Thanh Phương - Chúa Giêsu, đề tài nghiên cứu vô tận
at 1:42 PM
Đêm mai, đêm 24 sang ngày 25/12, hơn 2 tỷ người Công
giáo trên thế giới mừng lễ Giáng
Sinh, bởi vì đây
là đêm mà theo Kinh Thánh Chúa Giêsu đã xuống thế làm người, sinh ra
nghèo hèn trong máng cỏ hang lừa Bêlem.
Cho dù không phải là một tín hữu, ai cũng
phải công nhận rằng Chúa
Giêsu là một nhân vật quan trọng của lịch sử thế giới và tư tưởng của Ngài
chính là một trong những nền tảng của văn minh
nhân loại.
Bìa sách "Jésus, cet homme inconnu" của tác giả Christine Pedotti
Hơn 2000 năm đã trôi qua, nhưng cho tới nay,
Chúa Giêsu vẫn là đề tài
nghiên cứu vô tận của các nhà
sử học, các nhà
tôn giáo học, ...
Không biết bao
nhiêu quyển sách,
bài báo đã được viết về Chúa
Giêsu, biết bao phim
ảnh về Ngài đã được chiếu.
Cũng từ hai ngàn năm nay, Chúa Giêsu vẫn là một nhân vật mà chung
quanh đó đã có biết bao chuyện hoang đường được thêu dệt. Chẳng hạn, như tại Châu Á,
vẫn có một truyền thuyết cho rằng Chúa
Giêsu thật ra không
phải đã chết trên thập giá ở
Jerusalem, mà sau khi bị tổng trấn Philatô tuyên án đóng
đinh, Ngài đã lánh nạn đến tận miền bắc Nhật Bản ! Tại đây, Chúa Giêsu đã trở thành một nông gia
làm nghề trồng tỏi và sống yên
bình với vợ con cho đến khi qua
đời một cách
thanh thản ở tuổi 106 ( !
) tại làng
Shingo, trên đảo Honshu.
Đương nhiên là người Công giáo cũng như là nhiều người khác
không tin vào những chuyện vô lý như vậy, thế nhưng mỗi năm,
hàng ngàn khách hành hương vẫn kéo đến nghĩa địa mà người dân địa phương cho là
nơi Chúa
Giêsu yên giấc nghìn
thu. Thậm chí tại làng này, có
cả những người tự nhận là dòng
họ của Chúa
Giêsu, cho dù chưa bao giờ họ đặt chân đến nhà thờ !
Chúa Giêsu, Ngài là ai ?
Chúa Giêsu, thật sự Ngài là ai ? Nếu ta đặt câu hỏi này với một Giáo dân, thường thì câu
trả lời sẽ rất đơn giản: Đức Giêsu là Con
Thiên Chúa, đã xuống thế làm người và chịu đóng
đinh trên thập giá để cứu chuộc nhân loại. Sau ba
ngày, Ngài đã phục sinh và
lên trời về với Chúa
Cha. Đó là những gì mà
Kinh Thánh dạy cho các
tín hữu.
Nhưng đối với các nhà sử học thì câu hỏi đầu tiên được đặt ra là:
Chúa Giêsu đã tồn tại hay
không? Câu hỏi này đã
và vẫn tiếp tục gây nhiều tranh luận cho tới ngày hôm
nay. Có những nhà
nghiên cứu bác bỏ hoàn toàn
sự hiện hữu lịch sử của Chúa
Giêsu, những người khác thì
công nhận Chúa
Giêsu là một nhân vật có thật, nhưng cuộc đời của Ngài
không giống như những gì mà
Giáo hội rao giảng.
