08/01/2013
Trung tướng Trần Độ - Nguyên Phó Bí thư Quân ủy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội
Nỗi đau còn đó
Trần Kinh Quốc( Nhân 10 năm ngày mất của Chú Trần Độ-Người bạn thân tình gần gũi của Cha Mẹ, láng giềng kề cận nhà tôi, Chú là người được cả nhà yêu mến và quý trọng, với góc độ tình cảm gia đình , TKQ kể lại chuyện buổi tang lễ của Chú để cả số nhà 99 cùng tưởng nhớ đến Ông Tướng nhà số 97 – Láng giềng gần -Phố Trần Hưng Đạo Hà Nội.(Trần Đình Ngân )NỖI ĐAU CÒN ĐÓ“Những người có tâm, có đức sẽ sống mãi...”
Đây
là bài viết sau khi từ HN viếng cụ Trần Độ về. Năm nay tròn 10 năm cụ
đi cũng là "tuổi" của bài viết. Một số chi tiết có điều chỉnh nhẹ nhưng
giữ nguyên nội dung). Nghe
tin tang lễ cụ Trần Độ, một lão thành cách mạng, được tổ chức tại Nhà
tang lễ quốc gia, chúng tôi có mặt từ sớm. Từ 8 giờ ngày 14-8-2002, họ
hàng, bạn bè thân hữu, đồng chí đồng đội trong 2 cuộc kháng chiến của
dân tộc, các văn nghệ sĩ… đã tập trung về số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội.
Cửa hàng bán hoa ngay cổng hôm nay thật đắt khách. Bàn đăng ký vào viếng
đặt ngay gần cổng, các đoàn đến viếng được các nhân viên ghi theo ý đồ
của ban tổ chức. Khắp nơi thấy sắc phục của lực lượng công an và kiểm
soát quân sự. Trong sân, dọc theo tường 2 cánh gà nhà tang lễ là những
vòng hoa tươi của các đoàn chờ đến lượt. Khách đợi vào viếng đứng ngồi
trò chuyện dưới bóng mát của hàng cây xanh cách nhà tang lễ một khoảng
trống.
Khi
len được vào bên trong nhà tang lễ thì nghe thông báo trên loa: “Đoàn
Tổng cục Chính trị do ông Hân (Phó chủ nhiệm) dẫn đầu vào viếng ông Trần
Độ”. Trong tiếng nhạc “Chiêu hồn tử sĩ” trầm hùng, 2 chiến sĩ mặc lễ
phục trắng đỡ vòng hoa đi nghiêm dẫn khách vào viếng. Linh cữu cụ được
đặt ở trung tâm, xung quanh đã có sẵn những vòng hoa và các bức trướng.
Áo quan có mở cửa sổ vừa đủ thấy khuôn mặt cụ. Cụ nhắm mắt thanh thản
như vừa làm xong một việc lớn. Tấm băng-rôn đen treo trên tường đá đen
với dòng chữ trắng “LỄ TANG ÔNG TRẦN ĐỘ” làm ai cũng xúc động, nghẹn
ngào - Tang lễ tổ chức khác thường quá với một người có công lớn với
nước! Một bầu không khí nặng nề bao phủ. Mọi thành viên trong gia đình
mặc đồ đen. Có lẽ chỉ có Văn phòng Quốc hội, Ban Tổ chức Chính phủ, Tổng
cục Chính trị là những cơ quan được phép đi viếng chính thức.
Các
hãng thông tấn nước ngoài AFP, Reuteur, CNN, BBC… đều có mặt. Có hãng
cử nhân viên đứng trong nhà tang lễ, ghi tỉ mỉ tên từng đoàn khi trực
tiếp đọc băng tang gắn trên các vòng hoa. Họ xem cụ được đối xử ra sao!
Đoàn bạn tù Sơn La – Hỏa Lò vào viếng có các cụ Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Đức Tâm, Nguyễn Thanh Bình… Ông Lê Đức Anh, bạn chiến đấu ở R, gửi vòng hoa đến viếng. Riêng cụ Mười Hương từ Sài Gòn nghe tin cũng bay ra viếng bạn. Cụ đã yếu lắm, một tay đã bị liệt, tay còn lại chống ba-toong, chân lết từng bước 5-10cm nhưng cương quyết không để cho ai đỡ(?!). Sau khi viếng bạn, cụ Mười Hương đã ôm lấy bà Hằng khóc nấc lên. Thật cảm động!Hội Nhà văn, Hội Nghệ sĩ tạo hình, Hội Nhạc sĩ, Hội Nghệ sĩ múa, Hội Tuồng, Hội Chèo… đều cử đoàn đến viếng. Tôi gặp các nhà thơ, nhà văn nổi tiếng Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Hữu Mai, Hữu Thỉnh, Hà Xuân Trường, nhạc sĩ Trần Hoàn… những người một thời cùng làm việc với cụ ở Bộ Văn hóa, Ban Văn hoá – văn nghệ Trung ương, Ban Văn hóa Quốc hội… Họ đến với niềm đau thương sâu sắc chia buồn cùng gia đình.Trên bàn ghi lời chia buồn là những quyển sổ tang bọc vải đen. (Khi chuẩn bị tang lễ, ban tổ chức đề nghị dùng giấy rời “chất lượng cao” làm sổ tang, nhưng gia đình không nghe). Hai nhân viên tỏ ra rất nhiệt tình sắp xếp bút, sổ và mời khách vào bàn ghi sổ tang.
Đến
lượt chúng tôi vào viếng thì nghe thông báo: “Ông Võ Nguyên Giáp gửi
vòng hoa đến viếng ông Trần Độ”. Thế mới biết, cụ Văn là con người trọn
nghĩa, vẹn tình. Quãng năm 1946, cụ giao nhiệm vụ cho cụ Độ dịch và in 2
quyển sách từ tiếng Trung Quốc “Công tác chính trị viên đại đội” và
“Công tác chính trị trong đại đội” để cấp cho các đơn vị. Đến năm 1954,
khi cụ Văn là Tư lệnh mặt trận Điện Biên Phủ thì Đại đoàn 312 do cụ Lê
Trọng Tấn và cụ Trần Độ chỉ huy đã tấn công vào Sở chỉ huy và bắt sống
tướng Đờ-Cát. Rồi những năm đầu thập kỷ 60 cùng đi học Gen-staff ở Liên
Xô để chuẩn bị đánh Mỹ… Những tình cảm ấy thật khó phai!
