Trận đánh tối thượng bị bỏ lỡ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Thục-Quyên
Trong
những xúc động, xôn xao, lễ lạc, chương trình, bàn cãi,... điểm chính
của sự việc vẫn là sự ra đi của một con người. Một người chồng, người
cha, người ông, người cụ...
Và dù trong những
năm tháng dài sức khỏe cụ xuống dần, dù biết lần ra đi cuối cùng không
thể tránh, chắc chắn gia đình cụ đang bồi hồi, thương tiếc. Mong rằng
nếu cụ đã tập thiền đều đặn thì không chỉ vì lý do sức khỏe mà như vài
bài báo kể lại cụ có nghiên cứu kinh sách đạo Phật, và như vậy có lẽ cụ
đã có dịp để quán và dạy cho gia đình về vô thường, một trong ba dấu ấn
của Phật giáo.
Trong số vài trăm bài viết tràn
ngập các tờ báo giấy cũng như báo mạng kể từ ngày cụ Giáp từ trần, khía
cạnh tâm linh của cụ không được nhắc tới nhiều. Phải nói là quá hiếm
hoi. Có lẽ vì không phải là khía cạnh nổi của cụ, nhưng có lẽ đồng thời
cũng vì không hợp với thị hiếu của đám đông.
“Đại tướng huyền thoại” – đó mới là khía cạnh mọi người muốn nhắc tới.
Tại sao “huyền thoại”? Tại sao một người từ lúc sống đã là một huyền thoại?
Thật
ra con người Võ Nguyên Giáp không là một huyền thoại. Đại tướng Võ
Nguyên Giáp mới là một huyền thoại. Vị Đại tướng mang hào quang đã chiến
thắng hai cường quốc Tây phương với tên tuổi gắn liền vào một sự kiện
lịch sử, chiến thắng quân sự Điện Biên Phủ.
Mà
huyền thoại phải chăng chỉ là một trong những phiên bản của một sự kiện
lịch sử? Vì đặc điểm của huyền thoại là dựa trên những lời kể không cần
minh chứng.
Theo từ điển văn học (Nhà xuất bản
Thế giới, 2004) do bốn giáo sư chủ biên Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu,
Trần Hữu Tá, Đỗ Đức Hiểu, mục Huyền thoại (trang 668): “Nhân
vật lịch sử có thể trở thành nhân vật huyền thoại: truyện pha trộn cái
thực với cái hoang đường, cái hư ảo, cái kỳ diệu, thường bằng phương
pháp phóng đại các kích cỡ, làm lệch lạc hình tượng nhân vật hay sự kiện
lịch sử, có khi thần bí hóa nó, nhằm mục đích giải thích một nhân vật
kỳ vĩ hoặc tuyên truyền trong đại chúng một tư tưởng nào đó.”
Theo Sigmund Freud huyền thoại là một giấc mơ của tập thể, hay của một cá nhân, nổi lên từ vô thức. (Sometimes myths are public dreams which, like private dreams, emerge from the unconscious mind).
Và Jung đã nhấn mạnh: “Thật vậy, huyền thoại thường bộc lộ các nguyên mẫu của tập thể vô thức (Indeed, myths often reveal the archetypes of the collective unconscious).
Cụ Võ Nguyên Giáp vừa trút hơi thở cuối cùng sau 1559 ngày nằm viện.
Suốt
trong 1559 ngày không thấy có ai nhắc tới cụ, chỉ có lần Đại tướng Võ
Nguyên Giáp xuất hiện trên báo chí trong quân phục đại lễ gắn đầy huy
chương, dù thân thể đã quá suy yếu chỉ còn như một bộ xương đang nằm
trên giường bệnh. Nhìn từ một khía cạnh, thì sự ra đi của cụ Giáp chính
là sự thăng hoa của vị Đại tướng huyền thoại, từ những từ ngữ đẹp như
“thiên tài quân sự”, “đại trí”, “đại nhân”, “đại dũng” tới “hậu duệ của
Phật hoàng Trần Nhân Tông”, “Thánh tướng”... và chưa biết còn gì gì nữa.
Đã là huyền thoại thì chẳng cần phải tranh cãi và đòi hỏi chứng minh.
Nhưng một khía cạnh khác quan trọng hơn nhiều và đáng lưu tâm là “giấc mơ của tập thể” như Freud đã nhắc tới.