Trong suốt hàng mấy thế kỷ sau Công nguyên, Tân Ước vẫn được coi là
chân lý bất di bất dịch, không
ai được đụng đến. Nhưng đến cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, các
nhà nghiên cứu bắt đầu mạnh dạn đặt lại nhiều vấn đề được nêu lên trong các sách
Phúc Âm. Chính tại nước Đức, quê hương của đạo Tin
Lành, mà các nhà sử học và thần học bắt đầu viết những cuốn sách về cuộc đời Chúa Giêsu. Tiêu biểu là cuốn sách của nhà thần học Đức David
Strauss, mô tả Chúa
Giêsu như là một bậc hiền triết, nhà tôn
giáo và nhà tâm linh. Thành công của cuốn sách này đã thúc đẩy nhà sử học Pháp Ernest Renan viết cuốn sách « Cuộc đời Chúa
Giêsu », xuất bản vào năm 1863, và được độc giả thời ấy tán thưởng nhiệt liệt. Cho tới nay đây
vẫn là một trong những cuốn sách gối đầu giường của những nhà
nghiên cứu về Thiên
Chúa Giáo.
Khi viết hai cuốn sách nói trên, cả hai tác giả tiên
phong Đức và Pháp
đều dựa theo các
sách Phúc Âm, kết hợp với những hiểu biết của họ về thế giới Do Thái
và La Mã thời ấy, chứ không bàn
đến chuyện Giêsu có
phải là Con
Thiên Chúa hay không. Chính vì thế mà cả hai ông Strauss và Renan đều bị Giáo hội Công giáo kịch liệt lên án.
Nhưng phong trào nghiên cứu về nhân vật Giêsu vẫn tiếp diễn cho đến tận ngày hôm
nay. Bây giờ thì không
chỉ các lãnh
đạo của Hội Thánh
Tin Lành, mà ngay cả của Giáo hội Công Giáo cũng chấp nhận rằng các sách Phúc Âm có thể là đề tài
nghiên cứu mang
tính phê phán. Ngay cả cựu Giáo hoàng Benedicto 16, nguyên là một nhà thần học Công
giáo, gần đây cũng
đã cho xuất bản công
trình nghiên cứu của Ngài gồm 3 cuốn sách về Chúa
Giêsu. Tuy tác giả các cuốn sách này
tỏ ra rất thận trọng, nhưng nếu mà Giáo
hoàng viết như vậy cách đây
100 năm, thì chắc chắn Ngài đã
bị Giáo hội « khai
trừ » rồi !
Trong số các nghiên cứu mới nhất về Chúa Giêsu có một cuốn sách vừa được xuất bản tại Pháp, tựa đề « Jésus, cet
homme inconnu » ( Giêsu, con người xa lạ này ). Tác giả là bà
Christine Pedotti, tổng biên tập tạp chí Công giáo Témoignage chrétien và
đã từng viết nhiều sách về đức tin
Ky-tô giáo. Nhà báo Pedotti có một cái nhìn đặc biệt về Chúa Giêsu theo cảm nhận của một phụ nữ Công
giáo, khiến cho Đấng Cứu Thế trở thành một nhân vật rất gần gũi, rất « đương thời ».
Trong cuốn sách, nhà báo Pedotti
trình bày xen kẽ nhau những đoạn kể chuyện sống động với những đoạn giải thích, tổng hợp những nghiên cứu mới nhất về Chúa Giêsu, giúp người đọc có thể tiếp thu dễ dàng, với cảm tưởng như đang sống lại thời kỳ cách
đây 2000 năm, theo chân Ngài đi qua các làng mạc, nghe những lời rao giảng của Ngài.
Về phần Giáo hội Công Giáo cũng phải cố bắt kịp nhịp sống của thời đại Internet. Để góp phần quảng bá về Chúa
Giêsu cho người Công
giáo cũng như không
Công giáo, vào tháng trước, Hội đồng Giám mục Pháp vừa « khai trương » một trang mạng về Chúa
Giêsu ( jesus.chatholique.fr ) và một trong những câu hỏi mà trang
mạng này giải đáp, đó
là : « Chúa Giêsu thật sự đã hiện hữu ? ».
Theo giải đáp của Cha Michel Garat, một trong những cộng tác
viên của trang mạng này, trước hết, người ta có thể khẳng định Chúa
Giêsu là có thật, dựa trên các
sách Phúc âm, các Thư Thánh Phaolô. Nhưng theo Cha Michel Garat, ngay cả các nguồn không phải là Thiên
chúa giáo cũng có đề cập đến nhân vật Giêsu.