Các
đoàn lần lượt vào viếng. Nắng càng về trưa càng gắt, nhưng dòng người
vẫn nối đuôi nhau vào viếng. Từ sớm đến trưa có dễ đến vài nghìn người
đến viếng. Trên sân, các cựu chiến binh thì thào trao đổi và chuyền tay
những bản thảo viết về thủ trưởng của mình. Họ vẫn dành cho cụ những
tình cảm tin yêu, quý trọng, dù cho có người nói nọ nói kia. Không ít
những vị khách không mời - đeo kính đen - len lỏi trong các cựu chiến
binh để nghe ngóng xem các cụ nói gì. Lắm vị bị các cụ chỉ mặt đuổi
thẳng tay... Có đoàn mang vòng hoa với dòng chữ “Kính viếng lão tướng
Trần Độ” thì bị ban tổ chức yêu cầu bóc ra thay bằng dòng chữ “Kính
viếng ông Trần Độ”. Một cựu chiến binh dõng dạc:
-
Tin buồn trên báo Quân đội và Nhân dân ghi ông là trung tướng. Đúng
không?- Dạ, đúng.- Thế ông đã già thì có phải là lão hay
không? Ghi “lão tướng” có gì sai?- Dạ, chúng cháu chỉ biết làm
theo lệnh trên.Nhà
sử học Dương Trung Quốc khi đến viếng đã kính cẩn ghi vào sổ tang:
“Tưởng nhớ đến người đã có công trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Những gì còn lại sẽ được lịch sử phán xét!”. Đau lòng hơn khi một cựu
chiến binh mới viết xong lời tâm sự với thủ trưởng cũ và lời chia buồn
với gia đình, vừa đứng lên đã bị nhân viên đứng sau lưng giật sổ, đòi
xé trang mới viết. Không đồng ý, ông giằng tay giữ lấy cuốn sổ tang.
Phóng viên nước ngoài thấy ầm ĩ đã ập đến…Những
chiến sĩ của Trung đoàn Thủ đô từng sống với thủ trưởng Độ 60 ngày đêm
từ ngày 19-12-1946, nay đã vào tuổi “xưa nay hiếm” khoác trên người bộ
quân phục với đầy đủ quân hàm và huân huy chương, cùng thẻ “Chiến sĩ tự
vệ Thủ đô” cũng có mặt. Họ rất kiêu hãnh và tiếc thương một con người
nghĩa khí. Cụ Lê Ngọc Hiền, nguyên Tham mưu truởng Sư 312, mặc quân phục
với quân hàm thượng tướng, thay mặt cho gia đình đến vĩnh biệt cụ Trần
Độ, người đã cùng anh mình - Tư lệnh Lê Trọng Tấn – cách đây hơn nửa thế
kỷ dựng lên Đại đoàn 312 anh hùng.Khi
đang đứng trong sảnh lại nghe ban tổ chức một lần nữa giới thiệu vòng
hoa của cụ Văn gửi đến viếng. Mọi người sửng sốt!? Hóa ra lần trước khi
đưa vòng hoa vào, ban tổ chức yêu cầu dừng lại để thay đổi nội dung (bỏ
chữ “Vô cùng” và không được ghi cấp bậc của 2 vị tướng và thay bằng từ
“ÔNG”). Đồng chí thư ký không chấp nhận đã điện thoại ngay cho cụ Văn.
Cụ chỉ thị: giữ nguyên! Sau một hồi bàn cãi, đôi bên nhượng bộ, 2 chữ
“Vô cùng” phải bỏ đi và vòng hoa viết lại với nội dung: “Thương tiếc
Trung tướng Trần Độ – Đại tướng Võ Nguyên Giáp”, được đưa vào lần
này(!?) . Đau quá! Ai đã cho ra những quy định này để bôi nhọ đất nước
ta? Cảm
động hơn khi nghe giới thiệu đến đoàn của Sư 312 thì thấy hơn 500 cán
bộ, chiến sĩ các thời kỳ (người trong quân phục, người mặc thường phục,
có những cụ phải chống nạng vì đã mất một chân, cụ ông có, cụ bà cũng
có…) mang theo vòng hoa lớn: “Hội truyền thống Sư đoàn 312 tại Hà Nội
kính viếng Chính uỷ Đại đoàn 312 Trần Độ”. Dòng người không dứt, họ tới
để nhìn mặt thủ trưởng cũ lần cuối.Những
tấm phướn đỏ với nhiều nội dung được các đoàn trực tiếp mang vào viếng.
Những vòng hoa “không đúng quy định” đều được chuyển ngay ra sân sau và
bóc đi dải băng đen. Chính tôi đi tìm vòng hoa của gia đình mà không
thấy(!).
