thuế, quân dịch, chu cấp cho phối ngẫu và con cái. Như thế thì dù thế nào đi nữa, quốc gia cũng phải cưỡng chế trách nhiệm công dân. Vấn đề chỉ còn là mức độ và bản chất. Sự cưỡng chế đòi hỏi quân bình đối với quyền hạn và nền tảng tự do cá nhân. Khẩu hiệu cách mạng của dân Mỹ dưới thời còn thuộc địa Anh là sự chống đối bổn phận đóng thuế mà không được đại diện. Do đó, công dân chấp nhận trách nhiệm đóng thuế trên những điều kiện vừa phải, hợp lý, và dân chủ. Hiến pháp Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết 1936 liệt kê một số những bổn phận và trách nhiệm công dân như tuân chấp luật pháp, kỷ luật lao động, chân thật chấp hành nhiệm vụ công cộng, chấp hành lề lối và kỷ cương của cộng đồng xã hội (điều 129) bảo vệ tổ quốc (điều 133). Hiến pháp này được tu chính vào năm 1977 với những điều khoản mới như điều 59: “Công dân hành xử quyền hạn và tự do không thể tách rời khỏi sự thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm,” ngoài ra còn “phải chấp hành với tiêu chuẩn hành vi xã hội chủ nghĩa...” Điều 59 này mang cái khuyết điểm nặng nhất: quyền hạn và tự do chỉ được có như là sự ban phát và điều kiện hóa bởi bổn phận công dân. Đây là nguồn gốc của căn bệnh độc tài vì nhà nước nhân dAnh quốc gia như là một thực thể tối cao, tách rời, và ưu tiên hơn cá nhân để hành xử tập thể quốc dân như là một khí cụ để phục vụ cái trừu tượng “quốc gia”, “tổ quốc” đó. Khuyết điểm kế tiếp là sự công nhận một tiêu chuẩn “hành vi xã hội chủ nghĩa" nào đó để bắt buộc dân chúng phải chấp hành. Đồng ý rằng tinh thần của điều 59 trên không có gì là sai vì quyền hạn và bổn phận phải đi đôi với nhau nhưng khi hiến chế hóa hai phạm trù công dân đó như là một "giấy phép tự do" hay là một điều kiện để được đóng vai trò công dân thì hiến pháp mất đi cái nội dung mà quốc dân mong muốn, ít nhất là trên quan niệm dân chủ Tây phương, rằng quốc gia là cơ chế để phục vụ, là "kẻ đầy tớ" chứ không phải là "ông chủ" tối thượng và tách biệt.
Một đề nghị cho vấn đề này là hãy để một điều khoản hiến pháp tổng quát mang tinh thần trách nhiệm và bổn phận công dân, ví dụ, "Quốc hội có quyền làm luật minh định bổn phận và trách nhiệm công dân." Benjamin Barber của Đại học Rutgers của Hoa Kỳ đề nghị, "Quyền hạn về sự sống (life), liberty (tự do), và mưu cầu hạnh phức (pursuit of happiness) bắt buộc mỗi công dân tham dự vào tiến trình chính trị dân chủ để bảo đảm được những quyền này,"(172) mà tiến trình chính trị dân chủ này bao gồm bổn phận đóng thuế, quân dịch, bỏ phiếu.
Thế còn tình yêu nước thì sao? Hiến pháp Liên Xô 1977 có minh định bổn phận gìn giữ tài sản quốc gia, bảo vệ quyền lợi nhà nước, làm gia tăng quyền lực và danh dự của tổ quốc, bổn phận quốc phòng (điều 61 và 62). Điều 62 cũng nhấn mạnh rằng phản quốc là tội lớn nhất chống lại nhân dân. Barber, như vừa mới được đề cập ở trên, nhấn mạnh đến lãnh vực bổn phận và trách nhiệm công dân. Gần đây, nạn ô nhiễm môi sinh đã gây nên ý thức trách nhiệm công dân mới đó là bổn phận bảo vệ môi sinh, ý thức và cảnh giác đến những mối nguy hại đến môi trường. Nhưng, tôi đồng ý với Barber rằng đây là vấn đề thuộc phạm trù giáo huấn và hình luật hơn là cưỡng bách trách nhiệm.
Đối với các quôc gia, nhất là dưới chế độ Cộng sản như trường hợp Việt Nam sau 1975, Hiến pháp Cộng Hòa Xã Hội Chú Nghĩa Việt Nam 1980, chương V, điều 54 có minh định "quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân," và "nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội." Các nghĩa vụ bao gồm học tập, nuôi, dạy con cái, làm tròn nhiệm vụ "lực lượng xung kích trong phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc..." (Điều 60, 64, 66) Đặc biệt là điều 66 khi được thi hành trong các dự án tập thể, dù cần thiết, nhưng vì quá sức, bất công và vô lý, đã tạo những mầm mống bất mãn lớn để đến nỗi từ năm 1983 về sau nhà nước Việt Nam đã hủy bỏ hầu hết các chương trình nghĩa vụ lao động. Đồng ý rằng nhu cầu lao động tái thiết quốc gia sau chiến tranh rất cao, nhất là Việt Nam khi quốc gia không có ngân sách phát triển, thiếu kỹ thuật, dân chúng thì thụ động phản kháng, ù lỳ, nhưng mọi việc đều phải đúng mức, và vừa phải. (Như trường hợp dự án đập Trấm ở Quảng Trị từ 1977 đến 1980, dân chúng từ Hà Tĩnh đến Quảng Nam phải đi lao động, tự túc ăn uống, làm việc trong điều kiện bất nhân quá độ còn hơn nô lệ.)
Thực sự, vấn đề thi hành điều khoản của hiến pháp về nghĩa vụ công dân là cái chìa khóa của những thảm trạng ở trên. Cái muốn nhấn mạnh ở đây là nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận công dân trên căn bản hiến định nên mang tính chất giáo dục hơn là cưỡng bách, đặt nặng vai trò ý thức, tư duy hơn là điều kiện hóa như là cái giá phải trả để làm công dân. Tôi là công dân của một nước có nghĩa là chủ nhân của quốc gia. Tôi không phải trả giá nghĩa vụ để được ban phát quyền hạn hay tự do. Đó là điểm chính.
NHỮNG NGUYÊN TẮC TU CHÍNH HIẾN PHÁP
Một định chế và thủ tục quy tắc tu chính hiến pháp phải được minh định rõ ràng trong hiến pháp. Quyền tu chính phải được xem như là quyền lập hiến. Mô hình tu chính của Hoa Kỳ tôi nghĩ là thích hợp khi đòi 3/4 phiếu của hai viện quổc hội và 38 trên 50 tiểu bang phê chuẩn hay là một hội nghị tu chính hiến pháp. Như thế quần chúng có quyền ảnh hưởng nhưng không bầu cử trực tiếp. Tu chính có thể được nhưng khó khăn. Phải có một thời gian để cho một dự khoản tu chính thông qua, nếu không thì dự khoản đó phải chết. Một thái cực khác của mô hình tham dự từ quần chúng là hiến pháp tiểu bang California trong đó các dự khoản tu chính (proposition) được đề nạp bởi một túc số chử ký của cử tri (petition) theo luật định để rồi cử tri sẽ trực tiếp bỏ phiếu cho tu chính đó. Mô hình này đã tạo nên vấn đề lạm dụng trầm trọng. Kỳ bầu cử 1990, ở California cử tri phải chọn hơn 20 dự khoản tu chính khác nhau, phức tạp, mâu thuẫn. Dĩ nhiên là mô hình California không thể chấp nhận được ở mức độ quốc gia.