Thực tế đúng là như thế. Như trong cuốn sách viết năm 44
sau Công nguyên, một trong những nhà sử học lớn của đế chế La Mã Tacitus đã từng viết rằng, người Kytô
Giáo được gọi như vậy là vì họ là đồ đệ của Christ,
« người mà tổng trấn Philatô
giao hành hình » ( Annales, XV. 44.5 ).
Hay trong cuốn sách Cổ đại Do Thái viết vào nhữnng năm
93-94 sau Công nguyên, tức là cuối thế kỷ thứ nhất, nhà sử học Do Thái nổi tiếng Flavius Josephus, đã có một đoạn ngắn nói về một người mà ông gọi là « bậc hiền triết »: « Giêsu
đã làm các phép lạ, đã thu hút nhiều người Hy Lạp và Do
Thái, đã bị các lãnh
đạo Do Thái
tố giác và
đã bị đóng
đinh; các đồ đệ của ông vẫn tin vào
ông, Giêsu đã sống lại và đã hiện ra cho họ thấy ».
Còn theo giáo sư Rémi Gounelle, thuộc Đại học Thần học Tin Lành Strasbourg, vào
những năm đầu tiên của Kytô
giáo, những người thờ đa thần (paien)
và những người Do Thái
Giáo đã cực lực chống tôn
giáo mới này. Nếu họ nghi ngờ sự tồn tại của Chúa
Giêsu, thì họ đã rêu
rao ngay điều đó để bêu xấu các tín
đồ Kytô giáo
sơ khởi, chứ làm gì chịu để yên!
Nói chung, bên ngoài Giáo hội, ngày nay hầu như không có
nhà sử học, nhà
nghiên cứu nào phản bác những bằng chứng xác thực về nhân vật Giêsu.
Chúa Giêsu sinh ngày nào ?
Nhưng có nhiều điểm mà cho tới nay, các nhà nghiên cứu vẫn còn tranh cãi về cuộc đời của Chúa
Giêsu, mà đầu tiên là
vấn đề về ngày sinh
của Ngài, mà
nay nhiều nhà
nghiên cứu, kể cả Giáo
hoàng Benedicto 16, xác định không phải là ngày 25/12.
Các sách Phúc Âm không hề đưa ra ngày sinh cụ thể nào, thậm chí
không nói rõ là Chúa Hài đồng đã mở mắt chào đời vào mùa
nào. Phúc âm theo Thánh Máccô và Phúc âm theo Thánh Gioan lại không đề cập đến sự kiện này, còn
Phúc âm theo thánh Mátthêu chỉ nói là Chúa sinh ra « vào thời Vua
Hêrôđê ». Theo lịch sử, Vua Hêrôđê trị vì hơn 30 năm, từ năm 37 đến năm 4 trước CN.
Còn theo Phúc âm thánh Luca, Mẹ Maria, lúc ấy đang
mang thai, phải đi đến Bêlem, nơi mà Giuse
chồng bà phải có mặt để được kiểm tra dân
số « trong
khắc cả thiên hạ », theo lệnh của Hoàng đế Augúttô,
được thực hiện thời ông
Quiriniô làm tổng trấn xứ Xyria. Nhưng làm sao
Chúa Giêsu có thể sinh ra
vào thời Vua
Hêrôđê, chết vào năm
4 trước CN, mà lại có thể được kiểm tra dân
số dưới thời « ông Quiriniô
làm tổng trấn xứ Xyria », vào năm
6 sau CN, tức là 10
năm sau? Như vậy, theo
Thánh Luca, Chúa Giêsu sinh ra vào thời điểm mà theo thánh Mátthêu lẽ ra Ngài
đã được 10 tuổi.
Cũng theo Phúc âm theo Thánh Luca, khi Ðức Giêsu khởi sự rao giảng, « Người trạc ba mươi tuổi », vào một thời điểm được xác định là cuối năm 27
hoặc đầu năm 28
sau CN. Trong Phúc âm theo Thánh Gioan lại có đoạn:
« Ông Ápraham là cha các ông
đã hớn hở vui mừng
vì hy vọng được thấy ngày của tôi.
