Đơn tố cáo ông Lê Hoàng Quân, Chủ tịch UBND TP HCM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Quận 9, ngày 04 tháng 12 năm 2013
ĐƠN TỐ CÁO
Ông Lê Hoàng Quân, Ủy viên TW Đảng, Chủ tịch UBND TP HCM,
Trưởng Ban phòng chống tham nhũng TP HCM
Kính gửi - ÔNG NGUYỄN PHÚ TRỌNG, TỔNG BÍ THƯ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM,
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI - TRƯỞNG BAN CHỈ ĐẠO TRUNG ƯƠNG
VỀ PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG
- ÔNG NGUYỄN BÁ THANH - TRƯỞNG BAN NỘI CHÍNH
TRUNG ƯƠNG ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Người
tố cáo: Nguyễn Xuân Ngữ - 71 tuổi, cựu chiến binh, cán bộ hưu trí, gia
đình liệt sĩ, chủ quyền nhà, đất hợp pháp số 166/6 khu phố Mỹ Thành,
P.Long Thạnh Mỹ, quận 9, CMND số 023030668 CATPHCM cấp ngày 13/9/2004.
ĐT: 0913777040. Email:xuanngu@ymail.com .
Hiện
bị chính quyền Q9 phá hết nhà cửa, cướp hết tài sản, đất đai,
trang trại, dồn ép vào khu phòng trọ (tạm cư trá hình), phòng C9,
nhà số 41, Tăng Nhơn Phú, P. Phước Long B, Q.9, TP HCM - theo mô hình
“khu dồn dân – khu trù mật” do chính quyền quận 9 và UBND TP HCM
dựng lên.
Người bị tố cáo: Ông Lê Hoàng Quân, UVTW Đảng, CTUBNDTP,
Trưởng ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng TP HCM
Địa chỉ: 86 Lê Thánh Tôn, Quận 1, TPHCM.
Cơ sở pháp lý để tố cáo:
Căn cứ khoản 1,2,3 - Điều 2 ; Điều 19, Luật tố cáo số 3 QH 13
NỘI DUNG TỐ CÁO
1. Chủ tịch UBNDTPHCM cưỡng ép, sai pháp luật, mất dân chủ. Cụ thể:
Ông
Lê Thanh Hải, tiếp sau là ông Lê Hoàng Quân không tống đạt quyết định
thu hồi đất đến tôi (QĐ 2666/QĐ-UB ngày 26/7/2002) mà buộc tôi phải thi
hành, mặc dù trong rất nhiều đơn, tôi đã nhiều lần yêu cầu tống đạt
quyết định 2666/QĐ-UBND đến tôi, nhưng CTUBNDTP không thực hiện. Đây là
việc mất dân chủ và vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Ông Tổng Bí thư và
ông Trưởng Ban Nội chính hãy trả lời là tôi có phải thi hành QĐ 2666 này
không? Nếu phải thi hành, thì các ông phải chỉ rõ là căn cứ vào điểm
nào của QĐ 2666 cũng như của các quy định của pháp luật? Nhà nước ta là
nhà nước pháp quyền, việc gì cũng phải rõ ràng minh bạch trên cơ sở pháp
luật.
2. Ông Lê Hoàng Quân, buông lỏng
quản lý, để ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch UBNDTP lộng quyền, chỉ
đạo Chủ tịch UBND Q9 cưỡng chế sai pháp luật, bằng cách ban hành công
văn 9928/VP-ĐTMT ngày 14/12/2008 của VP HĐND&UBND TP có nội dung:
“… Qua xem xét, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban nhân dân thành phố Nguyễn Thành Tài có ý kiến giải quyết như sau:
Chấp
thuận cho Ủy ban Nhân dân quận 9 áp dụng biện pháp cưỡng chế hành chính
đối với 22 hộ dân để thu hồi đất do không chấp hành bàn giao mặt
bằng…”. Việc cưỡng chế 22 hộ dân này là trái quy định của pháp luật vì
họ chưa nhận được quyết định thu hồi đất theo Điều 21 (Luật Đất đai
1993, 1998, 2001) và Điều 32 (Luật Đất đai 2003). Giao đất, cho thuê đất
đối với đất đang có người sử dụng cho người khác. Nội dung điều luật
này là:
“Việc quyết định giao đất, cho thuê đất
đối với đất đang có người sử dụng cho người khác chỉ được thực hiện sau
khi có quyết định thu hồi đất đó”.