Động cơ và tiến trình tu chính hiến pháp mang bản chất chính trị nhưng hiến pháp chính nó phải quy định những nguyên tắc và thủ tục tu chính. Những quy định này phải được dung hòa giữa hai mục tiêu: [1] Hiến pháp phải mang tính lâu dài, ổn định, bền vứng để kiến tạo căn bản niềm tin, ước vọng và tiên đoán trên cả hai phương diện chính trị và pháp luật; nhưng [2] Hiến pháp phải đương đầu và quản trị được đổi thay và tiến bộ. Nếu hiến pháp không thể tu chính được vì những điều kiện quy tắc quá khó khăn, thì chính nền tảng chính thống hiến pháp đó bị đe dọa bởi đảo chánh, cách mạng, bạo động. Nhưng hiến pháp không thể như là mộ bộ luật thông thường khác để có thể đổi thay quá dễ dàng hay có thể bị xua đuổi theo làn sóng xúc động nhất thời của chính quyền hay của quần chúng.
Đối với các quốc gia chưa được trưởng thành về chính trị hiến pháp thì những điều khoản quy định quyền lực và nhiệm kỳ của giới hành pháp thường bị sửa đổi liên tục vì nhiều lý do: Thứ nhất là bản chất tham vọng quyền hành cố hữu của các nhà lãnh đạo hành pháp. Thứ hai, vì sự khó khăn đương đầu với những chính sách quốc gia mà thường đòi hỏi hành pháp có quyền hành cao hơn. Thứ ba, vì nhu cầu trật tự và ổn định, vì sự thiếu tự tin vào khả năng cai quản của các thế lực và phân nhánh chính trị khác và sự thiếu trưởng thành của cơ chế xã hội dân sự. Trong khi đó thì các điều khoản quy định quyền hạn công dân thì lại bị lạm dụng, bỏ quên vì phía dân sự và tư pháp thường thì bất lực, thụ động hay bị khống chế bởi hành pháp.
Đối với chính trị hiến pháp, từ đó, năng động và quy chế tu chính cũng quan trọng như lập hiến vì đây sự thể hiện sự mưu đạt quyền lực rõ rệt và chính thống nhất trong thể chế dân chủ.
Ngoài ra, hiến pháp còn phải quy định quyền hạn mà hành pháp có thể sử dụng để tuyên bố và cai trị trên căn bản tình trạng "thiết quân luật" trong các tình trạng khẩn cấp quốc gia, cho phép hành pháp đình hoãn tạm thời các phạm trù hiến pháp (bắt giữ, cấm hội họp, biểu tình...) để thực thi một số biện pháp tối cần trong tình trạng nguy ngập mà quốc gia phải đối đầu. Tuy nhiên, đây là quyền hạn dễ bị lạm dụng để hành pháp "tung hỏa mù" nhằm vi phạm hiến pháp, đàn áp chính trị cho tham vọng chính trị hạn hẹp. Do đó, điều khoản này phải được phác họa kỹ lưỡng trên nguyên tắc cân bằng và kiểm soát hỗ tương mà quốc hội phải đóng vai trò tối quan trọng.
VẤN ĐỀ CHÍNH THỐNG VÀ BIỆN MINH QUYỀN HẠN CƯỠNG CHẾ
Quốc gia, khi nói đến giá trị thiêng liêng của tình cảm cá nhân, đã được gán định một ngôi vị cao cả. Như người Việt thường nêu lên một khuôn mặt tôn giáo khi dùng những chữ "hồn thiêng sông núi", "tổ quốc". Từ đó, quốc gia được mang vai trò chính thống để kiến tạo những định chế quyền hành và quyền hạn cưỡng chế đối với xã hội và cá nhân một cách tự nhiên, không bị chất vấn. Người dân phải có lúc phải hỏi tại sao tôi bị cưỡng bách làm điều này hay bị đe dọa bị trừng phạt nếu tôi không làm điều kia. Khi đặt câu hỏi là lúc cá nhân, với tư cách công dân, mang pháp nhân là một ông chủ của cơ chế quốc gia, nhận lại vị trí đúng của mình. Quốc gia, khi đã lột hết những huyền thoại lịch sử, những mầu sắc thiêng liêng huyền bí, thì chỉ là một cơ chế pháp luật, một công ty, mà công dân là một chủ nhân cổ phần, sử dụng quốc gia như là một khí cụ để thỏa mãn những nhu cầu hiện hữu của mình mà thôi. Đây là ý thức căn bản và quan trọng nhất của công dân trên việc phát triển hai phạm trù tư duy của quyền hạn và bổn phận. Từ đó chính thống của luật pháp là sự tự chủ, tự quản mà tập thể quốc dân nắm được cái giềng mối của ý chí và lý trí để phục vụ chính mình. Tôn trọng luật pháp chính là sự tự trọng chính mình cũng như nhửng tương quan cần thiết giữa chính mình và quốic gia.
Đối với quyền hạn cưỡng chế cũng vậy. Không ai có quyền nắm giữ, hay sở hữu, cái quyền hạn cưỡng chế cả. Nó là sự liên hệ giữa cá nhân và tập thể. Nó là bản chất của luật pháp mà quốc dân tự giới hạn chính mình. Luật pháp đóng vai trò như một cơ chế lương tâm đối với đời sống nội tại cá nhân cai quản được hành vi để thực hiện được một hiện hữu thỏa mãn được những nhu cầu vật chất và tinh thần. Lòng yêu "Tổ quốc" chính là tình vị kỷ - yêu chính mình. "Tổ quốc" như là một Thượng đế đối với tình cảm nơi chốn và tập thể mà luật pháp là những điều luật, những "thánh lệnh" của đời sống nội tâm tự giác, tự ý thức, tự xuất phát được thể hiện ra thành một hệ thống định chế và văn kiện tự chế mình. Nhưng vấn đề phải được nhìn dưới những hiện trạng thực tế: Xã hội là một tập thể đầy tranh chấp vì cá nhân là những đơn vị khác biệt. Thêm vào đó, tất cả, từ cá nhân đến tập thể, đều phải đương đầu với chuyển động và đổi thay. Bởi thế dù luật pháp có được kiến tạo và thực thi trong một quốc gia có tiến trình chính trị dân chủ cao và tiến bộ vẫn còn có hiện tượng vong thân pháp lý - luật pháp không thể hiện được ý chí và nhu cầu của cá nhân. Cá nhân vẫn chấp hành luật pháp ở khắp mọi nơi hoàn toàn không vì tự trọng hay kính nể luật pháp mà vì sợ sự trừng phạt của luật pháp. Nhưng chính sự sợ trừng phạt cũng là một phần của tinh thần chấp nhận giá trị cưỡng chế của luật pháp quốc gia. Cá nhân chính trực và vừa phải ở một quốc gia và thời điểm nào đó đều công nhận rằng dù mình không chấp nhận được một điều luật hay một bộ luật; tuy nhiên, không có cá nhân nào đều có thể không đồng ý với hoàn toàn tất cả các luật lệ của xứ sở họ. Vấn đề chỉ là mức độ. Nếu một công dân công nhận và chấp nhận vai trò luật pháp và phần lớn những điều lệ và tinh thần của nó thì nền tảng biện minh cưỡng chế đã được thiết kế.