Ông đã thấy và đã mừng rỡ ».
Người Do Thái nói: «
Ông chưa được năm mươi tuổi mà đã thấy ông
Ápraham! »
Làm sao mà Chúa Giêsu khi gặp Thánh Gioan Tẩy Giả vào khoảng năm 30
tuổi, mà chỉ vài năm
sau đã là « chưa được năm mươi tuổi » ?. Như vậy phải chăng
Chúa Giêsu đã sinh ra trước 20 năm so với thời điểm mà chúng ta vẫn tưởng ?
Rõ ràng là các tác giả của những Phúc Âm ít quan tâm đến ngày
sinh của Chúa
Giêsu hơn là chúng
ta. Từ khoảng năm 200
sau Công nguyên đã có một nhà thần học nêu lên các giả thuyết về ngày sinh của Chúa, đó
là các tháng 3, tháng 4 hoặc tháng 5, chứ không hề có ai nói
đến ngày
25/12.
Trong một thời gian dài, Ngày Chúa Giáng Sinh được ghi lúc
này lúc khác. Tổ phụ Clément
d'Alexandrie đề nghị mừng lễ Noel ngày
19/4, nhưng cũng có
nhiều người chủ trương ngày
18/4 hoặc 24/3 hoặc 29/5.
Các Giáo hội Phương Đông mừng Chúa ra
đời ngày
6/1.
Xem lại lịch sử tôn giáo ta sẽ thấy là thật ra đến thế kỷ thứ 4, Giáo hội mới chính thức ấn định ngày
sinh của Chúa Hài
đồng. Cụ thể là sau
nhiều tranh
cãi gay gắt, mãi đến cuối triều đại Hoàng đế
Constantin ( qua đời năm 337 ), Giáo hội Công giáo La Mã mới dứt khoát chọn ngày
25/12 là ngày Chúa Giáng sinh, thay thế cho ngày lễ thần Mặt trời, Mythra.
Giải thích thường được đưa ra nhất đó là
Giáo hội muốn ngày lễ Giáng
sinh trùng với một những ngày lễ đã có của những người thờ đa thần thời ấy, mà những ngày lễ thường tập trung
vào mùa Đông. Mục đích là
để thúc đẩy sự bành trướng của Thiên
chúa giáo thuở ban đầu. Nhưng một số nhà sử học thì vẫn bác bỏ giải thích ấy, cho rằng nó
không có cơ sở lịch sử.
Hai thế kỷ sau, Dionysius Exiguus, một trong những tu sĩ
La Mã uyên thâm nhất thời đó, đề nghị thay thế kỷ nguyên Dioclétien ( tên một vị Hoàng Đế La Mã ) bằng Công
Nguyên, với khởi điểm là Ngày
chúa Giáng sinh, mà ông đặt vào năm 753 của La Mã ( tức là năm
-1 của Dương Lịch ). Nhưng nhiều nghiên cứu lịch sử cho thấy là
Dionysius Exiguus đã nhầm ít nhất là bốn năm! Thành ra, ví dụ như năm 2000 lẽ ra phải là năm
2004!
Bây giờ chính Cựu Giáo hoàng Benedicto 16, nguyên là một giáo sư thần học, cũng
nhìn nhận rằng Chúa
Giêsu không phải hạ sinh ngày 25/12. Trong cuốn sách thứ ba viết về cuộc đời của Chúa
Giêsu, xuất bản năm
ngoái, Ngài đã nêu ra những sai lầm trong việc xác định ngày và năm sinh của Đấng Cứu Thế và theo Giáo hoàng
Benedicto 16, đúng hơn là Chúa Giêsu đã xuống thế làm người từ cách đó 6
hoặc 7 năm,
chứ không phải cách đây
2013 năm. Nhưng Giáo
hoàng Benedicto 16 cũng nhắc nhở rằng sai lầm về tính toán ngày sinh không có nghĩa Chúa Giêsu là
một nhân vật hư cấu, mà thật sự Ngài đã
sinh ra vào một thời kỳ cụ thể và tại một nơi cụ thể.
