Những chi tiết quan trọng bên trong tuyên bố chung Việt – Trung
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
Thủ
tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường và Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng
thảo luận tại Hà Nội ngày 13 tháng 10 năm 2013. AFP PHOTO
Thủ
tướng Lý Khắc Cường đến Việt Nam trong khi quốc tang của Đại tướng Võ
Nguyên Giáp chưa chấm dứt nhưng hai phía Việt-Trung cũng đạt được thỏa
thuận về nhiều phương điện kinh tế và chính trị qua tuyến bố chung của
hai nước. Mặc Lâm phỏng vấn TS kinh tế Phạm Chí Dũng để tìm hiểu thêm
những chi tiết quan trọng bên trong bản tuyên bố chung này.
Xu hướng xem thường dư luận
Mặc Lâm: Trong
một thời gian dài vì ngần ngại dư luận trong nước, Việt Nam không công
bố những ngôn từ như “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định
lâu dài, hướng tới tương lai” và tinh thần “Láng giềng tốt, bạn bè tốt,
đồng chí tốt, đối tác tốt”. (16 chữ vàng, 4 tốt)... tuy nhiên VN đã công
khai lập lại nhóm từ này trong tuyên bố chung giữa hai thủ tướng VN và
TQ vừa mới ký xong. Phải chăng đã đến thời điểm mà Hà Nội không còn xem
dư luận là quan trọng nữa?
TS Phạm Chí Dũng: Tôi
cũng có nhận xét như vậy. Tôi chú ý đến một điều là từ giữa hai năm
2011 đến gần giữa năm 2013 thì 16 chữ vàng và 4 tốt gần như mờ nhạt và
biến mất trong khẩu ngữ quan hệ giữa hai quốc gia Việt Nam và Trung
Quốc. Trước đó hàng loạt động tác gây hấn của Trung Quốc trong khu vực
biển Đông đã gây bức xúc trong dân chúng Việt Nam và đã tạo ra 11 cuộc
biểu tình vào giữa năm 2011. Trong suốt hai năm từ 2011 đến 2013 lãnh
đạo và giới quân sự Trung Quốc đã liên tục gây sức ép buộc Việt Nam phải
nhân nhượng về một số vấn đề chủ quyền biển kể cả những vấn đề thuộc về
chính trị. Trước sự gây hấn đó lãnh đạo Việt Nam đã làm gì?
Tôi cho là có một sự xem thường dư luận nhất định trong giới lãnh đạo Việt Nam và xu hướng xem thường dư luận này ngày càng rõ hơn.-TS Phạm Chí Dũng
Tôi
cho là có một sự xem thường dư luận nhất định trong giới lãnh đạo Việt
Nam và xu hướng xem thường dư luận này ngày càng rõ hơn. Tại vì sau
nhiều hành động gây hấn của Trung Quốc như là đưa hàng ngàn tàu cá, tàu
hải giám xâm phạm vùng biển Trường Sa của Việt Nam, những hành động như
bắn đuổi ngư dân Việt Nam, bắt và đâm hòng tàu cá của ngư dân kể cả phá
hoại tàu khảo sát của Việt Nam rồi diễn ra 11 cuộc biểu tình phản đối
Trung Quốc tại Hà Nội... sau đó lãnh đạo Việt Nam xem như là không có
vấn đề gì và thực tế cho tới nay vẫn xem như thế sau khi đã ra hai tuyên
bố chung.
Giới lãnh đạo cũng bỏ qua kiến nghị
của các cán bộ, đảng viên đặc biệt là những cán bộ lão thành cách mạng
như là ông Nguyễn Trọng Vĩnh. Ông Vĩnh là cựu thiếu tướng quân đội và
cũng là cựu đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc và là một người rất có uy
tín trong quân đội và trong giới ngoại giao. Việt Nam đã không những xem
thường dư luận mà còn có xu hướng, chiều hướng càng ngày càng xem
thường dư luận hơn.
Mặc Lâm: Trong
tuyên bố chung hình như mọi cụm từ thuộc lĩnh vực nhà nước như: công an,
an ninh, tình báo, quốc phòng, báo chí, tuyên giáo... đều thoải mái
mang ra hết cho thấy VN đã mở hết gan ruột ra để hợp tác với TQ. Điều
này có ý nghĩa thế nào?