Đám
tang của cụ Trần Độ là đám có nhiều Camera men
“phục vụ” với chục máy quay vidéo kỹ thuật số, họ lởn vởn, thản nhiên
quay tất cả mọi người đến viếng. Có điều, hỏi kỹ ra, họ không phải là
người của gia đình, không phải là bè bạn thân thiết của người quá cố
(!). Nhiều
tướng lĩnh không mặc quân phục cũng có mặt, họ đến với một tình cảm của
những người lính đã cùng chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. (Nghe
đâu, các cơ quan Bộ Quốc phòng đều lên lịch giao ban điều lệnh vào cả
sáng nay!). Tuy vậy, khi các tướng lĩnh tại ngũ bận thì các gia đình
quân nhân ở khu Lý Nam Đế, Cửa Đông, Hoàng Văn Thụ, Trần Phú, Phạm Ngũ
Lão, Nam Đồng, Phan Đình Phùng… đi viếng thay đều có mặt đông đủ ! Văn
nghệ sĩ các thế hệ trong và ngoài quân đội (đạo diễn, NSƯT, NSND, diễn
viên, hoạ sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, nhà thơ, nhà văn…) với một tâm hồn thật
trong sáng đã đến với một nhà chính trị làm công tác văn hoá, văn nghệ
nhưng rất gần gũi, rất cảm thông và luôn giúp đỡ họ. Lòng người ta là
thế!Kết
thúc lễ viếng, ban tổ chức đòi kiểm duyệt sổ tang(!?). Gia đình cực lực
phản đối. Đúng 12 giờ 15, ban tổ chức mời các quý khách vào bên trong
làm lễ truy điệu. Gia đình đứng hàng ngang về phía bên trái, 1 trung đội
lính mặc quân phục xanh, đội mũ kê-pi, tay đeo bang đỏ, dàn hàng ngang
trước linh cữu. Quan khách đứng đông nghịt. Mọi người nhìn lên tấm
băng-rôn đen, xì xào: “Người Việt Nam ta có đạo lý “nghĩa tử là nghĩa
tận”, cho dù ai có khuyết điểm cũng không bao giờ bị đối xử như vậy,
chưa kể cụ Trần Độ lại là một người lính vào sinh ra tử”… Không khí lễ
truy điệu rất nặng nề!Ông
Vũ Mão thay mặt Văn phòng Quốc hội lên đọc điếu văn. Cả điếu văn ca
ngợi cuộc đời hy sinh chiến đấu của cụ nhưng đến câu cuối cùng: “Tiếc
rằng, về cuối đời, ông đã phạm một số khuyết điểm…(Những tiếng thở dài
và nấc nghẹn trong những người đưa tang)... Để tưởng nhớ đến người đ
khuất… (Lại những tiếng thở dài…... chả lẽ họ chỉ coi người có công với
nước như một kẻ chết dọc đường…)... chúng ta dành một phút mặc niệm!”.
Nhạc “Chiêu hồn tử sĩ” vang lên trầm hùng. Đau đớn, thương tiếc, lưu luyến…
Sau đó, ban tổ chức giới thiệu
anh Trần Thắng, con trưởng của cụ, đọc lời cảm tạ. Anh cảm ơn ban tổ
chức tang lễ, Văn phòng Quốc hội đã đứng ra tổ chức đám tang cho cụ. Anh
cảm ơn họ hàng, đồng chí đồng đội, bạn bè, Bệnh viện 108, Bệnh viện Hữu
nghị đã chăm sóc và thăm hỏi trong thời gian cụ đau ốm và đến viếng,
tiễn đưa cụ đến nơi an nghỉ cuối cùng. Anh dõng dạc:
-
Bố Tạ Ngọc Phách kính yêu của chúng con! Cuộc đời trong sáng, liêm
khiết của bố đã là tấm gương cho chúng con học tập và giáo dục con cháu
noi theo. Bố mẹ đã dạy dỗ 4 anh em chng con thành những người có ích cho
xã hội. Mong bố yên giấc ngàn thu!... Về phía gia đình, chúng tôi không
chấp nhận đoạn cuối của điếu văn của ban tổ chức tang lễ!
Lập
tức có tiếng vỗ tay hưởng ứng, rồi như một đợt sóng trào tiếng vỗ tay
nổi lên khắp nhà tang lễ. Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà trong
không khí đau thương của lễ truy điệu, mọi người đã vỗ tay để tôn vinh
người đã mất. Tiếng vỗ tay kéo dài đến 5 phút. Một nữ phóng viên (có lẽ
của AFP) đã hỏi ngay một phụ nữ biết tiếng Pháp (sau biết là bà Ngô Bá
Thành, luật sư, đại biểu Quốc hội) đứng không xa: “Vì sao trong tang lễ
lại vỗ tay?”…
Một lão đồng chí không nén được, chỉ tay lên tấm băng-rôn nói to:
-
Cả cuộc đời chúng tôi đi chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ
quốc, để đến giờ có người lại treo tấm băng-rôn kia trong đám tang của
người có công. Tại sao lại không phải là “Vô cùng thương tiếc ông Trần
Độ”? Làm như vậy là phạm vào truyền thống, đạo lý của người Việt Nam.
Thử hỏi bố mẹ các ông chết thì có thể treo tấm băng-rôn như thế không?
Ồn
ào, xôn xao khắp nhà tang lễ. Có cụ nói: ”Họ đã bôi nhọ danh dự của
Đảng, danh dự của Nhà nước”. Ban tổ chức phải lên loa mời gia đình lên
thắp hương cho cụ lần cuối. Có cựu chiến binh ra khỏi nhà tang lễ nói:
“Tiếc rằng năm 1952, tôi đã ký để cái thằng đọc điếu văn ngày hôm nay
sang Trung Quốc học Thiếu sinh quân. Nó là đồ “ăn cháo đá bát”. Nó sẽ
đau đớn cho đến khi chết!”. Các nhà báo nước ngoài tìm mọi cách tiếp cận
những cụ quá bức xúc để phỏng vấn. Thật là đau khổ cho một cách cư xử
thiếu văn hóa, thiếu đạo lý của người Việt Nam…
Khi
đưa linh cữu ra xe, gia đình kiên quyết giữ tấm phướn “Trí dũng – Vì
dàn”. Con cháu trong gia đình đã giương cao những tấm phướn của bạn bè,
đồng đội ca ngợi cụ:
- “Trọn nghĩa nước non, Vẹn tình đồng chí – Ban Liên lạc Báo QĐND”,
- “Tuệ mục, tuệ tâm/ Văn nhân, Võ tướng”
-
“Kính viếng Tướng quân Trần Độ: NHÂN VĂN DANH TƯỚNG, TRUNG DŨNG VẸN
TOÀN - Ngày 9 tháng 8 năm 2002. Tập thể chí thiết kính viếng!”. Bức
trướng này do cụ Lê Giản đứng đầu với danh sách của hơn 20 cựu chiến
binh.
- “Kính
viếng lão tướng Trần Độ: Công thần không làm phách/ Danh toại chẳng cần
nhàn/ Bút thần vung mấy độ/ Đáng mặt ĐẠI NGHĨA NHÂN”. (Xin lưu
ý, tại đây ông Trần Khuê đã chơi chữ vì Phách và Độ đều là tên của người
đà khuất). Mà có phải ai cũng làm được những câu đối chát chúa như thế!
Sau
xe linh cữu là 2 xe quân sự Kraz chở đầy vòng hoa và lính tiêu binh.