Điều 39, Điều
40, Điều 44 Luật Đất đai 2003 cũng bắt buộc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phải ra QĐ thu hồi đất đối với tổ chức, cá nhân đang sử dụng đất.
3.
Chủ tịch UBND TP HCM, buông lỏng quản lý để cấp phó ngang ngược ra lệnh
không tiếp nhận giải quyết khiếu nại, tố cáo của tôi một cách tùy tiện,
theo kiểu luật rừng.
Tôi không đồng ý QĐ giải
quyết khiếu nại của UBND Q9, từ năm 2005 tôi liên tiếp gửi đơn khiếu nại
tiếp lên chủ tịch UBND TP theo luật định, nhưng đến nay tôi vẫn chưa
nhận được quyết định giải quyết khiếu nại của CT UBND TP HCM.
Tôi
tiếp tục tố cáo việc làm sai trái của lãnh đạo quận 9. Ngày 19/01/2011
Chủ tịch UBND TP ban hành công văn 227/UBND-PCNC về việc giải quyết tố
cáo do ông Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch thường trực ký thay, sau khi
bênh vực một cách trắng trợn, mà không đưa ra được chứng lý biện minh
cho các quan chức đảng và nhà nước quận 9 không sai phạm, CV 227 còn có
đoạn rất trịch thượng: “UBNDTP trả lời cho ông rõ và thông báo chấm dứt
tiếp nhận để xử lý, xem xét các nội dung tương tự như trên”, trong khi
đó Chủ tịch UBND TP HCM chưa một lần ra QĐ giải quyết khiếu nại cho tôi
theo luật Khiếu nại tố cáo kể cả khi Văn phòng Chính phủ có văn bản
truyền đạt ý kiến Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Chủ tịch UBND TP HCM giải
quyết khiếu nại cho tôi theo quy định của pháp luật.
Hành
xử của Chủ tịch UBND TP HCM như thế là vi phạm Luật Đất đai, Luật Khiếu
nại, Tố cáo, Luật Cán bộ, Công chức, vi phạm Quy định số 94/QĐ-TW ngày
15/10/2007 của Bộ Chính trị về xử lý kỷ luật đảng viên vi phạm (trường
hợp này phải xử lý!!!), vi phạm Thông báo số 130-TB/TW ngày 10/01/2008
của Bộ Chính trị… và coi thường Thủ tướng Chính phủ. Hành vi này tôi đề
nghị cơ quan có thẩm quyền phải nghiêm túc xem xét và phải công khai kết
luận từng nội dung vi phạm.
4. Ông
Nguyễn Văn Thành, Phó Chủ tịch UBND Q9 có dấu hiệu gian trá, lừa dân,
kiểu chợ trời, xã hội đen… mà Chủ tịch UBNDTP vẫn bao che cho là đúng
pháp luật! Cụ thể:
- QĐ 3144, ban hành 12/2005,
QĐ 13, ban hành 2009, nêu căn cứ Luật đất đai 2003 (nhưng chỉ là lừa
bịp, thực tế Quận 9 không thực hiện (bị vạch mặt, ông Thành phải công
nhận tại Công văn 690).
- QĐ cưỡng chế số
13/UBND), nêu căn cứ QĐ 422/QĐ-UBND-TTr v/v giải quyết khiếu nại của Chủ
tịch UBND TP cũng chỉ là lừa bịp. Vì QĐ 422 mới chỉ là QĐ giải quyết
khiếu nại lần đầu của Chủ tịch UBND Q9 (sáu tháng sau UBND Q9 phải “
đính chính” bằng QĐ 95, khi việc cưỡng chế đã thực hiện xong!?).