TS Phạm Chí Dũng: Riêng
cá nhân tôi thì tôi không cho rằng lãnh đạo Việt Nam dám mở hết gan
ruột để đối tác với Trung Quốc lần này bởi hai lý do. Một là vẫn còn
nhiều người trong giới lãnh đạo Việt Nam e ngại tâm địa sâu xa thâm hiểm
của Trung Quốc. Hai nữa dù có muốn mở hết gan ruột thì họ vẫn e ngại sự
phản ứng của dư luận trong nước. Sự phản ứng này từ năm 2011 đến năm
2013 đã cho thấy không chỉ là 11 cuộc biểu tình tại Hà Nội và Sài Gòn mà
còn rất nhiều trí thức và tướng lĩnh đã ký tên kiến nghị với lãnh đạo
nhà nước cần hết sức thận trọng trong mối quan hệ với Trung Quốc.
Thủ
tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường (trái) cùng Chủ tịch Việt Nam Trương Tấn
Sang tại Hà Nội ngày 14 Tháng 10 năm 2013. AFP PHOTO.
Ngoài
ra nó còn có thâm ý như thế này: hiện nay dư luận nhắm vào chuyến đi
của thủ tướng Lý Khắc Cường và cho là có thể tác động tích cực đến một
nhóm lãnh đạo có xu hướng thân thiện với Trung Quốc và do đó có thể làm
giảm sức ảnh hưởng của Mỹ và phương Tây đối với một nhóm lãnh đạo khác
có thể thân thiện với Mỹ và phương Tây.
Những từ
ngữ mà anh vừa đặt ra như công an, an ninh, quốc phòng, tuyên giáo...
thật ra những từ ngữ này là quá trình đã diễn ra từ khoảng gần giữa năm
tới nay. Chẳng hạn như chuyến đi của Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương
Đinh Thế Huynh đến Trung Quốc hợp tác với Ban Tuyên giáo Trung ương của
Trung Quốc. Chuyến đi của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ
Quốc phòng Việt Nam hợp tác về quốc phòng với Bộ Quốc phòng Trung Quốc
và một số hoạt động khác về hợp tác an ninh giữa ngành công an Việt Nam
và công an Trung Quốc.
Thực ra vấn đề quốc phòng
Việt - Trung vẫn chỉ hợp tác ở mức độ bình thường mà thôi và chưa có gì
gọi là mở gan mở ruột ra vì họ vẫn đang thăm dò lẫn nhau. Có điều là
Việt Nam và Trung Quốc đang thiên về hợp tác an ninh đối nội vì hiện nay
bối cảnh của hai nước đang phải đối mặt với làn sóng dân chủ, nhân
quyền và những phản ứng xã hội diện rộng và sâu đang dâng lên, do đó họ
thấy cần phải xiết chặt an ninh và đỉnh cao là không khí an ninh đối
nội.
Bất lợi kinh tế cho VN
Mặc Lâm: Là
một TS kinh tế ông có đồng ý qua tuyên bố chung này VN và TQ có được
thế lưỡng lợi trong những hợp đồng xuất nhập khẩu hay không?
Việc Việt Nam có thể hưởng lợi trong cái thế tương đương với Trung Quốc là điều không tưởng, ít nhất cho tới thời điểm hiện nay.-TS Phạm Chí Dũng
TS Phạm Chí Dũng: Việc
Việt Nam có thể hưởng lợi trong cái thế tương đương với Trung Quốc là
điều không tưởng, ít nhất cho tới thời điểm hiện nay. Một điều đơn giản
như thế này: chúng ta căn cứ vào tình hình nhập siêu thì mới 8 tháng đầu
năm 2013 mà Việt Nam đã nhập siêu gần 15 tỷ đô la của Trung Quốc rồi,
trong khi vào năm 2002 thì nhập siêu lúc đó chỉ 1 tỷ rưỡi đô la. Sau 10
năm giá trị nhập siêu tăng 10 lần điều đó cho thấy một sự bất cân xứng
rất lớn trong quan hệ thương mại song phương giữa Việt Nam và Trung
Quốc.