Thật tiếc là vòng hoa treo quanh thành xe bị bóc hết dải băng ghi tên
người và đoàn đến viếng. Họ sợ dân chúng dọc đường cụ đi qua sẽ biết
được những ai đã đến với cụ trong giờ phút cuối cùng. Đúng là cụ đã mất
nhưng cụ vẫn sống mãi trong lòng đồng chí, đồng bào. Chả thế một chiến
sĩ của cụ ở Đại đoàn 312 đã viết: “Đời người ta ai học hết chữ Ngờ/ Ngờ Anh chết, nhưng Anh vẫn sống!”
Qua
các ngã ba, ngã tư đều có cảnh sát và quân cảnh bảo vệ cho đoàn xe
thông suốt. Gia đình đưa cụ về 97 Trần Hưng Đạo và rước di ảnh cùng bát
hương vào nhà. Bà con khối phố đứng kín hai bên đường tiễn đưa cụ với
tấm lòng đầy thương tiếc và kính trọng.
Con
đường Nam Bộ cách đây 40 năm đã đưa cụ và Bộ chỉ huy Đại đoàn 312 vào
Nam chiến đấu theo đề nghị đích danh của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, hôm
nay lại lưu luyến tiễn đưa cụ về nơi an nghỉ cuối cùng. Theo di chúc,
cụ đề nghị được hoả táng (vì đất cho dân ở đã quá chật), sau đó đưa lên
chùa. Nhưng gia đình đề nghị đưa về quê ở Tiền Hải, Thái Bình yên nghỉ
cùng tổ tiên và bà chị Tạ Thị Câu– người đã hết mực thương yêu em và là
người đầu tiên giác ngộ cụ theo Đảng. Cụ đã đồng ý trước khi nhắm mắt.
Trưa đó, gia đình đưa cụ về Đài hóa thân hoàn vũ Văn Điển. Cả một đoàn
tầu từ Nam ra đã dừng lại chờ cho cụ đi qua.
Linh
cữu cụ được lính tiêu binh đưa từ trên xe tang vào gian vĩnh biệt.
Hương khói nghi ngút. Trên cửa dẫn vào buồng hoả thiêu là tấm bảng “Vô
cùng thương tiếc ông Trần Độ”. Lần lượt từng người đến nhìn mặt cụ lần
cuối… Chuông đồng gióng lên những tiếng chuông vĩnh biệt! Lửa bật lên và
cửa lò khép lại! Cụ đã về với Vĩnh hằng…
Sáng ấy đến đăng kí viếng.
- Bác đi theo đoàn nào?
- Gia đình Thiếu tướng TTB?
- TTB là ai?
- Bạn Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh ông Trần Độ.
Cả hội ngơ ngác nhìn. Chán!
Khi
đưa ông đến Đài hóa thân Hoàn Vũ Văn Điển, vì có Lý Anh, bạn cũ cùng
thời ĐHKT QS, hiện là cán bộ phụ trách ở đây nên chạy vào trong, chuyện
trò vài câu. - Bác đi theo đoàn nào?
- Gia đình Thiếu tướng TTB?
- TTB là ai?
- Bạn Đại tướng Võ Nguyên Giáp, anh ông Trần Độ.
Cả hội ngơ ngác nhìn. Chán!
- Ừ, tôi biết đám cụ Độ rồi. Nghe mấy tay trên HN phi xe xuống đây trước, bảo trên kia ầm ỹ lắm. Thấy ở đây treo băng rôn: "Vô cùng thương tiếc ông Trần Độ!", họ bảo phải thay như trên nhà tang lễ ( bỏ chữ vô cùng!) . Tôi bảo: Ở đây ai chết (dù là quan to hay dân thường, thậm chí là kẻ có tội) chúng tôi đều có câu "vô cùng thương tiếc". Còn ông nào muốn bỏ thì tự làm. Rồi chắc họ sợ...
Nguồn: Lexuanquang
Tiếng vỗ tay trong một đám tang
(Tường thuật của nhà văn Hoàng Tiến)
Đám tang ai mà có chuyện lạ vậy ? Xin thưa, đó là đám tang tướng quân nhà văn Trần Độ tổ chức ngày 14-8-2002 tại nhà tang lễ Bộ Quốc phòng số 5 Trần Thánh Tông.
Trung tướng Trần Độ là một vị lão thành cách mạng, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy Đảng và Nhà nước cũng như trong tổ chức quân đội, những năm cuối Đảng, bị chính quyền coi là phần tử nguy hiểm, và công an gây nhiều phiền hà.
Cho nên đám tang ông khiến mọi người rất quan tâm. Nghĩa tử là nghĩa tận. Người ta chú ý xem lãnh đạo cư xử với đám tang ông ra sao ?
Ông mất từ hôm mồng 9-8, việc đưa tin trên báo và tivi rất chậm. Mãi đến ngày 13-8 báo chí mới loan tin, và tối ngày 13-8 cô phát thanh viên trên tivi mới đọc tin tang lễ.
Cô vẫn mặc áo màu hoa đẹp hàng ngày, không mặc áo tang đen. Đưa tin sát ngày như thế, thì người các tỉnh xa, trong đó có nhiều đồng đội, đồng nghiệp, và những người ái mộ ông không thể về kịp, vì ngày mai 14 đã lễ tang rồi.
Ngày 14, từ 8 giờ sáng bắt đầu lễ viếng. Tuy nhiên những người yêu quý ông Độ ở Hà Nội và những tỉnh sát Hà Nội đã về kịp. Họ đi cá nhân, hoặc thành nhóm. Không thấy những viên chức cao cấp đương nhiệm, hoặc các cơ quan đoàn thể đến viếng. Hình như có chỉ thị của Ban Bí Thư (có người nói của Bộ Chính Trị) gửi các cơ quan đoàn thể về tang lễ này, hạn chế sự tham gia.
Các vòng hoa đề chữ Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ bị ách lại từ ngoài cổng. Phải bỏ chữ Vô cùng thương tiếc và quân hàm trung tướng đi. Thắc mắc thì anh em nhà tang lễ giải thích : “Chúng cháu chỉ biết làm theo lệnh ở trên.” (!)