-
Khi trả lời cho tôi tại CV 690 ngày 20/05/2009 UBNDQ9 nêu: “… ngày
29/5/2008, UBNDQ9 đã tổ chức công bố quy hoạch chi tiết 1/2000 Khu Công
nghệ cao tại Nhà Thiếu nhi quận”. Câu trả lời này cũng chỉ là bịp bợm.
Xin mời quý ông xem thư mời và bài báo để thấy ông Nguyễn Văn Thành gian
manh đến cỡ nào?
Thư mời VP HĐND và UBND Q9 ghi
rõ “ …công bố quy hoạch chung xây dựng tỉ lệ 1/5.000 Khu Công nghệ cao
của UBND thành phố” (làm gì có công bố bản đồ 1/2000). Tiếp theo bài
“Đẩy nhanh tiến độ dự án Khu Công nghệ cao TP HCM” số ra ngày 8/6/2009
trên báo Sài gòn Giải phóng, thì: “dự kiến đến tháng 6-2009 KCNC
mới có phê duyệt quy hoạch xây dựng chi tiết 1/2000”. Đúng là một tên
bịp trắng trợn phải không các vị?
5. UBND Q9 áp dụng các quy định pháp luật đã hết hiệu lực.
-
Theo thừa nhận của UBND Q9 tại CV 690: 12/2005 (QĐ 3144) UBND Q9 áp
dụng theo Luật Đất đai 1993, 1998, 2001. Trong khi Điều 145 (LĐĐ 2003),
đã công bố Luật Đất đai 1993, 1998, 2001 hết hiệu lực từ 01/07/2004. Đó
là điều không thể chấp nhận.
- Tháng 12 năm 2005
mà UBND Q9 tính giá đất bồi thường theo QĐ 121 của UBND TP ban hành
1998 (theo NĐ 22/1998 đã hết hiệu lực năm 2005, do khoản 2 Điều 50 NĐ
197/2004), đồng thời là sai với khoản a Điều 9 NĐ 197/2004:
“a)
Bồi thường chậm do cơ quan, tổ chức có trách nhiệm bồi thường gây ra mà
giá đất tại thời điểm bồi thường do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh công bố
cao hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi thường theo
giá đất tại thời điểm trả tiền bồi thường; nếu giá đất tại thời điểm bồi
thường thấp hơn giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi thì bồi
thường theo giá đất tại thời điểm có quyết định thu hồi”.
Các
ông trả lời cho tôi biết đặt trong hoàn cảnh của các ông, các ông có
chấp nhận chính quyền của một nhà nước pháp quyền mà thi hành pháp luật
một cách tùy tiện như vậy không? Còn tôi thì không thể chấp nhận trong
chính quyền của dân, vì dân, do dân… mà tôi và gia đình tôi đã chiến đấu
góp phần dựng nên lại có một nhóm người nhân danh nhà nước mà hành xử
với dân, với cựu chiến binh, có những hành vi thủ đoạn, đểu cáng như
vậy!
6. UBND Q9 áp dụng không đúng pháp luật.
Trong
QĐ cưỡng chế hành chính số 13/UBND ngày 03/04/2009 của UBND Q9, có nêu
căn cứ nghị định 84/2007/NĐ-CP ngày 25/07/2007 của chính phủ. Nhưng gần
như toàn bộ các quy định bắt buộc từ điều 49 đến điều 59 (NĐ 84/2007)
trước khi cưỡng chế UBND Q9 không thực hiện. Cụ thể:
Điều
49. Xác định và công bố chủ trương thu hồi đất (cán bộ phường công bố
miệng, không có QĐ, bản đồ quy hoạch được duyệt, không đúng theo quy
định. Đến nay Chính phủ có 3 QĐ: QĐ 95/2003/QĐ-TTg ngày 13/05/2003 quy
mô 804 ha; QĐ 458/QĐ-TTg ngày 18/04/2007 quy mô 913,1633 ha; QĐ
24/QĐ-TTg ngày 06/01/2010 quy mô 872 ha. Theo luật hành chính, quyết
định của cùng một cấp, quyết định sau phủ định quyết định trước và phủ
định quyết định của cấp dưới về một nội dung. Vậy chúng tôi kính đề nghị
quý ông yêu cầu cơ quan chức năng cung cấp cho chúng tôi bản đồ được
duyệt KCNC 872 ha và bản đồ KCNC 913,1633 ha để chúng tôi đối chiếu xem
đất của chúng tôi có nằm ngoài KCNC được duyệt sau cùng hay không? Luật
Đất đai và Luật phòng chống tham nhũng bắt buộc phải công khai thông tin
này cho người dân.