Từ một góc độ khác, biện minh quyền hạn của luật pháp không phải chỉ thể hiện từ chính trị dân chủ. Chúng ta đều biết rằng dân chủ chỉ là một định hướng lý tưởng chính trị để đạt đến chứ không phải là một thực tế đã được định vị. Ngay cả ở những quốc gia Tây Âu tiền tiến, quyền lực vẫn là một mục tiêu chính trị mà trong đó không có một thực thể đa Số quốc dân nào nắm được cả. Vấn đề giai cấp, chủng tộc, quyền lợi kinh tế, địa phương, trình độ vẫn là những yếu tố quan trọng hơn là tổng số cử tri và tiến trình bầu cử. Câu hỏi, do đó, phải được nêu lên: Nếu trong một quốc gia thiếu dân chủ, ví dụ bị cai trị bởi một chính quyền độc đoán (authoritarian regime), luật pháp là sự thể hiện ý chí của vị lãnh tụ và khối hành pháp của ông, thì biện minh quyền hạn của luật pháp sẽ được nhìn như thế nào?
Dầu sao dân chủ vẫn còn là một thực tế chính trị mới mẻ, chưa được thể hiện tốt đẹp và chỉ có một thiểu số quốc gia theo nó mà thôi. Từ đó, câu trả lời đầu tiên là, chính thể dân chủ có thể có khả năng cung cấp giá trị biện minh của luật pháp cao và hiệu năng; nhưng không vì thế mà kết luận rằng chỉ có chính trị dân chủ mới có được biện minh cưỡng chế cho luật pháp. Chính trị cả ngàn năm nay ở Á Đông vẫn mang đủ biện minh quyền lực cưỡng chế mà không cần dân chủ. Nếu tập thể quốc dân chấp nhận chính thống của chính quyền, vị lãnh đạo (“thiên tử”), thì sự chấp nhận ấy là sự đồng thuận. Mặc dầu sự đồng thuận này không tích cực nhưng đối với quốc dân Á Đông trong các triều đại quân chủ, sự thụ động chấp nhận vẫn thường đi đôi với sự thiếu vắng của năng động ước vọng chính trị. Ngay cả các phong trào cách mạng lớn như "Phản Thanh Phục Minh" ở Trung Hoa ở cuối thế kỷ XIX, như "Cần Vương" ở Việt Nam đầu bán thế kỷ XX đều không nhằm đáp ứng ước vọng nào ngoài thiết lập lại cái nền tảng biện minh quyền lực của một cơ chế chính trị độc tài chuyên chế chứ họ không vì một lý tưởng dân chủ. Cho nên, nếu một cơ chế chính trị dù thiếu dân chủ, dù độc tài nhưng nếu thỏa mãn được những nhu cầu hiện hữu của quốc dân về vật chất củng như về tinh thần trong bối cảnh thiếu vắng một năng động vước vọng đi đôi với trật tự chính trị đó thì giá trị biện minh lãnh đạo và quyền lực của cơ chế đó đã được chấp nhận. Trường hợp ở Singapore, Đài Loan và Nam Hàn trong khoảng từ 1960-1990 đã cho thấy thực tế này. Nhưng các quốc gia trên sẽ không thể kéo dài chính trị thiếu dân chủ được khi mà cao trào và năng động ước vọng dân chủ đang dần dần lên cao từ phía các quốc dân trên. Trường hợp chuyển mình ở Nam Việt Nam vào những năm đầu của thập niên 1960-1970 và ở Nam Hàn vào thập niên 1980-1990 đã cho thây điêều đó.
Vấn đề lãnh đạo, nhất là trên viễn kiến chính trị và luật pháp là hòa giải được thực tế cần thiết của nhu cầu quốc gia đối với năng động ước vọng của quần chúng về ý thức dân chủ. Không ai có thể ngăn cản được cao trào dân chủ ở thời đại này. Cái khó là chủ động được năng lực quốc dân theo trình độ ý thức cũng như mức độ đời sống kinh tế. Đây là một tiến trình chuyển hoá từ ưu tiên xã hội này đến ưu tiên xã hội khác. John Rawls, củng trong cuốn A Theory of Justice (Một Lý Thuyết Vê Công Lý), cho rằng trong hoàn cảnh kinh tế và đời sống vật chất khó khăn, ưu tiên kinh tế đi trước ưu tiên tinh thần. Ông nói, nếu khi điều kiện đời sống vật chất đã được phát triển khả quan, đòi hỏi về tự do và chính trị sẽ đi lên và vượt qua ưu tiên vật chất.(173) Đây có lẽ là một điều kiện không mới lạ gì mà Đài Loan, Singapore và Nam Hàn đã áp dụng, ở các quốc gia này, luật pháp vẫn được tôn trọng và đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia. Sự thành công về kinh tế trong việc nâng cao đời sống vật chất của công dân đã tạo nền tảng biện minh quyền hành và cưỡng bách cho cơ chế luật pháp ở các quốc gia trên mặc dù cơ chế chính trị làm luật không thể hiện được tính dân chủ hiện đại.
Tính chính thống của luật pháp ở các quốc gia quân chủ và độc tài đặt căn bản trên sự chấp nhận của quốc dân đối với vai trò và vị thế của vương quyền và lãnh đạo. Ở đó, ý chí quốc dân là ý chí của vị lãnh đạo. Vị lãnh đạo đại diện và thể hiện ý chí tập thể xã hội qua chính mình. Đây là điều mà Hegel ngụ ý rằng ở Á Đông, chỉ có một người là được tự do; còn ở Tây phương mọi công dân đều được tự do. Ở Á Đông, chỉ có vị vua là có tự do ý lực và kiến tạo luật pháp, thiết lập định chế hỗ tương cho chính quyền và xã hội theo ý mính.(174) Ở Tây phương trong các quốc gia dân chủ, mọi công dân đều có khả năng và có quyền ảnh hưởng đến việc trên. Á Đông, dưới chế độ quân chủ chuyên quyền, nắm đầu dây đầu tiên của sự chuyển mình của ý thức dân quyền, vẫn theo Hegel, còn Tây phương và chính trị dân chủ là đầu dây kia, đại diện cho sự trưởng thành của ý thức đó trong dòng chuyển động của lịch sử để tinh thần tạo hóa (Geist) (Đạo) hiện thực được ý lực tự do.(175)
Đầu mối của chính thống không phải là hình thức cơ chế nhưng là trình độ ý thức của dân chúng. Trật tự của xã hội Á Đông mang bản chất gia đình. Trong suốt gần thế kỷ qua, dân chúng bắt đầu lớn dậy, ý thức được quyền hạn của mình qua sự ảnh hưởng của làn sóng văn hóa chính trị Tây phương. Dân chúng Á Đông bắt đầu chất vấn cái trật tự sẵn có và bắt đầu hành xử sự độc lập cá nhân để tìm lối thoát cho chính mình. Đời sống chính trị quốc gia từ đó bắt đầu xáo động. Chính quyền thì chưa chấp nhận cũng như không tương kính "con cái" nhân dân vừa "mới lớn, chưa trưởng thành", "hỗn hào". Dân chúng thì muốn được quyền thật nhanh. Xung đột và mâu thuẫn nãy sinh. Đây là nguồn gốc của những thảm họa chung cho Á Đông khi mà chính trị dân chủ đã trở thành tiêu chuẩn toàn cầu và toàn diện, phi không gian và vượt qua bản sắc văn hóa cũng như biên giới dân tộc.