Vòng hoa của đại tướng Võ Nguyên Giáp đề hàng chữ : "Vô cùng thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp" cũng bị ách lại, đưa vào phòng đợi ngoài cổng, và đề nghị sửa (có anh em chuyên môn sửa ngay). Nghĩa là phải bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc, và các quân hàm trung tướng, đại tướng, chỉ còn là ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ. Thư ký của đại tướng là ông Huyên, phản đối. Chuyện đôi co lằng nhằng, hai bên đều phải xin ý kiến cấp trên của mình. Mỗi bên đều xuống thang một chút. Cuối cùng vòng hoa còn là: "Thương tiếc trung tướng Trần Độ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp". Có lẽ là vòng hoa duy nhất được giữ gần như nguyên vẹn lời viếng. Nhưng khi Ban Tang Lễ gọi loa đọc tên người viếng thì lại gọi là : "Vòng hoa của ông Võ Nguyên Giáp viếng ông Trần Độ."
Những người đứng đợi trong sân nhà tang lễ, nghe thấy thế, đều xì xào bàn tán. Ông Kim Sơn, một lão thành cách mạng, tham gia từ hồi quân giải phóng, không chịu nổi đã tiến lên cự nự Ban Tang Lễ. Quân hàm của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là do Bác Hồ phong. Ai dám tự ý tước bỏ ? Sao các anh làm ăn bậy bạ thế ? Vòng hoa vẫn đề chữ đại tướng, mà các anh đọc sai đi là nghĩa sao ?
Thì quân hàm trung tướng của ông Trần Độ cũng thế, muốn tước bỏ phải có quyết định của quốc hội hoặc chủ tịch nước. Báo chí vẫn đăng là trung tướng, mà tang lễ lại bỏ đi. Thật chẳng ra làm sao ! Rõ là trống đánh xuôi kèn thổi ngược !
Lại nói đến vòng hoa của thượng tướng Lê Ngọc Hiền đề là đồng chí Trần Độ, cũng bị bỏ đi chữ đồng chí. Chắc sự chỉ đạo ở trên cho rằng, ông Trần Độ đã bị khai trừ khỏi Đảng thì không còn gọi là đồng chí nữa. Nhưng họ đã lầm, theo điều lệnh của quân đội, thì từ binh nhì đến tướng lĩnh đều xưng hô với nhau là đồng chí. Ông Lê Ngọc Hiền mặc quân phục, đeo quân hàm thượng tướng trang nghiêm, đến viếng ông Trần Độ, mà cũng chỉ được giới thiệu trên loa là ông Lê Ngọc Hiền đến viếng ông Trần Độ.
Trung tướng Nguyễn Hòa cũng quân phục, quân hàm, huân chương đầy đủ và cũng chịu cảnh ngộ như trên.
Vòng hoa của anh em dân chủ Hải Phòng đề là "Vô cùng kính phục và thương nhớ bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng" phải sửa thành "Kính viếng bác Trần Độ. Các bạn đồng hành ở Hải Phòng". Vòng hoa cá nhân Vũ Cao Quận, đi cùng đoàn Hải Phòng, đề "Kính viếng lão tướng Trần Độ. Người lính già Vũ Cao Quận" bị giữ lại. Tranh cãi hồi lâu, không có cụm từ vô cùng thương tiếc, không có trung tướng hay đồng chí, lại không có gì sai phạm về ngữ pháp tiếng Việt, vậy cớ gì phải sửa, ai sửa được đúng hơn, xin mời. Mãi rồi cũng được vào.
Những vòng hoa mẫu mực có băng chữ ghi phải là "Vòng hoa của ông Nguyễn Văn An kính viếng ông Trần Độ", "Vòng hoa của ông Lê Đức Anh kính viếng ông Trần Độ", "Vòng hoa của Văn phòng Quốc hội kính viếng ông Trần Độ" ..v..v.. Không thấy vòng hoa của ông Nông Đức Mạnh.
Chúng tôi để ý thấy nhiều bức trướng chữ vàng trên nền đỏ vẫn đề trung tướng, tướng quân, danh tuớng ..v..v... không thể gỡ bỏ vì đã thêu bằng chỉ vàng bám chắc trên vải. Trong đó nổi bật bức trướng của các cụ dân chủ, trướng dài khổ to sát đất phải có gậy treo lên, thêu tám chữ vàng "Nhân văn danh tướng. Trung dũng vẹn toàn". Bên dưới ghi tên tuổi các vị kính viếng. Trưởng đoàn là cụ Lê Giản, rồi đến các ông Hoàng Minh Chính, Lê Hồng Hà, Phạm Quế Dương, Nguyễn Thanh Giang ..vv..., hơn hai mươi ông. Mọi người xúm lại xem. Chụp ảnh. Quay phim. Có tiếng gọi bằng máy di động, đề nghị tịch thu. Rồi cũng không thấy gì. Mọi việc vẫn êm trôi. Tịch thu bức trướng trưởng đoàn là cụ Lê Giản thì cũng phiền đấy. Hơn nữa các cụ dân chủ đã đứng vây quanh bức trướng. Công an dùng bạo lực thì lôi thôi to.
Đoàn của các cụ dân chủ chỉ bị kìm lại thôi. Nhiều đoàn đăng ký sau đã vào trước. Ban tang lễ gây khó khăn cho các cụ phải đứng chờ dưới bóng cây, nắng chang chang, nhưng lại có cái hay là nhờ thế, mọi người hết tốp này tốp khác đến chiêm ngưỡng, bàn tán về các bức trướng. Bức trướng của nhà nghiên cứu Trần Khuê bị quản chế từ Sài Gòn gửi ra :
Công thần không làm phách
Danh toại chẳng cầu nhàn
Bút thần vung mấy độ
Ðáng mặt đại nghĩa quân.
(Ta chú ý bài thơ có chữ phách và chữ độ. Tên khai sinh là Tạ Ngọc Phách, tên tham gia cách mạng là Trần Độ).