Chúa Giêsu thời niên thiếu
Nhưng thật sự thì chúng ta biết được những gì về Chúa
Giêsu, ngoài những lời rao giảng và một số chi tiết được nêu
trong các sách Phúc Âm, chẳng hạn như về thời niên thiếu của Ngài ?
Chúa Giêsu trải qua thời thơ ấu ở Nazaret, vùng Galilea. Cho đến năm 5 tuổi, Thánh
Giuse là người dạy dỗ cho Chúa
Giêsu thấm nhuần những nguyên
tắc chính của đạo Do Thái.
Nhưng sau đó thì
không biết là Chúa
Giêsu có đến trường hay
không, vì cho đến năm 66
sau Công Nguyên, giáo dục mới trở thành bắt buộc đối với trẻ nhỏ. Nhưng một điều chắc chắn là theo
tục lệ thời đó, người cha truyền nghề cho người con. Cho
nên, Chúa Giêsu vừa học chữ, vừa học nghề của Thánh
Giuse.
Cũng theo tục lệ thời ấy, đến năm 10 tuổi, các em phải học vào trường Giáo luật Do Thái.
Đến năm 12
hoặc 13 tuổi thì rời trường này. Những em
thông minh nhất thì được nhận vào trường « chuyên sâu », được cùng với người lớn ngồi nghe những lời thuyết giảng của các thầy giảng ( rabbi
) uyên thâm nhất. Bản thân một số em sau này cũng có thể trở thành thầy giảng. Chính
vì được học trong trường này, mà
khi đi rao giảng Tin Mừng, Chúa
Giêsu đã có thể đối đáp rành
mạch với những người
pharisien và những thầy giảng rabbi
khác.
Năm 12 tuổi, cậu thiếu niên Giêsu nay có thể theo bố mẹ trong những lần hành hương, nhất là hành
hương đến Thánh Địa
Jerusalem vào dịp Phục Sinh. Từ Nazaret đến
Jerusalem đi bộ phải mất bốn ngày đường. Vào những lúc đó,
Thánh Địa đông nghẹt người, dân số bình thuờng khoảng 50 ngàn
tăng gần gấp đôi.
Khách hành hương đến từ những nơi đôi khi
rất xa. Họ dựng lều ở tạm trên đồi Cây
Olive hoặc nếu có kiếm nhà trọ trong những ngôi
làng kế cận
Jerusalem.
Thời thanh niên, Chúa Giêsu làm
gì ?
Theo Sách Phúc Âm theo Thánh Máccô, dân làng Nazaret đã rất ngạc nhiên
khi thấy Chúa Giêsu
khôn ngoan và làm được các phép lạ. Họ liền hỏi nhau: « Ông ta không
phải là bác
thợ, con bà
Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxê,
Giuđa và Simon sao ? ». Nhưng trong Phúc Âm theo Thánh
Mátthêu, thì câu hỏi này lại biến thành: « Ông không phải là con
bác thợ mộc sao? Mẹ của ông
không phải là bà
Maria; anh em của ông không phải là các
ông Giacôbê, Gioxép, Simon và Giuđa sao ?»
Thật ra, chữ « thợ mộc » có thể là không
chính xác. Theo giáo sư James Tabor, Đại học North Carolina, theo tiếng Hy Lạp, chữ tektone
có nghĩa rộng hơn thợ mộc, tức là cũng
có thể được hiểu như là
"thợ
xây". Nhất là vì ở xứ Galilê thời ấy, danh từ đó có lẽ dùng để nói về những người thợ làm nghề đá. Sách
Phúc Âm theo Thánh Giacôbê cũng nói rằng Thánh Giuse là thợ xây nhà. Đúng là
thời đó, nhà
cửa chủ yếu xây bằng đá, gỗ chỉ được dùng để làm cửa hoặc sườn nóc nhà.