Khi công dân bắt đầu đặt câu hỏi về chính thống tính của lãnh đạo là lúc khởi đầu cái ý thức tự giác đối với bổn phận luật pháp. Bởi vì nếu vương quyền quân chủ đã mất đi chiếc áo "thiên tử' thì ai sẽ nhận lấy cái vị thế chủ quyền? Nếu quốc dân chưa có khả năng để tự làm chủ chính mình thì chính trị chưa thể ổn định nếu cơ chế dân chủ bị gán đặt quá vội vàng, quá tiến bộ. Giai đoạn chuyển mình đòi hỏi một bản chất chính trị chuyển tiếp. Trách nhiệm của lãnh đạo trong giai đoạn này là khó khăn nhất. Nó bao gồm cái khả năng duy trì thế chính thống của chính trị nửa dân chủ, nửa độc tài đồng thời cân bằng được những khối năng động xã hội vừa ý thức được tham vọng của mình và bất mãn với hiện trạng. Luật pháp, từ đó, đóng vai trò tối quan trọng không những ở phạm trù cưỡng chế; nhưng quan trọng nhất là chức năng giáo hóa quần chúng. Luật pháp phải duy trì được một khoảng trống vừa phải để tiến trình chuyển hóa có thể đi nhanh và hoàn tất sớm. Plato của Hi Lạp mấy ngàn năm trước đã nhấn mạnh đến vai trò của luật pháp, "Tốt nhất là mọi cá nhân đều được quản trị bởi ý thức nội tại của chính mình. Nhựng nếu điều đó chưa đạt được thì, một tiêu chuẩn ngoại tại phải được thiết lập và cưỡng bách để hướng dẫn họ hòng tạo được sự đồng nhất và quân bằng cho xã hội.”(176) Đây chính là chủ đích của luật pháp nhằm hỗ trợ cá nhân cũng như chính quyền nhằm bồi đắp những công dân như nuôi nấng con cái mà con cái không được tự do cho đến khi tự mỗi người là một công dân có khả năng cai trị bằng ý thức.” Abrabam Lincoln của Hoa Kỳ ở thế kỷ trước cũng nhấn mạnh đến cái tiến trình “nội dung hoá” những giá trị mà hiến pháp đã đặt ra. Tiến trình này là mục tiêu quan trọng và cao cả nhất cho chính trị lãnh đạo.(177)
Cách mấy thế kỷ trước Tây lịch, ở Trung Hoa, Khổng Tử đã nhấn mạnh đến niềm tin vào chính thống tính của lãnh đạo. Khổng Tử đặt bốn vai trò quan trọng nhất cho nhà nước: (1) an ninh, (2) phát triển, (3) an sinh và (4) ổn định quốc dân. Khổng Tử đặt tầm quan trọng cao nhất ở vấn đế ổn định quốc dân khi một đệ tử hỏi, “Dân phải có đủ để ăn; quốc gia phải có quân đội đủ mạnh; và chính trị phải nuôi được niềm tin ở quốc dân.” Được hỏi tiếp nếu phải bỏ đi một thứ trên, Khổng Tử sẩn sàng bỏ quân đội. Còn hai thứ - thực phẩm và niềm tin - Khổng Tử nói, “Ta nghĩ rằng dân có thể thiếu ăn vì lúc nào cũng có đói kém, khó khăn; nhưng quốc gia không thể tồn tại nếu dân chúng mất niềm tin vào lãnh đạo”(178) Cái niềm tin mà Khổng Tử nói đến là tính chính thống của chính quyền và biện minh cưỡng chế của luật pháp. Luật pháp là kết quả của những mâu thuẫn và xung đột trường cửu giữa cá nhân và chính quyền. Nó là guồng máy tự quản, tự chế cho tập thể công dân đứng trước những năng động ước vọng về kinh tế và tinh thần. Luật pháp còn tượng trưng cho nỗ lực tự hướng dẫn của lương tâm và lý trí quốc dân. Nó là hoa quả của văn hóa, của lịch sử; đồng thời, nó là hạt giống quyết định bản sắc của thế hệ kế tiếp.
(Trích Dân Chủ Pháp Trị: Luật Pháp, Công Lý, Tự Do và Trật Tự Xã Hội)
Chú thích:
1 Hay “Chúng ta muốn gì trên cản bản là một quốc dân?”
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Bảy, 02/03/2013
nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20130301/nguyen-huu-liem-nhung-nguyen-tac-hien-phap-2
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Dan Kemmis, một thị trưởng của thành phố nhỏ Missoula, tiểu bang Montana, Hoa Kỳ, trong một buổi luận đàm trong năm 1990 phát biểu, “Hiến pháp còn đóng vai trò và mang chức năng khác hơn là pháp lý. Nó là một tác động mà trong đó con người tự họ kiến tạo cho chính họ một xã hội.”(169) Kemmis nói tiếp, khi nhìn về quốc gia qua hiến pháp, chúng ta phải từ bỏ hai thái cực mà một phía cái mà cựu tổng thống Mỹ Kennedy hỏi, “Bạn đã làm gì cho quốc gia?”; còn phía kia thì chỉ đến trên tư thế vị kỷ của cá nhân “quyền hành của tôi” (mu rights). Kemmis dựa trên tinh thần của Rousseau và đề nghị, hiến pháp phải thể hiện được mệnh đề, “Dân tộc ta ước vọng gì?” (What do we will as a people?)