Bức trướng của nhà thơ Bùi Minh Quốc bị quản chế từ Đà Lạt gửi ra, người anh ruột là cụ Bùi Minh Đức gần 90 tuổi, cựu chiến binh chống Pháp, thay mặt em mang đến : Vì đại nghĩa nhân chân, thân mấy độ trần thân
Tướng dẫu không nguyên giáp, hồn vẫn vẹn tình dân
(Tạm dịch : Người chân chính vì nghĩa lớn, cái thân mình bị mấy lần vùi dập
Viên tướng không còn nguyên giáp, tâm hồn ông vẫn trọn vẹn tình dân)
Bức trướng của tiến sĩ khoa học Hà Sĩ Phu cũng bị quản chế, từ Đà Lạt gửi ra, viết bẵng chữ Hán, do các cụ trong nhóm thư pháp Cảo Thơm thực hiện: Văn võ tung hoành, trung tướng phong trần, thế sự song kiên song trọng đảm
Bắc Nam xuất nhập, đại quân tế độ, hùng binh nhất trượng nhất đan tâm.
(Câu đối vế trên có Trần vế dưới có Độ. Trung tướng phong trần là trung tướng gian nan, lại có thể hiểu là ông Trần được phong trung tướng. Đại quân tế độ là đội quân cứu đời, tức quân giải phóng miền Nam. Đây nhắc đến việc ông Trần Độ là phó tư lệnh quân giải phóng miền Nam. Vậy câu đối trên có thể tạm dịch là : Văn võ dọc ngang, ông Trần được phong hàm trung tướng, việc đời hai vai gánh vác hai trách nhiệm lớn;
Nam Bắc vào ra, tướng Ðộ chỉ huy quân giải phóng, cứu nước một gậy trường sơn một trái tim hồng
Bức trướng của nhóm Cảo Thơm trên nền giấy bồi khổ lớn đề 3 chữ đại tự "Vị dân tâm" (Tấm lòng vì dân), với hàng phụ đề bằng những câu thơ chữ Hán ca ngợi tướng quân Trần Độ. Ông Tú Sót mái đầu bạc phơ, trong nhóm thư pháp Cảo Thơm, luôn miệng giải thích cho mọi người rõ nghĩa : Vô tình vị tất chân hào kiệt
Hữu độ phương vi đại trượng phu
(Nghĩa là : Sống vô tình (như chủ nghĩa MACKENO(Mặc-kệ-nó) bây giờ), không phải là người hào kiệt. Có đức độ (vì dân vì nước) mới đáng mặt gọi trượng phu).
Lại nghe được tin, cụ Độ vừa mất, công an đến đòi khám nhà, không có lệnh. Bà Độ phản đối. Công an đe dọa những người con, bắt hai con trai lên đồn, gây căng thẳng. Cuối cùng gia đình phải nộp 5 thùng sách vở của cụ Độ. Mọi người nghe tin đều phẫn nộ. Quá thể ! Gia đình người ta đang tang gia bối rối. Thật nhẫn tâm !
12 giờ 15 phút, lễ truy điệu bắt đầu. Giới thiệu vị đại diện Văn phòng Quốc hội là ông Vũ Mão đọc điếu văn. Ông Mão có nhắc đến lý lịch, quê quán, ngày sinh, quá trình tham gia cách mạng và những chức vụ ông Trần Độ đã đảm nhiệm. Phần hai, ông ta nói rất tiếc là ông Trần Độ cuối đời đã mắc những lỗi lầm nghiêm trọng... Phần hai tuy không dài, nhưng cả hội trường lặng đi. Không khí như nén lại, ngột ngạt.
Đến mục gia đình lên đáp từ, người con trưởng cụ Độ là anh Thắng, sau khi kể những tình cảm về người bố, và sau khi cám ơn tất cả các cụ, các ông, bà, chú, bác, các anh chị ... đến tham dự tang lễ, lời cuối của bài đáp từ là câu : "Tôi thay mặt gia đình xin phép không tiếp nhận lời điếu của vị đại diện Văn phòng Quốc hội." (Chưa bao giờ lại có chuyện như vậy, tang gia khước từ lời điếu của chủ lễ !!??)
Như một kho thuốc nổ được châm ngòi, cả hội trường vỗ tay ran lên tán đồng. Tiếng hoan hô lẫn tiếng vỗ tay nổi lên càng to, kéo dài không ngờ, như hội bắn pháo hoa. Các đợt liên tiếp cao hơn, to hơn, dài hơn, càng âm vang cộng hưởng hết cỡ trong vòm nhà hội trường tang lễ. Có cảm tưởng như nóc hội trường sắp bật tung. Nhiều tiếng hét đến lạc giọng, nghe không rõ. Loáng thoáng những từ hoan hô ! phản đối ! ngu dốt !, bất nhân ! ... lẫn trong những tràng vỗ tay rền vang như sấm động.
Những uẩn ức trong lòng mọi người bị dồn nén từ sáng đến giờ được dịp nổ tung. Tôi phải trèo lên chiếc ghế, đưa tay lên vành tai, nghiêng đầu lắng nghe. Một người hét to, giọng như người miền núi, tay giơ lên chỉ chỉ vào chiếc khung đen có hàng chữ Lễ tang ông Trần Độ ở trên cao, dưới là chiếc ảnh bán thân của ông mặc thường phục : “Ai cho phép chúng nó bỏ hàng chữ Vô cùng thương tiếc đi. Chúng nó không vô cùng thương tiếc, nhưng chúng tôi vô cùng thương tiếc ...”
- Thật là bọn ăn cháo đá bát.
- Không có tướng Trần Độ và anh em chúng tôi thì làm sao có chúng nó ngày nay.
- Nghĩa tử là nghĩa tận, không có ai đi kiểm điểm người chết trước linh cữu cả.
- Chuyện này cổ kim chưa thấy bao giờ.
- Mà đã chắc là ai đúng, chắc là ai sai ? Quan tòa là nhân dân.
- Chúng nó phỉ báng lên truyền thống dân tộc.
Nơi này, chỗ kia, ầm ầm những tiếng thét, tiếng quát tháo : Bọn phản nhân dân ! Phản bội đường lối Hồ Chí Minh! Phản văn hóa ! Đề nghị Bộ Chính Trị phải nghiêm trị !
Có ai nói khẽ : “Đây là chỉ đạo của Bộ Chính Trị”.
Tiếng quát to : “Nói láo! Bộ Chính Trị sáng suốt, không làm điều ngu dốt như thế. Nói thế là không đúng.”