Hơn nữa, những đồi núi
Palestine rất cằn cổi, gỗ là thứ nguyên liệu rất hiếm. Bản thân
Chúa Giêsu khi rao giảng cũng thường hay dùng những ẩn dụ về xây đá,
chứng tỏ rất có thể Ngài rất rành về nghề này.
Chúa Giêsu có phải là con một?
Đây cũng là câu hỏi mà các nhà sử học nghiên cứu về Chúa
Giêsu thường đặt ra, bởi vì nếu chiếu theo
Kinh Thánh, Chúa Giêsu dường như có nhiều anh em.
Sách Phúc Âm theo thánh Luca khi nói về gia đình
của Chúa
Giêsu đã « liệt kê » một danh
sách ít nhất là sáu
người con và
Chúa Giêsu có vẻ là con cả của gia đình
đông con này. Nhưng thế thì em
trái và em gái của Chúa
Giêsu là ai?
Khi Chúa Giêsu bắt đầu giảng dạy trong hội đường Do Thái Giáo ở Nazareth,
cử tọa đã ngạc nhiên hỏi: « Ông ta
không phải là bác
thợ, con bà
Maria, và anh em của các ông Giacôbê, Gioxê,
Giuđa và Simon sao? Chị em của ông
không phải là bà
con lối xóm với chúng ta
sao ?» Như vậy chẳng phải Chúa Giêsu có ít nhất 6 em trai, em
gái là gì. Bốn người em trai
của Chúa
Giêsu đều mang tên
của các tổ phụ. Có thể đây là dấu hiệu cho thấy gia đình
Chúa Giêsu tuân thủ rất nghiêm chỉnh truyền thống Do Thái Giáo. Hai người em gái
không được nêu tên
cũng là điều dễ hiểu, vì đó
là thời của chế độ gia trưởng.
Nhưng đó là căn cứ theo Phúc Âm theo Thánh
Luca. Trên thực tế, vào thế kỷ thứ 2, giới Kytô
giáo đã bất đồng với nhau về chuyện này. Đã
nói là Đức Mẹ Đồng Trinh,
thụ thai do
quyền năng của Chúa
Thánh Thần, vậy những người con kia sinh ra như thế nào? Nếu sinh ra
một cách
bình thường thì hóa
ra Đức Mẹ không phải là đồng trinh
trọn đời à ?
Thánh Jerôme là Giáo phụ đầu tiên khẳng định rằng, những người anh em của Chúa
Giêsu thật ra là
anh em bà con, chứ không phải anh em
ruột. Vốn là một nhà ngôn
ngữ học và rất rành tiếng Do
Thái, Thánh Jerôme lập luận rằng, trong tiếng Do Thái, chữ « ach » vừa có nghĩ
là « anh em », nhưng vừa có nghĩa là « anh em bà
con ». Khi dịch sang tiếng Hy Lạp Kinh Thánh Do Thái, bản dịch Septante chuyển « ach » thành
"« adelphos », chỉ có nghĩa là « anh em ». Cho nên,
trong các Phúc Âm chỉ nói là anh em của Chúa Giêsu. Nhưng vấn đề là lập luận của Thánh
Jerôme khó đứng vững. Theo
nhà nghiên cứu Mỹ John
P.Meier, trong tiếng Hy Lạp, chữ « adelphos » không bao
giờ bao hàm luôn
cả « anh em bà
con ».
Thành ra có những người khác đưa ra giả thuyết rằng, danh từ « anh em » ở đây thật ra có
nghĩa là anh em đồng đạo, giống như người
pharisien thường nói với nhau
trong nội bộ. Khi
thánh Phaolồ viết trong Thư gửi tín hữu Ga-Lát: « Tôi
đã không gặp một vị Tông Ðồ nào khác
ngoài Giacôbê, người anh em của Chúa », ý Ngài
muốn nói trên
anh em đồng đạo. Ai cũng
thấy là người « anh em » đó đã có
vai trò quan trọng như thế nào, vì
Thánh Giacôbê đã được chỉ định là lãnh đạo Hội Thánh Jerusalem.