Điều 50. Chuẩn bị hồ sơ địa chính cho khu đất bị thu hồi (đến 25.8.2008 vẫn chưa có bản đồ 1/2000, như trên đã nêu).
Điều 51. Lập, thẩm định và xét duyệt phương án tổng thể về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư (có/không?, chưa thấy công bố).
Điều 52. Thông báo về việc thu hồi đất (không làm).
Điều 53. Quyết định thu hồi đất (chưa có/chưa tống đạt, lấy gì làm căn cứ để tôi thực hiện hoặc khiếu nại?).
Điều
54. Giải quyết khiếu nại đối với quyết định thu hồi đất (không có QĐ
thu hồi đất nên dân không biết căn cứ vào đâu để khiếu nại).
Điều 55. Kê khai, kiểm kê và xác định nguồn gốc đất đai (không công khai minh bạch, chỉnh sửa nhiều lần vẫn không đúng).
Điều
56. Lập, thẩm định và xét duyệt phương án bồi thường, hỗ trợ và tái
định cư (theo quy định tại Nghị định số 197/2004/NĐ-CP và Nghị định số
17/2006/NĐ-CP. Nhưng Quận 9, TP HCM không thực hiện 197/2004/NĐ-CP,
17/2006/NĐ-CP mà thực hiện theo NĐ 22/1998/NĐ-CP)!
Điều 57. Công khai phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư (không thực hiện).
Điều
58. Thực hiện chi trả tiền bồi thường, hỗ trợ và bố trí tái định cư
(lập lờ việc bồi thường, chưa trả đủ tiền, chưa có chỗ tái định cư, nói
có quyết định phân nền, nhưng đến giờ này tôi chưa thấy, chỉ nêu trong
công văn trả lời và báo cáo)!
Điều 59. Thời điểm bàn giao đất đã bị thu hồi (chưa có QĐ thu hồi đất nên dân không biết thời điểm nào thu hồi để giao) .
Điều 60. Cưỡng chế thu hồi đất
1.
Việc cưỡng chế thu hồi đất theo quy định tại khoản 3 Điều 39 của Luật
Đất đai chỉ được thực hiện khi có đủ các điều kiện sau đây:
a)
Thực hiện đúng trình tự, thủ tục về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư quy định tại các Điều 49, 50, 51, 52, 53, 54, 55, 56, 57, 58
và 59 Nghị định này;
Theo điểm a) này bắt buộc
chính quyền phải thực hiện đầy đủ từ Điều 49 đến Điều 59 mới được cưỡng
chế. Nhưng quận 9 TP HCM không thực hiện mà đem công lực đến cưỡng chế
phá nhà lấy đất dân.
Thế mà Chủ tịch UBND TP HCM nói UBND Q9 là đúng theo pháp luật?
7. Lập lờ việc giải quyết khiếu nại và tố cáo, báo cáo không trung thực với cấp trên và công luận.
-
Theo luật định giải quyết khiếu nại (bằng quyết định), là nghĩa vụ,
trách nhiệm của cơ quan, công chức nhà nước khi người dân khiếu nại
quyết định hành chính của mình.
Thế nhưng Chủ
tịch UBNDQ9 chưa ra quyết định giải quyết khiếu nại của tôi đối với
quyết định cưỡng chế số 13/QĐ-UBND ngày 03/04/2009 nhưng tại công văn
338/UBND-BBT ngày 17/03/2010 của UBNDQ9 có đoạn: “ Bằng văn bản này,
UBNDQ9 kết thúc thụ lý đơn kiến nghị của hộ ông Nguyễn Xuân Ngữ. Nếu hộ
ông Ngữ tiếp tục nộp đơn kiến nghị với các nội dung như trên thì UBNDQ9
sẽ xử lý lưu tham khảo theo quy định”. Rõ ràng UBNDQ9 đứng trên luật
pháp. Văn bản nào cho phép UBND quận ra quyết định cưỡng chế mà không
cho dân khiếu nại?