Về mặt kinh tế, kim ngạch song phương càng
tăng, nhập siêu càng lớn và càng bất lợi cho Việt Nam. Việc quan hệ
song phương như thế này và nhập siêu với Trung Quốc không có lợi cho
Việt Nam. Cộng với hiện trạng Trung Quốc đang lũng đoạn thị trường Việt
Nam, hàng hóa tràn ngập kể cả hàng hóa độc hại chèn ép hàng hóa Việt
Nam. Dư luận cũng đang nói tới điều hiểm ác của Trung Quốc đó là đã
thông qua thương lái để phá hoại kinh tế của Việt Nam.
Mặc Lâm: Cũng
trong lĩnh vực kinh tế nhưng liên quan rất sâu tới chinh trị, đó là sự
nguy hiểm được gọi là hợp tác trên biển mà nhiều người đã cảnh báo. Tại
sao Trung Quốc lại cần tới sự hợp tác này của Việt Nam khi họ đã có sẵn
phương tiện, tiền bạc? Phải chăng Việt Nam đem chủ quyền của mình ra để
hợp tác?
TS Phạm Chí Dũng: Trung Quốc
muốn hợp tác với Việt Nam thì tất nhiên có một điều gì đó hơi phi lý,
trừ khi họ có ý đồ chính trị. Sự có mặt ngày càng đông và rộng của người
Trung Quốc trong việc hợp tác ở một số khu vực, một số dự án chắc chắn
sẽ làm giảm hình ảnh chủ quyền của Việt Nam.
Theo
tôi đối với lãnh đạo Việt Nam thì có lẽ chưa tới mức họ đem chủ quyền
ra để mà hợp tác, nhưng cũng không loại trừ vấn đề này bởi hiện nay các
nguồn tài nguyên ở Việt Nam đã gần như cạn kiệt.
Tôi
cũng muốn đề cập là nếu có hợp tác với Trung Quốc thì tất cả sự hợp tác
không phải chỉ dựa trên sự chủ quan duy ý chí của một nhóm cá nhân, một
nhóm quyền lực không đại diện cho toàn bộ dân chúng, mà toàn bộ sự hợp
tác phải dựa trên cơ sở Công ước Liên hiệp quốc về Luật biển năm 1982 vì
đây là một văn bản pháp lý có tính công bằng nhất. Khi dựa vào công ước
này thì Việt Nam sẽ có lợi thế tương đối so với Trung Quốc, còn nếu
không thì Việt Nam chắc chắn sẽ bị phụ thuộc vào Trung Quốc với các dự
án khai thác dầu khí kể cả cảng quân sự và sau đó chắc chắn khó thoát
khỏi sự ràng buộc lệ thuộc vào lãnh thổ kể cả dân tộc đối với Trung
Quốc.
Mặc Lâm: Xin cám ơn TS Phạm Chí Dũng về cuộc phỏng vấn này.
M.L. – P.C.D.
Nguồn: rfa.org
*********************************
TUYÊN BỐ CHUNG VỀ QUAN HỆ VIỆT – TRUNG THỜI KỲ MỚI
Việt
Nam và Trung Quốc ngày 15/10 đã ra Tuyên bố chung về chuyến thăm chính
thức Việt Nam của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung
Hoa Lý Khắc Cường.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường gặp gỡ báo chí sau khi hội đàm. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
1.
Nhận lời mời của Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa Lý Khắc Cường đã thăm chính thức nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 10 năm 2013.
Trong
thời gian chuyến thăm, Thủ tướng Lý Khắc Cường đã hội đàm với Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng; hội kiến với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Chủ tịch
nước Trương Tấn Sang, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng. Trong không
khí chân thành, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau, hai bên đã đi sâu trao
đổi ý kiến và đạt nhận thức chung rộng rãi về việc làm sâu sắc thêm hợp
tác chiến lược toàn diện Việt-Trung trong tình hình mới, cũng như tình
hình quốc tế, khu vực hiện nay và các vấn đề cùng quan tâm.
2.
Hai bên đã nhìn lại và đánh giá cao sự phát triển quan hệ Việt
Nam-Trung Quốc, khẳng định sẽ tuân theo những nhận thức chung quan trọng
mà Lãnh đạo cấp cao hai nước đã đạt được, phát triển quan hệ đối tác
hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc theo phương châm “láng
giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”
và tinh thần “láng giềng tốt, bạn bè tốt, đồng chí tốt, đối tác tốt.”