Có ai đó lại hô lên : “Trần Độ muôn năm !”
Nhân viên an ninh mặc thường phục vây quanh những người quá nóng nảy, đề phòng. Có tiếng hỏi : “Vũ Mão đâu ? Vũ Mão đâu ?”
“Hắn chạy rồi ! Lủi ra xe rồi !” Thật là may cho Vũ Mão. Hắn ta đứng đực ra, mặt chảy xị, tái xám, ngơ ngác. Có ai giục, hắn như chợt tỉnh, vội lách ra phía sau, chuồn mất.
Cũng may cho đám tang nữa. Sự tức giận của khối người đông đảo trong hội trường này, mà túm được Vũ Mão, thì không biết rồi những gì sẽ xảy ra.
Các cụ dân chủ đều biết kìm mình. Trước đám tang vài ngày, cơ quan an ninh đã cử người đến dò la thái độ các cụ. Lo sợ các cụ dân chủ lợi dụng chiếm diễn đàn, cướp mi-crô, gây ra căng thẳng. Các cụ đã tin lại cho công an biết. Chỉ có đầu óc ngu tối mới nghĩ như thế. Những người yêu quý ông Độ, ai lại muốn phá rối đám tang. Chính lúc các cựu chiến binh, các lão thành cách mạng, bừng bừng nổi giận, thì các ông dân chủ lại bình tĩnh, tìm cách khuyên can, chứ không có thái độ quá khích nào cả.
Toàn là những người hiểu biết. Sự nóng giận liền dịu xuống. Tang lễ lại tiếp tục. Mọi người đều đứng rẽ ra hai bên làm thành một con đường để đội danh dự mặc lễ phục trắng khiêng linh cữu trong nhà tang lễ ra xe ô tô đã đỗ ở giữa sân. Lúc này nắng lắm!
Một số phóng viên người nước ngoài tranh thủ phỏng vấn, ghi âm mấy cụ còn chưa nguôi cơn giận.
Ai cùng đi đến nghĩa trang Hoàn Vũ (hỏa táng) thì lên xe. Tôi chậm chân nên xe tang đã ra ngoài cổng rồi, tôi vẫn còn trong sân để xe đạp xe máy. Gặp chị Ngọc, vợ ông Hoàng Minh Chính, hỏi tôi có đi nghĩa trang ? Tôi trả lời sẽ đi bằng xe máy. Chị khuyên tôi nên đi ô tô, đỡ mệt. Các ông ấy đều lên ô tô cả. Tôi chạy vội ra cổng, thì đoàn xe đã đi xa. Lại gặp các cụ dân chủ đứng túm lại ở đầu cổng. Hỏi ra mới rõ, xe còn rộng chỗ lắm, nhưng lái xe không chịu mở cửa cho các cụ lên (đều do công an lái xe). Một cử chỉ nhỏ nhen ! Các cụ bèn quyết định thuê tắc-xi đi.
Trên xe, tiến sĩ Nguyễn Thanh Giang nhận định một cách tổng quát : “Chúng nó đểu một cách rất ngu, và đểu đến từng chi tiết." Nhà báo đại tá chính ủy Phạm Quế Dương lại cười hề hề : “Trò đùa ấy mà ! Có gì đâu !"
Xe tắc-xi chạy nhanh, bám kịp đoàn xe tang lễ. Quả thật, nhiều xe rất vắng, mang biển số 80B. Biển số này là của công an, nhiều người biết. Hai xe cam-nhông chở đầy vòng hoa viếng, những vòng hoa bên ngoài đều bị bóc hết các băng chữ. Lại nhỏ nhen !
Dự hỏa táng xong, trở về nhà tang lễ Bộ Quốc phòng thì đã gần 3 giờ chiều. Chúng tôi lấy xe ra về, người mệt nhoài, vì nóng, vì nắng. Rủ nhau vào uống giải khát để lấy sức ngày mai còn đưa hài cốt hỏa táng cụ Độ về Thái Bình.
Sẩm tối mới về tới nhà, đã thấy mấy ông bạn cựu chiến binh đón từ đầu đường hỏi về chuyện đám tang ông Trần Độ. Thì ra chuyện ở đám tang trưa nay đã đồn ầm lên trong dân chúng. Giấu làm sao được nhân dân ! Che làm sao được miệng thế gian ! Và bản tin chiều của hãng BBC mãi tít nước Anh đã đưa tin về đám tang. Có cả tiếng nói của cháu Thắng và tiếng vỗ tay rền vang như sấm. Nhanh thật ! Trái đất cùng chung một mái nhà.
Vài lời kết thúc :
Sáng sớm hôm sau (15-8-2002) chúng tôi tập trung tại 37 Lý Nam Đế, nhà ông Phạm Quế Dương, để di Thái Bình cho trọn tình trọn nghĩa. Công an mật đã đến lởn vởn trước cổng, từ 5 giờ sáng.
Chúng tôi gọi tắc-xi, đúng 6 giờ 30 sáng lên đường. Nhìn sang lịch ta là ngày mồng 7. Ông cha ta dạy : “Chớ đi ngày 7 chớ về ngày 3”. Chúng tôi biết là chuyến đi này sẽ gặp trắc trở đây.
Quả không sai, quãng đường hơn 100 km về quê cụ Độ bị 4 lần ách xe. Công an giao thông kiểm soát giấy tờ lái xe, phương tiện xe cộ có an toàn, để đảm bảo cho khách đi đường được yên tâm. Lại còn điều tra một tai nạn xe cộ, lái xe bỏ chạy, là một trong 300 chiếc tắc-xi của hãng này. Màu sơn này. Nên công an chúng cháu phải làm nhiệm vụ, mong các cụ thông cảm. Lần ách xe ở đất Thái Bình lâu nhất, mất gần 2 giờ đồng hồ. Đến nơi thì đã 1 giờ 30 chiều, tang lễ hạ huyệt đã xong. Tổng cộng mất hơn 7 tiếng đồng hồ mới đi nổi quãng đường hơn 100 km. Mọi người đang ăn cỗ. Phong tục nông thôn bà con xa gần kéo đến rất đông.
Chúng tôi thắp hương, dâng lễ vật ở bàn thờ gia đình và bàn thờ ông Trần Độ. Lại phải ngồi ăn cỗ, thôi thì chiều nay ra mộ thắp hương trước khi về.