Buổi luận đàm mà Kemmis tham dự xuất pháp từ bối cảnh hiện đại Hoa Kỳ mà một số nhà xã hội học Mỹ cho rằng sự thoái hóa của ý thức bổn phận công dân trong cao trào đòi dân quyền từ mọi phía của dân Mỹ. Câu hỏi đặt ra từ số học giả này là, với đà này, liệu hiến pháp Hoa Kỳ phải có những tu chính bao gồm những bổn phận công dân (Bill of Duties) để cân bằng với tu chính quyền hạn (Bill of Rights). Nhìn lại lịch sử Hoa Kỳ, sở dĩ hiến pháp Mỹ không nói đến Bill of Duties vì phạm trù bổn phận là vấn đề đức hạnh công dân (civic virtue). Hiến pháp của Mỹ được kiến tạo để củng cố nền tảng chính quyền liên bang khi mà xã hội công dân của người Mỹ đã có khả năng tự quản. Hơn nữa, đức hạnh công dân, bao gồm ý thức trách nhiệm và bổn phận đối với cá nhân, gia đình, cộng đồng, quốc gia thuộc về lãnh vực tự giác và tự nguyện. Nếu pháp chế hóa và cưỡng bách hóa phạm trù tự giác thì cái nền tảng đức hạnh sẽ bị phá hủy. Cảm nhận của bổn phận, nếu pháp chế hóa và cưỡng bách hóa phạm trù tự giác thì nền tảng đức hạnh sẽ trở nên một phản đề của tự do - như Edmund Burke của Anh quốc viết sau cách mạng Pháp 1789 rằng nếu nhà nước cưỡng chế bổn phận công dân thì công dân sẽ không còn là một hữu thể đức hạnh (“moral being”) ý thức được thế đúng vào vai trò của mình đối với quốc gia và xã hội nữa.(170) Hay nói theo Christopher P. Stone, Khoa trưởng Luật, Đại học Chicago thì, “cưỡng bách bổn phận bằng luật pháp sẽ làm tàn lụn ý thức tự giác, tự phát của trách nhiệm công dân.”(171) Nhưng thực tế thì sao? Mặc dù hiến pháp Hoa Kỳ không nêu lên bổn phận công dân nhưng nó lại cho phép chính quyền làm luật, pháp chế hóa và cưỡng bách nhiều trách nhiệm công dân như đóng thuế, quân dịch, chu cấp cho phối ngẫu và con cái. Như thế thì dù thế nào đi nữa, quốc gia cũng phải cưỡng chế trách nhiệm công dân. Vấn đề chỉ còn là mức độ và bản chất. Sự cưỡng chế đòi hỏi quân bình đối với quyền hạn và nền tảng tự do cá nhân. Khẩu hiệu cách mạng của dân Mỹ dưới thời còn thuộc địa Anh là sự chống đối bổn phận đóng thuế mà không được đại diện. Do đó, công dân chấp nhận trách nhiệm đóng thuế trên những điều kiện vừa phải, hợp lý, và dân chủ. Hiến pháp Cộng Hòa Liên Bang Sô Viết 1936 liệt kê một số những bổn phận và trách nhiệm công dân như tuân chấp luật pháp, kỷ luật lao động, chân thật chấp hành nhiệm vụ công cộng, chấp hành lề lối và kỷ cương của cộng đồng xã hội (điều 129) bảo vệ tổ quốc (điều 133). Hiến pháp này được tu chính vào năm 1977 với những điều khoản mới như điều 59: “Công dân hành xử quyền hạn và tự do không thể tách rời khỏi sự thi hành nhiệm vụ và trách nhiệm,” ngoài ra còn “phải chấp hành với tiêu chuẩn hành vi xã hội chủ nghĩa...” Điều 59 này mang cái khuyết điểm nặng nhất: quyền hạn và tự do chỉ được có như là sự ban phát và điều kiện hóa bởi bổn phận công dân. Đây là nguồn gốc của căn bệnh độc tài vì nhà nước nhân dAnh quốc gia như là một thực thể tối cao, tách rời, và ưu tiên hơn cá nhân để hành xử tập thể quốc dân như là một khí cụ để phục vụ cái trừu tượng “quốc gia”, “tổ quốc” đó. Khuyết điểm kế tiếp là sự công nhận một tiêu chuẩn “hành vi xã hội chủ nghĩa" nào đó để bắt buộc dân chúng phải chấp hành. Đồng ý rằng tinh thần của điều 59 trên không có gì là sai vì quyền hạn và bổn phận phải đi đôi với nhau nhưng khi hiến chế hóa hai phạm trù công dân đó như là một "giấy phép tự do" hay là một điều kiện để được đóng vai trò công dân thì hiến pháp mất đi cái nội dung mà quốc dân mong muốn, ít nhất là trên quan niệm dân chủ Tây phương, rằng quốc gia là cơ chế để phục vụ, là "kẻ đầy tớ" chứ không phải là "ông chủ" tối thượng và tách biệt.
Một đề nghị cho vấn đề này là hãy để một điều khoản hiến pháp tổng quát mang tinh thần trách nhiệm và bổn phận công dân, ví dụ, "Quốc hội có quyền làm luật minh định bổn phận và trách nhiệm công dân." Benjamin Barber của Đại học Rutgers của Hoa Kỳ đề nghị, "Quyền hạn về sự sống (life), liberty (tự do), và mưu cầu hạnh phức (pursuit of happiness) bắt buộc mỗi công dân tham dự vào tiến trình chính trị dân chủ để bảo đảm được những quyền này,"(172) mà tiến trình chính trị dân chủ này bao gồm bổn phận đóng thuế, quân dịch, bỏ phiếu.
Thế còn tình yêu nước thì sao? Hiến pháp Liên Xô 1977 có minh định bổn phận gìn giữ tài sản quốc gia, bảo vệ quyền lợi nhà nước, làm gia tăng quyền lực và danh dự của tổ quốc, bổn phận quốc phòng (điều 61 và 62). Điều 62 cũng nhấn mạnh rằng phản quốc là tội lớn nhất chống lại nhân dân. Barber, như vừa mới được đề cập ở trên, nhấn mạnh đến lãnh vực bổn phận và trách nhiệm công dân. Gần đây, nạn ô nhiễm môi sinh đã gây nên ý thức trách nhiệm công dân mới đó là bổn phận bảo vệ môi sinh, ý thức và cảnh giác đến những mối nguy hại đến môi trường. Nhưng, tôi đồng ý với Barber rằng đây là vấn đề thuộc phạm trù giáo huấn và hình luật hơn là cưỡng bách trách nhiệm.
Đối với các quôc gia, nhất là dưới chế độ Cộng sản như trường hợp Việt Nam sau 1975, Hiến pháp Cộng Hòa Xã Hội Chú Nghĩa Việt Nam 1980, chương V, điều 54 có minh định "quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân," và "nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của mình đối với nhà nước và xã hội." Các nghĩa vụ bao gồm học tập, nuôi, dạy con cái, làm tròn nhiệm vụ "lực lượng xung kích trong phong trào thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc..." (Điều 60, 64, 66) Đặc biệt là điều 66 khi được thi hành trong các dự án tập thể, dù cần thiết, nhưng vì quá sức, bất công và vô lý, đã tạo những mầm mống bất mãn lớn để đến nỗi từ năm 1983 về sau nhà nước Việt Nam đã hủy bỏ hầu hết các chương trình nghĩa vụ lao động. Đồng ý rằng nhu cầu lao động tái thiết quốc gia sau chiến tranh rất cao, nhất là Việt Nam khi quốc gia không có ngân sách phát triển, thiếu kỹ thuật, dân chúng thì thụ động phản kháng, ù lỳ, nhưng mọi việc đều phải đúng mức, và vừa phải. (Như trường hợp dự án đập Trấm ở Quảng Trị từ 1977 đến 1980, dân chúng từ Hà Tĩnh đến Quảng Nam phải đi lao động, tự túc ăn uống, làm việc trong điều kiện bất nhân quá độ còn hơn nô lệ.)