Hai
bên nhất trí cho rằng trong tình hình kinh tế, chính trị quốc tế diễn
biến phức tạp hiện nay, việc hai bên tăng cường trao đổi chiến lược, làm
sâu sắc thêm hợp tác thực chất, xử lý thỏa đáng các vấn đề còn tồn tại,
tăng cường điều phối và phối hợp trong các vấn đề quốc tế và khu vực,
thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển lành mạnh, ổn định lâu dài phù hợp
lợi ích căn bản của hai Đảng, hai nước và nhân dân hai nước, có lợi cho
hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực cũng như thế giới.
3.
Hai bên đánh giá cao vai trò quan trọng không thể thay thế của tiếp xúc
cấp cao giữa hai nước, nhất trí tiếp tục duy trì tiếp xúc và thăm viếng
cấp cao, xuất phát từ tầm cao chiến lược nắm vững phương hướng phát
triển quan hệ hai nước trong thời kỳ mới. Đồng thời, thúc đẩy trao đổi
cấp cao qua nhiều hình thức như gặp gỡ bên lề các diễn đàn đa phương, sử
dụng tốt đường dây nóng giữa Lãnh đạo cấp cao để đi sâu trao đổi các
vấn đề trọng đại trong quan hệ song phương cũng như các vấn đề cùng quan
tâm.
4. Hai bên nhất trí tiếp tục sử
dụng tốt cơ chế của Ủy ban Chỉ đạo hợp tác song phương Việt Nam-Trung
Quốc, thúc đẩy tổng thể hợp tác cùng có lợi trên các lĩnh vực; thực hiện
tốt “Chương trình hành động triển khai Quan hệ đối tác hợp tác chiến
lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc”; sử dụng tốt các cơ chế giao lưu,
hợp tác giữa các ngành Ngoại giao, Quốc phòng, Kinh tế Thương mại, Công
an, An ninh, Báo chí hai nước và giữa Ban Đối ngoại Trung ương, Ban
Tuyên giáo của hai Đảng; tổ chức tốt Phiên họp Ủy ban chỉ đạo hợp tác
song phương Việt Nam-Trung Quốc, Hội nghị hợp tác phòng chống tội phạm,
Phiên họp Ủy ban hợp tác kinh tế thương mại, Hội thảo lý luận giữa hai
Đảng; làm tốt các công tác như Tham vấn Ngoại giao thường niên, Tham vấn
An ninh-Quốc phòng, đào tạo mở rộng cho cán bộ Đảng và Nhà nước; sử
dụng hiệu quả đường dây điện thoại trực tiếp giữa Bộ Quốc phòng, tăng
cường định hướng đúng đắn báo chí và dư luận..., góp phần quan trọng cho
việc tăng cường sự tin cậy giữa hai bên, duy trì phát triển ổn định
quan hệ hai nước.
5. Hai bên cho rằng,
Việt Nam và Trung Quốc là láng giềng và đối tác quan trọng của nhau, đều
đang ở trong thời kỳ then chốt của công cuộc phát triển kinh tế-xã hội,
xuất phát từ nhu cầu và lợi ích chung của hai nước, trên cơ sở bình
đẳng, cùng có lợi, hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm hợp tác chiến lược
toàn diện với trọng tâm là các lĩnh vực dưới đây:
a. Về hợp tác trên bộ
(i)
Hai bên nhất trí nhanh chóng thực hiện “Quy hoạch phát triển 5 năm hợp
tác kinh tế thương mại Việt-Trung giai đoạn 2012-2016” và Danh mục các
dự án hợp tác trọng điểm; thành lập Nhóm công tác hợp tác về cơ sở hạ
tầng giữa hai nước để quy hoạch và chỉ đạo thực hiện các dự án cụ thể;
sớm đạt nhất trí về phương án thực hiện và huy động vốn đối với dự án
đường bộ cao tốc Lạng Sơn-Hà Nội nhằm sớm khởi công xây dựng. Hai bên sẽ
tích cực thúc đẩy dự án đường bộ cao tốc Móng Cái-Hạ Long, phía Trung
Quốc ủng hộ các doanh nghiệp có thực lực của Trung Quốc tham gia dự án
này theo nguyên tắc thị trường, đồng thời sẵn sàng hỗ trợ về huy động
vốn trong khả năng. Các bộ, ngành hữu quan hai nước đẩy nhanh công tác,
sớm khởi động nghiên cứu khả thi dự án đường sắt Lào Cai-Hà Nội-Hải
Phòng. Hai bên nhất trí thực hiện tốt “Bản ghi nhớ về việc xây dựng các
khu hợp tác kinh tế qua biên giới”, tích cực nghiên cứu đàm phán ký kết
“Hiệp định thương mại biên giới Việt-Trung” (sửa đổi) nhằm phát huy vai
trò tích cực thúc đẩy hợp tác và phồn vinh ở khu vực biên giới hai nước.