- Ngày 19/01/2011 tại công
văn 227/UBND-PC của Chủ tịch UBND TP về việc giải quyết tố cáo, do ông
Nguyễn Thành Tài, Phó Chủ tịch thường trực ký thay, cũng có đoạn: “UBND
TP trả lời cho ông rõ và thông báo chấm dứt tiếp nhận để xử lý, xem xét
các nội dung tương tự như trên” (phần trên đã nêu).
Xin
nói rõ hơn, CV 227 là văn bản giải quyết tố cáo (không phải quyết định
giải quyết khiếu nại). Nhưng bằng các văn bản lập lờ này UBND quận 9 và
UBNDTP chỉ đạo cho các cơ quan chức năng là vụ việc của tôi quận và
thành phố đã giải quyết xong, không nhận đơn khiếu nại của tôi nữa.
-
Tiếp theo, ngày 27/03/2013, trước khi lên làm Phó Ban Nội chính Trung
ương, ông Lê Minh Trí, Phó Chủ tịch UBND TP HCM còn kịp ký Thông báo
73/TB-UBND Về chấm dứt thụ lý giải quyết vụ việc tố cáo của ông Nguyễn
Xuân Ngữ, quận 9.
Bằng các văn bản này UBND TP
báo với các đoàn thanh tra, kiểm tra của Trung ương là vụ khiếu nại của
tôi thành phố đã giải quyết xong, từ đó Trung ương cũng bị thành phố qua
mặt từ đó mà bỏ qua vụ việc khiếu nại của tôi. Thực tế vụ việc khiếu
nại của tôn UBND TP HCM chưa có quyết định giải quyết khiếu nại và tôi
vẫn tiếp tục gửi đơn khiếu nại, thì làm sao gọi là đã giải quyết xong vụ
việc của tôi?
Kính thưa ông Tổng Bí thư và ông
Trưởng Ban Nội chính Trung ương, ngày 22/04/2013 vừa qua 65 hộ dân
(trong đó có tôi) bị lấy đất xây Khu Công Nghệ cao TPHCM tố cáo Lê Thanh
Hải và Nguyễn Văn Đua (xem tại
http://lehienduc2013.blogspot.com/2013/04/cong-dan-quan-9-to-cao-le-thanh-hai.html
; hoặc tại
http://lehienduc2013.blogspot.com/2013/11/cac-cong-dan-quan-9-sai-gon-to-cao_6865.html
và tại
http://caunhattan.wordpress.com/2013/04/21/dan-quan-9-tp-hcm-to-cao-uy-vien-bo-chinh-tri/).
Chúng tôi ký đơn có ghi địa chỉ, số CMND, nghĩa là chúng tôi phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về những nội dung chúng tôi nêu ra. Đơn tố
cáo gửi bưu điện bằng thư phát chuyển nhanh có hồi báo, các trang mạng
cũng đã đăng… Thế mà từ đó đến nay không một ai đối thoại với chúng tôi
để xem xét, xử lý sai trái, tiêu cực… Điều mà tôi không biết lý giải như
thế nào về “quyết tâm” chống tham nhũng của Trung ương, chúng tôi chỉ
có thể suy đoán chỉ có lý do là: “các vị ở Trung ương chắc cũng được
chia chác, nhúng chàm nên ém luôn” mà thôi.
Tôi
hy vọng là suy đoán của chúng tôi không đúng nếu như Đơn tố cáo này của
tôi được các vị trực tiếp thẩm tra, có kết luận cụ thể, khách quan các
vấn đề tôi nêu ra trong đơn tố cáo này.
Tôi trân trọng kính chào.
Người ký đơn tố cáo
Nguyễn Xuân Ngữ
Đường dẫn xem hình ảnh phá nhà ông Nguyễn Xuân Ngữ:
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 03:18
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/12/on-to-cao-ong-le-hoang-quan-chu-tich.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001