Thực sự, vấn đề thi hành điều khoản của hiến pháp về nghĩa vụ công dân là cái chìa khóa của những thảm trạng ở trên. Cái muốn nhấn mạnh ở đây là nghĩa vụ, trách nhiệm, bổn phận công dân trên căn bản hiến định nên mang tính chất giáo dục hơn là cưỡng bách, đặt nặng vai trò ý thức, tư duy hơn là điều kiện hóa như là cái giá phải trả để làm công dân. Tôi là công dân của một nước có nghĩa là chủ nhân của quốc gia. Tôi không phải trả giá nghĩa vụ để được ban phát quyền hạn hay tự do. Đó là điểm chính.
NHỮNG NGUYÊN TẮC TU CHÍNH HIẾN PHÁP
Một định chế và thủ tục quy tắc tu chính hiến pháp phải được minh định rõ ràng trong hiến pháp. Quyền tu chính phải được xem như là quyền lập hiến. Mô hình tu chính của Hoa Kỳ tôi nghĩ là thích hợp khi đòi 3/4 phiếu của hai viện quổc hội và 38 trên 50 tiểu bang phê chuẩn hay là một hội nghị tu chính hiến pháp. Như thế quần chúng có quyền ảnh hưởng nhưng không bầu cử trực tiếp. Tu chính có thể được nhưng khó khăn. Phải có một thời gian để cho một dự khoản tu chính thông qua, nếu không thì dự khoản đó phải chết. Một thái cực khác của mô hình tham dự từ quần chúng là hiến pháp tiểu bang California trong đó các dự khoản tu chính (proposition) được đề nạp bởi một túc số chử ký của cử tri (petition) theo luật định để rồi cử tri sẽ trực tiếp bỏ phiếu cho tu chính đó. Mô hình này đã tạo nên vấn đề lạm dụng trầm trọng. Kỳ bầu cử 1990, ở California cử tri phải chọn hơn 20 dự khoản tu chính khác nhau, phức tạp, mâu thuẫn. Dĩ nhiên là mô hình California không thể chấp nhận được ở mức độ quốc gia.
Động cơ và tiến trình tu chính hiến pháp mang bản chất chính trị nhưng hiến pháp chính nó phải quy định những nguyên tắc và thủ tục tu chính. Những quy định này phải được dung hòa giữa hai mục tiêu: [1] Hiến pháp phải mang tính lâu dài, ổn định, bền vứng để kiến tạo căn bản niềm tin, ước vọng và tiên đoán trên cả hai phương diện chính trị và pháp luật; nhưng [2] Hiến pháp phải đương đầu và quản trị được đổi thay và tiến bộ. Nếu hiến pháp không thể tu chính được vì những điều kiện quy tắc quá khó khăn, thì chính nền tảng chính thống hiến pháp đó bị đe dọa bởi đảo chánh, cách mạng, bạo động. Nhưng hiến pháp không thể như là mộ bộ luật thông thường khác để có thể đổi thay quá dễ dàng hay có thể bị xua đuổi theo làn sóng xúc động nhất thời của chính quyền hay của quần chúng.
Đối với các quốc gia chưa được trưởng thành về chính trị hiến pháp thì những điều khoản quy định quyền lực và nhiệm kỳ của giới hành pháp thường bị sửa đổi liên tục vì nhiều lý do: Thứ nhất là bản chất tham vọng quyền hành cố hữu của các nhà lãnh đạo hành pháp. Thứ hai, vì sự khó khăn đương đầu với những chính sách quốc gia mà thường đòi hỏi hành pháp có quyền hành cao hơn. Thứ ba, vì nhu cầu trật tự và ổn định, vì sự thiếu tự tin vào khả năng cai quản của các thế lực và phân nhánh chính trị khác và sự thiếu trưởng thành của cơ chế xã hội dân sự. Trong khi đó thì các điều khoản quy định quyền hạn công dân thì lại bị lạm dụng, bỏ quên vì phía dân sự và tư pháp thường thì bất lực, thụ động hay bị khống chế bởi hành pháp.
Đối với chính trị hiến pháp, từ đó, năng động và quy chế tu chính cũng quan trọng như lập hiến vì đây sự thể hiện sự mưu đạt quyền lực rõ rệt và chính thống nhất trong thể chế dân chủ.
Ngoài ra, hiến pháp còn phải quy định quyền hạn mà hành pháp có thể sử dụng để tuyên bố và cai trị trên căn bản tình trạng "thiết quân luật" trong các tình trạng khẩn cấp quốc gia, cho phép hành pháp đình hoãn tạm thời các phạm trù hiến pháp (bắt giữ, cấm hội họp, biểu tình...) để thực thi một số biện pháp tối cần trong tình trạng nguy ngập mà quốc gia phải đối đầu. Tuy nhiên, đây là quyền hạn dễ bị lạm dụng để hành pháp "tung hỏa mù" nhằm vi phạm hiến pháp, đàn áp chính trị cho tham vọng chính trị hạn hẹp. Do đó, điều khoản này phải được phác họa kỹ lưỡng trên nguyên tắc cân bằng và kiểm soát hỗ tương mà quốc hội phải đóng vai trò tối quan trọng.
VẤN ĐỀ CHÍNH THỐNG VÀ BIỆN MINH QUYỀN HẠN CƯỠNG CHẾ
Quốc gia, khi nói đến giá trị thiêng liêng của tình cảm cá nhân, đã được gán định một ngôi vị cao cả. Như người Việt thường nêu lên một khuôn mặt tôn giáo khi dùng những chữ "hồn thiêng sông núi", "tổ quốc". Từ đó, quốc gia được mang vai trò chính thống để kiến tạo những định chế quyền hành và quyền hạn cưỡng chế đối với xã hội và cá nhân một cách tự nhiên, không bị chất vấn. Người dân phải có lúc phải hỏi tại sao tôi bị cưỡng bách làm điều này hay bị đe dọa bị trừng phạt nếu tôi không làm điều kia. Khi đặt câu hỏi là lúc cá nhân, với tư cách công dân, mang pháp nhân là một ông chủ của cơ chế quốc gia, nhận lại vị trí đúng của mình. Quốc gia, khi đã lột hết những huyền thoại lịch sử, những mầu sắc thiêng liêng huyền bí, thì chỉ là một cơ chế pháp luật, một công ty, mà công dân là một chủ nhân cổ phần, sử dụng quốc gia như là một khí cụ để thỏa mãn những nhu cầu hiện hữu của mình mà thôi. Đây là ý thức căn bản và quan trọng nhất của công dân trên việc phát triển hai phạm trù tư duy của quyền hạn và bổn phận. Từ đó chính thống của luật pháp là sự tự chủ, tự quản mà tập thể quốc dân nắm được cái giềng mối của ý chí và lý trí để phục vụ chính mình. Tôn trọng luật pháp chính là sự tự trọng chính mình cũng như nhửng tương quan cần thiết giữa chính mình và quốic gia.