(ii)
Hai bên đồng ý tăng cường điều phối chính sách kinh tế thương mại, thực
hiện tốt “Bản ghi nhớ hợp tác song phương trong lĩnh vực thương mại
hàng nông sản” và “Hiệp định về việc mở Cơ quan xúc tiến Thương mại nước
này tại nước kia,” để thúc đẩy cân bằng thương mại song phương trên cơ
sở bảo đảm thương mại tăng trưởng ổn định, phấn đấu hoàn thành trước
thời hạn mục tiêu đến năm 2015 kim ngạch thương mại hai chiều đạt 60 tỷ
USD. Phía Trung Quốc khuyến khích doanh nghiệp Trung Quốc mở rộng nhập
khẩu hàng hóa có tính cạnh tranh của Việt Nam, ủng hộ doanh nghiệp Trung
Quốc vào Việt Nam đầu tư kinh doanh, đồng thời sẵn sàng tạo điều kiện
thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc mở rộng thị
trường. Phía Việt Nam sẽ tạo thuận lợi, hỗ trợ sớm hoàn thành Khu công
nghiệp Long Giang và Khu công nghiệp An Dương. Hai bên sẽ đẩy nhanh thi
công, thúc đẩy sớm hoàn thành dự án Cung Hữu nghị Việt-Trung.
(iii)
Hai bên nhất trí làm sâu sắc thêm giao lưu hợp tác trong lĩnh vực nông
nghiệp, khoa học công nghệ, giáo dục, văn hóa, thể thao, du lịch, y
tế...
(iv) Hai bên nhất trí tiếp tục phát huy
vai trò của Ủy ban liên hợp biên giới trên đất liền giữa hai nước, thực
hiện nghiêm túc Kế hoạch công tác hàng năm; tiến hành Hội nghị lần thứ
nhất Ủy ban hợp tác quản lý cửa khẩu giữa hai nước, thúc đẩy công tác mở
cửa, nâng cấp một số cặp cửa khẩu biên giới trên bộ, sớm chính thức mở
cặp cửa khẩu quốc gia Hoành Mô-Động Trung; thúc đẩy đàm phán về “Hiệp
định hợp tác bảo vệ và khai thác nguồn tài nguyên du lịch khu vực thác
Bản Giốc” sớm đạt được tiến triển thực chất, sớm khởi động vòng đàm phán
mới và đạt nhất trí về “Hiệp định tàu thuyền tự do đi lại tại khu vực
cửa sông Bắc Luân”, sớm hoàn thành xây dựng các cầu qua biên giới như
cầu đường bộ Bắc Luân 2, cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu, tạo nền tảng
cho sự ổn định và phát triển của khu vực biên giới hai nước.
Hai
bên nhất trí tăng cường hơn nữa hợp tác giữa các địa phương, nhất là
giữa các tỉnh, khu tự trị biên giới hai nước; phát huy vai trò của cơ
chế hợp tác liên quan giữa địa phương hai nước.
b. Về hợp tác tiền tệ
Hai
bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tài chính, tích cực tạo
điều kiện và khuyến khích các tổ chức tài chính hai bên hỗ trợ dịch vụ
tài chính cho các dự án hợp tác song phương về thương mại và đầu tư.