Các Phúc Âm rất ít khi nói về gia đình Chúa Giêsu. Nhưng khi nói
đến thì lại đưa ra những chi tiết khá kỳ lạ. Chẳng hạn như Phúc Âm
theo Thánh Máccô viết : « Người trở về nhà và
đám đông lại kéo đến, thành
thử Người và các
môn đệ không sao
ăn uống được. Thân
nhân của Người hay tin ấy, liền đi bắt Người, vì họ nói rằng Người đã mất trí ». Vì sao gia
đình của Chúa lại có phản ứng như vậy?
Còn bản thân Chúa Giêsu thì nói gì về gia đình
của Ngài?
Hãy đọc Phúc Âm
theo Thánh Máccô, chương 3 : « Mẹ và anh em Đức Giêsu đến, đứng ở ngoài,
cho gọi Người ra. Lúc ấy, đám
đông đang ngồi chung quanh Người. Có kẻ nói với Người rằng:
"Thưa Thầy, có mẹ và anh em
chị em Thầy ở ngoài kia
đang tìm Thầy!" Nhưng Người đáp lại:
"Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi?" Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung
quanh và nói: "Ðây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai
thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh
em chị em tôi,
là mẹ tôi ».
Thật ra, theo tác giả Daniel Marguerat, tác giả cuốn « Jesus, ses
frères et ses soeurs », qua những câu nói
trên, Chúa Giêsu không hề có ý đả phá thiết chế gia đình, mà muốn nhấn mạnh đến việc con người được Thiên
Chúa tha thứ, xóa tội, bất kể người đó thuộc phe nhóm
nào, thuộc làng xã
nào hay thuộc quốc gia nào.
Chúa Giêsu và nữ Thánh
Maria Mácđala
Trong các nghiên cứu về Chúa Giêsu, nếu có nhân vật nào làm
tốn hao giấy mực nhất, thì đó
có lẽ là Maria
Mácđala. Bà là nữ Thánh nổi tiếng nhất trong
các nữ Thánh,
ngoại trừ Mẹ Maria.
Theo các sách Phúc Âm, Maria Mácđala là người đầu tiên
nhìn thấy Chúa Giêsu phục sinh.
Nhưng cuộc sống của bà sau
đó là như thế nào, người ta chẳng được biết bao nhiêu.
Thành ra có rất nhiều huyền thoại được thêu dệt chung
quanh nhân vật này ngay
từ những thế kỷ đầu tiên sau
Công Nguyên. Các hoạ sĩ thời xưa cũng đua nhau tôn vinh nữ Thánh
Maria Mácđala, sắc đẹp biểu tượng cho đức tin Kytô
giáo.
Ngay cả đến bây giờ, sức hấp dẫn của Maria Mácđala vẫn không suy giảm. Bằng chứng là cuốn sách Da
Vinci Code của Dan
Brown, khai thác huyền thoại Maria Mácđala, đã lôi cuốn không biết bao nhiêu là độc giả trên toàn
thế giới, cho dù
tác giả đã nhấn mạnh đây chỉ là tác phẩm hư cấu. Sử dụng một cách tài
tình những địa danh có
thật, những nhân vật trong
Phúc Âm, các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng, những chức sắc Giáo hội trong lịch sử và những tổ chức bí ẩn, Dan Brown đã « xào nấu » lại một giả thuyết có từ ngàn xưa: Maria
Mácđala là.. . tình nhân của Chúa Giêsu, đã có với Ngài một đứa con và
Giáo hội sau đó
đã làm đủ mọi cách để « ém nhẹm » việc này.
Giả thuyết này có lẽ xuất phát từ những Phúc Âm như Phúc Âm theo Thánh Maria,
mà người ta cho
là của Maria
Mácđala, nhưng nguồn gốc chính
xác không biết là từ đâu và được chép lại vào đầu thế kỷ thứ 5. Sách
này mô tả Maria
Mácđala như là người bạn gái rất thân của Chúa
Giêsu, người mà Chúa
truyền dạy những điều bí hiểm nhất.