Đối với quyền hạn cưỡng chế cũng vậy. Không ai có quyền nắm giữ, hay sở hữu, cái quyền hạn cưỡng chế cả. Nó là sự liên hệ giữa cá nhân và tập thể. Nó là bản chất của luật pháp mà quốc dân tự giới hạn chính mình. Luật pháp đóng vai trò như một cơ chế lương tâm đối với đời sống nội tại cá nhân cai quản được hành vi để thực hiện được một hiện hữu thỏa mãn được những nhu cầu vật chất và tinh thần. Lòng yêu "Tổ quốc" chính là tình vị kỷ - yêu chính mình. "Tổ quốc" như là một Thượng đế đối với tình cảm nơi chốn và tập thể mà luật pháp là những điều luật, những "thánh lệnh" của đời sống nội tâm tự giác, tự ý thức, tự xuất phát được thể hiện ra thành một hệ thống định chế và văn kiện tự chế mình. Nhưng vấn đề phải được nhìn dưới những hiện trạng thực tế: Xã hội là một tập thể đầy tranh chấp vì cá nhân là những đơn vị khác biệt. Thêm vào đó, tất cả, từ cá nhân đến tập thể, đều phải đương đầu với chuyển động và đổi thay. Bởi thế dù luật pháp có được kiến tạo và thực thi trong một quốc gia có tiến trình chính trị dân chủ cao và tiến bộ vẫn còn có hiện tượng vong thân pháp lý - luật pháp không thể hiện được ý chí và nhu cầu của cá nhân. Cá nhân vẫn chấp hành luật pháp ở khắp mọi nơi hoàn toàn không vì tự trọng hay kính nể luật pháp mà vì sợ sự trừng phạt của luật pháp. Nhưng chính sự sợ trừng phạt cũng là một phần của tinh thần chấp nhận giá trị cưỡng chế của luật pháp quốc gia. Cá nhân chính trực và vừa phải ở một quốc gia và thời điểm nào đó đều công nhận rằng dù mình không chấp nhận được một điều luật hay một bộ luật; tuy nhiên, không có cá nhân nào đều có thể không đồng ý với hoàn toàn tất cả các luật lệ của xứ sở họ. Vấn đề chỉ là mức độ. Nếu một công dân công nhận và chấp nhận vai trò luật pháp và phần lớn những điều lệ và tinh thần của nó thì nền tảng biện minh cưỡng chế đã được thiết kế.
Từ một góc độ khác, biện minh quyền hạn của luật pháp không phải chỉ thể hiện từ chính trị dân chủ. Chúng ta đều biết rằng dân chủ chỉ là một định hướng lý tưởng chính trị để đạt đến chứ không phải là một thực tế đã được định vị. Ngay cả ở những quốc gia Tây Âu tiền tiến, quyền lực vẫn là một mục tiêu chính trị mà trong đó không có một thực thể đa Số quốc dân nào nắm được cả. Vấn đề giai cấp, chủng tộc, quyền lợi kinh tế, địa phương, trình độ vẫn là những yếu tố quan trọng hơn là tổng số cử tri và tiến trình bầu cử. Câu hỏi, do đó, phải được nêu lên: Nếu trong một quốc gia thiếu dân chủ, ví dụ bị cai trị bởi một chính quyền độc đoán (authoritarian regime), luật pháp là sự thể hiện ý chí của vị lãnh tụ và khối hành pháp của ông, thì biện minh quyền hạn của luật pháp sẽ được nhìn như thế nào?
Dầu sao dân chủ vẫn còn là một thực tế chính trị mới mẻ, chưa được thể hiện tốt đẹp và chỉ có một thiểu số quốc gia theo nó mà thôi. Từ đó, câu trả lời đầu tiên là, chính thể dân chủ có thể có khả năng cung cấp giá trị biện minh của luật pháp cao và hiệu năng; nhưng không vì thế mà kết luận rằng chỉ có chính trị dân chủ mới có được biện minh cưỡng chế cho luật pháp. Chính trị cả ngàn năm nay ở Á Đông vẫn mang đủ biện minh quyền lực cưỡng chế mà không cần dân chủ. Nếu tập thể quốc dân chấp nhận chính thống của chính quyền, vị lãnh đạo (“thiên tử”), thì sự chấp nhận ấy là sự đồng thuận. Mặc dầu sự đồng thuận này không tích cực nhưng đối với quốc dân Á Đông trong các triều đại quân chủ, sự thụ động chấp nhận vẫn thường đi đôi với sự thiếu vắng của năng động ước vọng chính trị. Ngay cả các phong trào cách mạng lớn như "Phản Thanh Phục Minh" ở Trung Hoa ở cuối thế kỷ XIX, như "Cần Vương" ở Việt Nam đầu bán thế kỷ XX đều không nhằm đáp ứng ước vọng nào ngoài thiết lập lại cái nền tảng biện minh quyền lực của một cơ chế chính trị độc tài chuyên chế chứ họ không vì một lý tưởng dân chủ. Cho nên, nếu một cơ chế chính trị dù thiếu dân chủ, dù độc tài nhưng nếu thỏa mãn được những nhu cầu hiện hữu của quốc dân về vật chất củng như về tinh thần trong bối cảnh thiếu vắng một năng động vước vọng đi đôi với trật tự chính trị đó thì giá trị biện minh lãnh đạo và quyền lực của cơ chế đó đã được chấp nhận. Trường hợp ở Singapore, Đài Loan và Nam Hàn trong khoảng từ 1960-1990 đã cho thấy thực tế này. Nhưng các quốc gia trên sẽ không thể kéo dài chính trị thiếu dân chủ được khi mà cao trào và năng động ước vọng dân chủ đang dần dần lên cao từ phía các quốc dân trên. Trường hợp chuyển mình ở Nam Việt Nam vào những năm đầu của thập niên 1960-1970 và ở Nam Hàn vào thập niên 1980-1990 đã cho thây điêều đó.
Vấn đề lãnh đạo, nhất là trên viễn kiến chính trị và luật pháp là hòa giải được thực tế cần thiết của nhu cầu quốc gia đối với năng động ước vọng của quần chúng về ý thức dân chủ. Không ai có thể ngăn cản được cao trào dân chủ ở thời đại này. Cái khó là chủ động được năng lực quốc dân theo trình độ ý thức cũng như mức độ đời sống kinh tế. Đây là một tiến trình chuyển hoá từ ưu tiên xã hội này đến ưu tiên xã hội khác. John Rawls, củng trong cuốn A Theory of Justice (Một Lý Thuyết Vê Công Lý), cho rằng trong hoàn cảnh kinh tế và đời sống vật chất khó khăn, ưu tiên kinh tế đi trước ưu tiên tinh thần. Ông nói, nếu khi điều kiện đời sống vật chất đã được phát triển khả quan, đòi hỏi về tự do và chính trị sẽ đi lên và vượt qua ưu tiên vật chất.(173) Đây có lẽ là một điều kiện không mới lạ gì mà Đài Loan, Singapore và Nam Hàn đã áp dụng, ở các quốc gia này, luật pháp vẫn được tôn trọng và đã đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế quốc gia. Sự thành công về kinh tế trong việc nâng cao đời sống vật chất của công dân đã tạo nền tảng biện minh quyền hành và cưỡng bách cho cơ chế luật pháp ở các quốc gia trên mặc dù cơ chế chính trị làm luật không thể hiện được tính dân chủ hiện đại.