Trên cơ sở Hiệp định thanh toán bằng đồng bản tệ song phương trong
thương mại biên giới ký giữa ngân hàng trung ương hai nước năm 2003,
tiếp tục nghiên cứu việc mở rộng phạm vi thanh toán bằng đồng bản tệ,
thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư hai bên. Hai bên quyết định thành
lập Nhóm công tác về hợp tác tiền tệ giữa hai nước, để nâng cao khả
năng phòng ngừa rủi ro tài chính tiền tệ của hai bên, duy trì ổn định và
phát triển kinh tế hai nước và khu vực. Tăng cường điều phối và phối
hợp đa phương, cùng nhau thúc đẩy hợp tác tài chính tiền tệ khu vực Đông
Á.
c. Về hợp tác trên biển
Hai
bên nhất trí tuân thủ nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai Đảng,
hai nước, nghiêm túc thực hiện “Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam-Trung Quốc,” sử dụng tốt cơ
chế đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc,
kiên trì thông qua hiệp thương và đàm phán hữu nghị, tìm kiếm giải pháp
cơ bản và lâu dài mà hai bên đều có thể chấp nhận được, tích cực nghiên
cứu giải pháp mang tính quá độ không ảnh hưởng đến lập trường và chủ
trương của mỗi bên bao gồm tích cực nghiên cứu và bàn bạc về vấn đề hợp
tác cùng phát triển. Theo tinh thần đó, hai bên đồng ý thành lập Nhóm
công tác bàn bạc về hợp tác cùng phát triển trên biển trong khuôn khổ
Đoàn đàm phán cấp Chính phủ về biên giới lãnh thổ Việt Nam-Trung Quốc.
Hai
bên nhất trí tăng cường chỉ đạo đối với các cơ chế đàm phán và tham vấn
hiện có, gia tăng cường độ làm việc của Nhóm công tác vùng biển ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ và Nhóm công tác cấp chuyên viên về hợp tác trong các
lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển. Trên nguyên tắc dễ trước khó sau, tuần
tự tiệm tiến, vững bước thúc đẩy đàm phán phân định vùng biển ngoài cửa
Vịnh Bắc Bộ, đồng thời tích cực thúc đẩy hợp tác cùng phát triển tại
vùng biển này và trong năm nay khởi động khảo sát chung ở khu vực ngoài
cửa Vịnh Bắc Bộ để thực hiện nhiệm vụ đàm phán của Nhóm công tác về vùng
biển ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Nhanh chóng thực hiện các Dự án hợp tác
trong các lĩnh vực ít nhạy cảm trên biển như Hợp tác nghiên cứu quản lý
môi trường biển và hải đảo vùng Vịnh Bắc Bộ, Nghiên cứu so sánh trầm
tích thời kỳ Holocenne khu vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông
Trường Giang…, tiếp tục thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh vực bảo vệ môi
trường biển, nghiên cứu khoa học biển, tìm kiếm cứu nạn trên biển, phòng
chống thiên tai và kết nối giao thông trên biển.
Hai
bên nhất trí kiểm soát tốt những bất đồng trên biển, không có hành động
làm phức tạp, mở rộng tranh chấp, sử dụng tốt đường dây nóng quản lý,
kiểm soát tranh chấp trên biển giữa Bộ Ngoại giao hai nước, đường dây
nóng về các vụ việc phát sinh đột xuất của hoạt động nghề cá trên biển
giữa Bộ Nông nghiệp hai nước, xử lý kịp thời, thỏa đáng các vấn đề nảy
sinh, đồng thời tiếp tục tích cực trao đổi và tìm kiếm các biện pháp có
hiệu quả để kiểm soát tranh chấp, duy trì đại cục quan hệ Việt-Trung và
hòa bình, ổn định trên Biển Đông.
6. Hai
bên nhất trí tổ chức tốt các hoạt động như Liên hoan Thanh niên
Việt-Trung lần thứ hai, Gặp gỡ hữu nghị thanh niên Việt-Trung, Liên hoan
Nhân dân Việt-Trung…, nhằm bồi dưỡng ngày càng nhiều thế hệ tiếp nối sự
nghiệp hữu nghị Việt Nam-Trung Quốc. Hai bên nhất trí thành lập Viện
Khổng Tử tại Việt Nam và đẩy nhanh việc thành lập Trung tâm văn hóa của
nước này ở nước kia, thiết thực tăng cường tuyên truyền về quan hệ hữu
nghị Việt-Trung, làm sâu sắc sự hiểu biết và hữu nghị giữa người dân hai
nước.