Nhìn
vào hiện tượng Đại tướng huyền thoại những ngày qua và trong những ngày
tới để mà nhìn thấy những thèm khát của người dân Việt. Ý thức được sự
tụt hậu cả thế kỷ của đất nước đối với thế giới, người dân Việt mơ ước
một thiên tài cứu nguy, và cũng chính sự tụt hậu này cũng mới đẩy người
Việt tiếp tục bấu víu vào một thiên tài quân sự, không hiểu rằng giải
pháp quân sự sẽ không thể đưa Việt Nam thoát cảnh khốn cùng trong thế kỷ
thứ 21 này.
Nhưng còn nữa. Vị Đại tướng huyền
thoại được khoác áo Đại trí, Đại nhân, Đại dũng vì trong vũng lầy hiện
tại chỉ có toàn tiểu nhân, sâu bọ, tham nhũng, trộm cắp. Dân chúng cần
một điểm tựa, một hy vọng, cần một vị thánh không tỳ vết với quyền uy
siêu phàm để cứu họ, như chiếc phao cuối cùng, như đốm lửa trong đêm
tối.
Những dòng nước mắt đang thành suối khóc
một vị Đại tướng huyền thoại cũng là để khóc cho huyền thoại Tự do No ấm
mà sau Điện Biên Phủ và gần 60 năm xương máu chất chồng vẫn còn là
huyền thoại.
Trong Phật giáo có chữ cộng
nghiệp. Nghiệp là thói quen huân tập tạo thành sức mạnh, chi phối tất cả
mọi sinh hoạt trong cuộc sống con người. Nghiệp có thể tốt hay xấu.
Nhìn trong lăng kính của Phật giáo, Điện Biên Phủ hay cuộc Thống nhất
đẫm máu tháng 4 năm 1975 là do cộng nghiệp của dân tộc Việt. Cộng nghiệp
này đã không nảy sanh được một Gandhi, một Mandela, hay cũng có thể hồn
thiêng sông núi đã tụ được những vị Đại nhân nhưng vì cộng nghiệp dân
Việt đã không nhận diện được họ?
Nhìn như vậy, nhìn như một hiện tượng tôn giáo, xã hội, thì không có gì phải tranh cãi về vị Đại tướng huyền thoại.
Nhưng
những cố gắng biện luận kiểu “Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuy là một thiên
tài quân sự kiệt xuất thắng hai cường quốc Tây phương, một đại trí, đại
dũng, nhưng vì cô thế nên phải nhẫn nhục trước những tệ đoan, bất công
xã hội” là khập khễnh, không đứng vững được với thời gian, khi thế hệ
trẻ Việt Nam qua những phương tiện truyền thông có cơ hội so sánh tin
tức đa chiều, gạt bỏ thói sùng bái tín điều của những thế kỷ trước.
Đại
tướng Võ Nguyên Giáp danh tiếng lẫy lừng năm châu bốn bể đúng theo câu
“thời thế tạo anh hùng”, vì rõ ràng ông đã chỉ được phong đại tướng theo
sự nhận xét và theo cảm tính của một người duy nhất, vì ông đã 8 năm
làm đảng viên cộng sản, và cũng chỉ trong điều kiện đặc biệt lúc đó của
lịch sử. Được làm vua thua làm giặc, mọi hiển hách, hào quang sau trận
Điện Biên Phủ nghiễm nhiên vào tay vị đại tướng. Có những cố gắng của
vài cá nhân lý luận đó không phải là công của một đại tướng mà là của
nhiều tướng khác và nhất là của toàn dân quyết tâm giành độc lập, trong
đó có cả những người yêu nước bị Đảng Cộng sản thủ tiêu. Nhưng đây cũng
là lý luận chật hẹp. Nếu lý luận như vậy thì chẳng có Napoléon, chẳng có
Hitler. Nhưng cũng như Napoléon hay Hitler, lên voi hay xuống chó là
hai mặt của một chiếc mề đay. Không thể chọn mặt này và bỏ mặt kia.