Tính chính thống của luật pháp ở các quốc gia quân chủ và độc tài đặt căn bản trên sự chấp nhận của quốc dân đối với vai trò và vị thế của vương quyền và lãnh đạo. Ở đó, ý chí quốc dân là ý chí của vị lãnh đạo. Vị lãnh đạo đại diện và thể hiện ý chí tập thể xã hội qua chính mình. Đây là điều mà Hegel ngụ ý rằng ở Á Đông, chỉ có một người là được tự do; còn ở Tây phương mọi công dân đều được tự do. Ở Á Đông, chỉ có vị vua là có tự do ý lực và kiến tạo luật pháp, thiết lập định chế hỗ tương cho chính quyền và xã hội theo ý mính.(174) Ở Tây phương trong các quốc gia dân chủ, mọi công dân đều có khả năng và có quyền ảnh hưởng đến việc trên. Á Đông, dưới chế độ quân chủ chuyên quyền, nắm đầu dây đầu tiên của sự chuyển mình của ý thức dân quyền, vẫn theo Hegel, còn Tây phương và chính trị dân chủ là đầu dây kia, đại diện cho sự trưởng thành của ý thức đó trong dòng chuyển động của lịch sử để tinh thần tạo hóa (Geist) (Đạo) hiện thực được ý lực tự do.(175)
Đầu mối của chính thống không phải là hình thức cơ chế nhưng là trình độ ý thức của dân chúng. Trật tự của xã hội Á Đông mang bản chất gia đình. Trong suốt gần thế kỷ qua, dân chúng bắt đầu lớn dậy, ý thức được quyền hạn của mình qua sự ảnh hưởng của làn sóng văn hóa chính trị Tây phương. Dân chúng Á Đông bắt đầu chất vấn cái trật tự sẵn có và bắt đầu hành xử sự độc lập cá nhân để tìm lối thoát cho chính mình. Đời sống chính trị quốc gia từ đó bắt đầu xáo động. Chính quyền thì chưa chấp nhận cũng như không tương kính "con cái" nhân dân vừa "mới lớn, chưa trưởng thành", "hỗn hào". Dân chúng thì muốn được quyền thật nhanh. Xung đột và mâu thuẫn nãy sinh. Đây là nguồn gốc của những thảm họa chung cho Á Đông khi mà chính trị dân chủ đã trở thành tiêu chuẩn toàn cầu và toàn diện, phi không gian và vượt qua bản sắc văn hóa cũng như biên giới dân tộc.
Khi công dân bắt đầu đặt câu hỏi về chính thống tính của lãnh đạo là lúc khởi đầu cái ý thức tự giác đối với bổn phận luật pháp. Bởi vì nếu vương quyền quân chủ đã mất đi chiếc áo "thiên tử' thì ai sẽ nhận lấy cái vị thế chủ quyền? Nếu quốc dân chưa có khả năng để tự làm chủ chính mình thì chính trị chưa thể ổn định nếu cơ chế dân chủ bị gán đặt quá vội vàng, quá tiến bộ. Giai đoạn chuyển mình đòi hỏi một bản chất chính trị chuyển tiếp. Trách nhiệm của lãnh đạo trong giai đoạn này là khó khăn nhất. Nó bao gồm cái khả năng duy trì thế chính thống của chính trị nửa dân chủ, nửa độc tài đồng thời cân bằng được những khối năng động xã hội vừa ý thức được tham vọng của mình và bất mãn với hiện trạng. Luật pháp, từ đó, đóng vai trò tối quan trọng không những ở phạm trù cưỡng chế; nhưng quan trọng nhất là chức năng giáo hóa quần chúng. Luật pháp phải duy trì được một khoảng trống vừa phải để tiến trình chuyển hóa có thể đi nhanh và hoàn tất sớm. Plato của Hi Lạp mấy ngàn năm trước đã nhấn mạnh đến vai trò của luật pháp, "Tốt nhất là mọi cá nhân đều được quản trị bởi ý thức nội tại của chính mình. Nhựng nếu điều đó chưa đạt được thì, một tiêu chuẩn ngoại tại phải được thiết lập và cưỡng bách để hướng dẫn họ hòng tạo được sự đồng nhất và quân bằng cho xã hội.”(176) Đây chính là chủ đích của luật pháp nhằm hỗ trợ cá nhân cũng như chính quyền nhằm bồi đắp những công dân như nuôi nấng con cái mà con cái không được tự do cho đến khi tự mỗi người là một công dân có khả năng cai trị bằng ý thức.” Abrabam Lincoln của Hoa Kỳ ở thế kỷ trước cũng nhấn mạnh đến cái tiến trình “nội dung hoá” những giá trị mà hiến pháp đã đặt ra. Tiến trình này là mục tiêu quan trọng và cao cả nhất cho chính trị lãnh đạo.(177)
Cách mấy thế kỷ trước Tây lịch, ở Trung Hoa, Khổng Tử đã nhấn mạnh đến niềm tin vào chính thống tính của lãnh đạo. Khổng Tử đặt bốn vai trò quan trọng nhất cho nhà nước: (1) an ninh, (2) phát triển, (3) an sinh và (4) ổn định quốc dân. Khổng Tử đặt tầm quan trọng cao nhất ở vấn đế ổn định quốc dân khi một đệ tử hỏi, “Dân phải có đủ để ăn; quốc gia phải có quân đội đủ mạnh; và chính trị phải nuôi được niềm tin ở quốc dân.” Được hỏi tiếp nếu phải bỏ đi một thứ trên, Khổng Tử sẩn sàng bỏ quân đội. Còn hai thứ - thực phẩm và niềm tin - Khổng Tử nói, “Ta nghĩ rằng dân có thể thiếu ăn vì lúc nào cũng có đói kém, khó khăn; nhưng quốc gia không thể tồn tại nếu dân chúng mất niềm tin vào lãnh đạo”(178) Cái niềm tin mà Khổng Tử nói đến là tính chính thống của chính quyền và biện minh cưỡng chế của luật pháp. Luật pháp là kết quả của những mâu thuẫn và xung đột trường cửu giữa cá nhân và chính quyền. Nó là guồng máy tự quản, tự chế cho tập thể công dân đứng trước những năng động ước vọng về kinh tế và tinh thần. Luật pháp còn tượng trưng cho nỗ lực tự hướng dẫn của lương tâm và lý trí quốc dân. Nó là hoa quả của văn hóa, của lịch sử; đồng thời, nó là hạt giống quyết định bản sắc của thế hệ kế tiếp.
(Trích Dân Chủ Pháp Trị: Luật Pháp, Công Lý, Tự Do và Trật Tự Xã Hội)
Chú thích:
1 Hay “Chúng ta muốn gì trên cản bản là một quốc dân?”
Diên Vỹ gửi hôm Thứ Bảy, 02/03/2013
nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20130301/nguyen-huu-liem-nhung-nguyen-tac-hien-phap-2
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001