7. Phía Việt Nam khẳng định kiên
trì thực hiện chính sách một nước Trung Quốc, ủng hộ quan hệ hai bờ eo
biển Đài Loan phát triển hòa bình và sự nghiệp lớn thống nhất Trung
Quốc, kiên quyết phản đối hành động chia rẽ “Đài Loan độc lập” dưới mọi
hình thức. Việt Nam không phát triển bất cứ quan hệ chính thức nào với
Đài Loan. Phía Trung Quốc hoan nghênh lập trường trên của Việt Nam.
8. Hai
bên nhất trí tăng cường điều phối và phối hợp tại các diễn đàn đa
phương như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại Thế giới, Diễn đàn hợp tác
kinh tế châu Á-Thái Bình Dương, diễn đàn hợp tác Á-Âu, Diễn đàn khu vực
ASEAN, Hội nghị Cấp cao ASEAN-Trung Quốc, Hội nghị Cấp cao ASEAN+3 với
Trung-Nhật-Hàn, Hội nghị Cấp cao Đông Á..., cùng nhau nỗ lực duy trì hòa
bình, ổn định và thịnh vượng của thế giới.
Hai
bên đánh giá cao những thành tựu to lớn đạt được trong phát triển quan
hệ ASEAN-Trung Quốc, nhất trí lấy dịp kỷ niệm 10 năm thiết lập quan hệ
đối tác chiến lược ASEAN-Trung Quốc làm cơ hội tăng cường hơn nữa tin
cậy chiến lược. Phía Việt Nam hoan nghênh đề xuất của Trung Quốc về việc
ký kết “Điều ước hợp tác láng giềng hữu nghị giữa các nước ASEAN và
Trung Quốc”, nâng cấp Khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc, thành lập
Ngân hàng đầu tư cơ sở hạ tầng châu Á. Việc ASEAN và Trung Quốc triển
khai hợp tác rộng rãi có vai trò hết sức quan trọng đối với thúc đẩy hòa
bình, ổn định, tôn trọng và tin cậy lẫn nhau tại khu vực Đông Nam Á.
Hai
bên nhất trí thực hiện đầy đủ, hiệu quả “Tuyên bố về cách ứng xử của
các bên ở Biển Đông” (DOC), tăng cường tin cậy, thúc đẩy hợp tác, cùng
nhau duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông, theo tinh thần và nguyên tắc
của “Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông” (DOC), trên cơ sở
đồng thuận, nỗ lực hướng tới thông qua “Bộ Quy tắc ứng xử ở Biển Đông”
(COC).
9. Trong thời gian chuyến thăm,
hai bên đã ký “Hiệp định về việc mở Cơ quan xúc tiến Thương mại nước này
tại nước kia,” “Bản ghi nhớ về xây dựng khu hợp tác kinh tế qua biên
giới,” “Bản ghi nhớ về việc thành lập Nhóm Công tác hỗn hợp hỗ trợ các
dự án do doanh nghiệp Trung Quốc thực hiện tại Việt Nam,” “Hiệp định về
việc xây dựng cầu đường bộ 2 Tà Lùng-Thủy Khẩu” và Nghị định thư kèm
theo, “Dự án hợp tác nghiên cứu quản lý môi trường biển và hải đảo vùng
Vịnh Bắc Bộ,” “Dự án nghiên cứu so sánh trầm tích thời kỳ Holocenne khu
vực châu thổ sông Hồng và châu thổ sông Trường Giang,” “Thỏa thuận về
việc thành lập Viện Khổng Tử tại Trường Đại học Hà Nội” và một số văn
kiện hợp tác kinh tế.
10. Hai bên bày tỏ
hài lòng về kết quả chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Trung Quốc Lý
Khắc Cường, nhất trí cho rằng chuyến thăm lần này có ý nghĩa quan trọng
đối với việc thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển và hợp tác thiết thực
trên các lĩnh vực.
Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2013
Theo Chinhphu
Nguồn: dantri.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001