[…]
Có
lẽ một mai, lịch sử sẽ phán xét Đại tướng Võ Nguyên Giáp một cách còn
nghiêm khắc hơn bình thường. Vì Đại tướng luôn cố gắng và thành công
trong việc chứng minh mình không chỉ là một kẻ võ biền mà là một người
trí thức. Đại tướng hoàn toàn ý thức cần tuyên bố những câu gì để được
sự kính trọng của thế giới. Trong cuộc đối thoại năm 1995 với nguyên Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ Mc Namara, chính Đại tướng đã thừa bén nhạy để
hiểu khía cạnh tiêu cực của biệt danh “Đại tướng huyền thoại” để phủ
nhận nó: “[…] vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ là giọt
nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh thắng Mỹ. Các
ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi bình đẳng
với những người lính của mình. Tôi hoàn thành nhiệm vụ cũng như những
người lính hoàn thành nhiệm vụ. Trên bình diện nhiệm vụ thì tôi cũng như
người lính là bình đẳng, cho nên tôi rất tôn trọng người lính”.
Đại
tướng Giáp thừa ngoại ngữ và phương tiện để theo dõi tình hình quốc tế.
Ông thừa biết thời nay chẳng có bạn hay thù nào là vĩnh viễn mà chỉ có
quyền lợi đất nước và dân tộc là vĩnh cửu. Ông thừa thông minh để biết
mất quyền tự quyết cho ngoại bang là cái chết của dân tộc, chẳng có khác
biệt giữa mất cho Pháp, cho Mỹ hay cho Trung Cộng. Nhưng dù có rất
nhiều cơ hội tiếp xúc với giới truyền thông quốc tế, ông chỉ luôn hân
hoan nhắc tới chiến lược, tới đại thắng, tới giải phóng mà không chút
ngập ngừng.
Thiết nghĩ không ai được quyền lên
án cá nhân con người Võ Nguyên Giáp hay Đại tướng Võ Nguyên Giáp là hèn
nhát khi ông không dấn thân dùng tiếng tăm của mình để nói lớn chí
nguyện của dân tộc, dù chỉ một lần:
Không có một chiến thắng nào cả!
Không
bảo vệ được đất đai tổ tiên để lại, không xây dựng được một quốc gia tự
chủ đúng nghĩa, cho dân và vì dân, thì mọi xương máu hy sinh là uổng
phí!
Như tất cả mọi người, cá nhân cụ Giáp
có quyền mong được sống yên lành, con cháu không bị khủng bố, cướp đất
sống ngay trên quê hương mình.
Đại tướng Giáp cũng đã trung thành với chính mình; mặc dù Đại tướng đã có ra mệnh lệnh: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa; táo bạo, táo bạo hơn nữa” nhưng Đại tướng cũng có nói: “Kẻ địch mạnh thì ta tránh chúng. Kẻ địch yếu thì ta đánh chúng”. Đó là cách hành xử bình thường, hợp lý, với đôi chút khôn ngoan.
Chỉ một bậc Đại nhân, Đại trí, Đại dũng mới có thể hành xử khác mọi người.
Năm
2007 khi Thiền sư Nhất Hạnh về nước và đi suốt Nam Trung Bắc để làm
điều mà trong khả năng một ông thầy tu có thể làm được, điều mà Đức Đạt
Lai Lạt Ma mong muốn suốt cuộc đời làm được tại Trung Quốc, là cầu
nguyện và cử hành những cuộc “Chẩn tế bình đẳng”. Thầy thân chinh đến
thăm Đại tướng để trao tặng ông bức thư pháp chính tay thầy viết:
“Bản Môn Xuân Ấy Còn Nguyên Vẹn”
Không
thấy nhắc bức thư pháp này có được được nằm cạnh chữ “Nhẫn” được kể là
treo rất trang trọng trên tường tư gia của Đại tướng hay không. Và cũng
không biết khi còn sinh tiền, Đại tướng hiểu chữ “Nhẫn” ra sao và có bao
giờ nhìn sâu để tìm lại cái “Tâm ban đầu” của mình cũng như của biết
bao triệu người trẻ đã hy sinh tính mạng để tranh đấu cho sự tự do, no
ấm, thịnh vượng của dân tộc?
Huy chương, bảng vàng, bia đá rồi cũng tan đi.
Tiếc
thay cho Đại tướng đã bỏ lỡ trận đánh tối thượng của đời mình, trận
đánh để thấy được cái vô thường, vô ngã, tháo gỡ được những phiền não
như tham giận, sợ hãi, kiêu căng...
Thành kính nguyện cầu Hương linh cụ Võ Nguyên Giáp sớm an bình nơi cõi Phật.
T. Q.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:38
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/10/tran-anh-toi-thuong-bi-bo-lo-cua-ai.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001