Nhưng nhìn từ khía cạnh lịch sử, câu hỏi được đặt ra vẫn là: Maria Mácđala thật sự là ai? Nếu chỉ đọc bốn quyển Phúc Âm
chính thống, thì thật khó mà
có lời giải đáp cho
câu hỏi này.
Sách Phúc Âm theo Thánh Luca khi kể về Chúa Giêsu đi qua các làng mạc, thành
phố để loan báo
Tin Mừng, có đoạn: « Sau đó, Đức Giêsu rảo qua các
thành phố, làng mạc, rao giảng và loan
báo Tin Mừng Nước Thiên
Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh, trong đó
có bà Maria Mácđala ».
Đoạn văn này đáng chú ý hơn nữa là vì trong các Phúc Âm,
các phụ nữ ít khi
nào được kể tên. Mặt khác,
sau khi đã trung thành theo Chúa cho đến khi Ngài chịu đóng đinh trên thập giá và
sau khi đã dự vào việc chôn cất Chúa, bà đã cùng
với các phụ nữ khác mua
dầu và thuốc thơm để tẩm liệm cho Ngài
: « Rồi các bà về nhà, chuẩn bị dầu và thuốc thơm. Nhưng ngày
sabát, các bà nghỉ lễ như Luật truyền » ( Phúc Âm
theo Thánh Luca ). Maria Mácđala cũng là người đầu tiên
nhìn thấy Chúa sống lại từ cõi chết.
Nhưng về sau, vai trò của Maria Mácđala nói riêng và
các phụ nữ nói chung
trong Giáo hội dần dần bị đẩy xuống hàng thứ yếu. Điều này được thể hiện qua một đoạn trong
Sách Phúc Âm. Khi Maria Mácđala giải thích cho các Thánh Tông đồ về những gì mà Chúa Giêsu giảng dạy cho bà,
Thánh Phêrô đã phản ứng: « Làm sao mà
Thầy có thể nói cho một phụ nữ những bí mật mà chúng
ta không biết? Chẳng lẽ chúng ta
phải nghe người phụ nữ này? Có
đúng là Thầy đã chọn và ưu ái bà ấy hơn chúng ta
?».
Trong cuốn sách « Jésus, cet
homme inconu », tác giả Christine Pedotti nhấn mạnh rằng, phụ nữ đã đóng một vai trò
quan trọng trong số các môn đệ của Chúa
Giêsu. Pedotti ghi nhận là các bà đã được đặt ngang hàng với 12 Thánh
Tông Đồ, tức là nằm trong số những người rất thân cận với Chúa
Giêsu. Nhà báo Pedotti lấy làm tiếc là các nhà nghiên cứu về Chúa Giêsu cho tới nay đã
không nêu bật điều đó.
Lý giải mà tác giả đưa ra là các sách Phúc Âm chủ yếu đã được đọc và được bình phẩm bởi những người đàn ông,
trong những xã hội mà phụ nữ không được quyền nói và
quyền được giáo dục. Bà
Pedotti rất đồng cảm với những phụ nữ, đã bỏ cả chồng con để theo chân
Chúa Giêsu, đã ở bên Ngài
cho đến khi Ngài
chịu đóng
đinh trên thập giá,
trong khi các Thánh Tông đồ, kể cả Thánh Phêrô, chạy tứ tán như rắn mất đầu.
Cái độc đáo trong cuốn sách của Pedotti
đó là bà chia sẻ niềm say mê của bà với nhân vật Giêsu,
như nữ thánh
Maria Mácđala, như một người phụ nữ bị quyến rũ bởi một người đàn ông
đầy sức hấp dẫn.
Có thể nói là chúng ta hiện có cả một bộ Bách Khoa
Toàn Thư về Chúa
Giêsu và bộ sách này,
trong 1000 năm hay 2000 năm sẽ còn được bổ sung thêm nhiều cuốn nữa và có lẽ sẽ không bao
giờ dứt, bởi vì Chúa
Giêsu là đề tài
nghiên cứu vô tận.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/12/thanh-phuong-chua-giesu-e-tai-nghien.html
=======================================================================

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001