Được gặp con cái cụ Độ, chúng tôi tranh thủ tìm hiểu việc công an định khám nhà và lấy đi 5 thùng sách báo. Các cháu đều trả lời lấp lửng, không rõ ràng, hình như e ngại điều gì. Gặp cháu Thắng, con trai trưởng, người đã nói được câu tuyệt vời hôm qua, thì hôm nay cũng không đậm đà bắt chuyện, muốn lảng tránh câu hỏi. Có thể tối qua cơ quan nơi cháu làm việc họ đã ấn huyệt. Thôi, thông cảm cho các cháu. Các cháu cần làm ăn, cuộc đời các cháu còn dài.
Được biết thêm, có cả thảy 220 vòng hoa tang lễ ở Hà Nội. Các băng chữ bị lấy hết, gia đình chỉ giữ được 7 băng. Gia đình đòi lại được 5 cuốn sổ tang, một số trang bị xé rách.
Toàn là những cử chỉ nhỏ nhen !
Ngôi mộ ông Trần Độ được nằm cạnh ngôi mộ bà mẹ. Đó là ý nguyện của ông. Đây là nghĩa trang xóm làng, mỗi gia đình được một khoanh đất, để chôn cất những người thân trong gia đình. Ông Độ đã trở về với bà con xóm làng. Mộ ông cũng rất bình thường, như mọi ngôi mộ ở đây. Nằm ở đây thì yên ổn rồi, ấm lòng rồi. Chúng tôi tin chắc là ông Trần Độ rất thanh thản. Nhớ đến một đoạn thơ của ai đó: Sống tranh luồn cúi vào ra,
Chết còn xí cả nhà mồ to
Phải là những bậc anh hào,
Sống thiêng chết lại đi vào trong dân,
Mà to bia nhớn chẳng cần...
Những ngày tang lễ ông Trần Độ
Hà Nội, tháng 8-2002
Hoàng Tiến,
Địa chỉ : Nhà A 11 Phòng 420
Thanh Xuân Bắc- Hà Nội.
Nơi gửi :
- Các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
- Các cơ quan thông tấn, báo chí.
- Các bè bạn.
Nguồn: x-cafevn
Họ sợ Trần Độ sống- Họ sợ Trần Độ cả khi người đã chết
Một đám tang vô tiền khoáng hậu. Một đám tang có một không hai trong lịch sử Việt Nam ! Ðám tang mà không ai được “ vô cùng thương tiếc ” người quá cố. Không ai được vô cùng thương tiếc bậc tiền bối của cách mạng Việt Nam ( tham gia Thanh niên Dân chủ từ 1939, đảng viên Cộng sản Việt Nam từ 1940, tỉnh uỷ viên tỉnh Thái Bình 1941, bị tù ở Hoả Lò 1941, bị đi đầy ở Sơn La 1942 - 1943, chỉ đạo cướp chính quyền ở Ðông Anh năm 1945 ... ).Không ai được thương tiếc vị đại công thần của cách mạng ( từng nằm gai nếm mật suốt các chiến dịch: Trần Hưng Ðạo, Hoàng Hoa Thám, Lý Thường Kiệt, Hoà Bình, Tây Bắc, Thượng Lào, Ðiện Biên Phủ; từng là phó chính uỷ bộ chỉ huy Quân Giải phóng Miền Nam, là trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương Ðảng, là Phó Chủ tịch Quốc hội ....).
Ðây là sự chỉ đạo của lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam ư ? , của nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ư ? Tôi không muốn tin như thế. Nhưng, trong cuộc biểu tình nổ ra ngay giữa đám tang, tôi nghe có người réo tên các vị lãnh đạo cao nhất của Ðảng, Nhà nước ra chửi rất tục ( không tiện dẫn ra ở đây ).
Kể cũng đáng căm phẫn lắm chứ. Chắc chắn Trần Ðộ là một trong những người có công lớn nhất xây nên “ ngai vàng ” cho họ hôm nay. Vậy mà họ nỡ để xẩy ra tình trạng như vậy sao ! Họ nỡ vô ơn, bất nhân, bất nghĩa vậy sao !
Cuối buổi lễ truy điệu, một cán bộ đeo quân hàm đại tá đứng giữa sân kể cho mọi người nghe : Vũ Mão đọc xong bài điếu văn, lúc đi xuống, có mấy cựu chiến binh định xông tới tát cho mấy cái, Mặt thất sắc, ông ta đi như chạy ra ôtô, vội vã chuồn .
Trút tất cả phẫn nộ lên đầu Vũ Mão thực ra là tội nghiệp ông ta. Ông chỉ là người thừa hành. Oái oăm ở chỗ, bây giờ Vũ Mão là Chủ nhiệm uỷ ban Ðối ngoại của Quốc hội. Bắt ông làm việc vừa rồi là “ giết ” ông. Rồi đây, trên đường đi làm đối ngoại, đến bất cứ đâu, người ta cũng nhớ trước mặt mình là một kẻ vô văn hoá, thất nhân tâm, chà đạp nhân quyền đối với con người cho đến khi người ta đã chết ! Ðấy là sự hớ hênh hay chủ trương cố tình hại nhau của người sắp xếp tổ chức? Bởi vì, ai cũng biết, nhẽ ra đám tang này phải do Ðảng và Nhà nước đứng ra tổ chức. Cùng lắm, giao cho Quốc hội thì ít ra người đọc điếu văn cũng phải là phó chủ tịch Quốc hội.
Ðáp từ lời điếu của Vũ Mão, ông Trần Thắng - trưởng nam Trần Ðộ - tuyên bố : “ Gia đình chúng tôi không chấp nhận lời điếu trên đây ! ”. Cả đám tang bỗng biến thành cuộc biểu tình. Tất cả rầm rầm vỗ tay. Vỗ tay rất to và rất lâu. ầm ầm đây đó những tiếng hô, những tiếng la mắng, những lời chửi rủa. Tôi cố nhìn xem những ngòi nổ cơn thịnh nộ bùng phát từ những ai ?. Không có ai trong “ nhóm dân chủ ” cả. Thì ra tư tưởng Trần Ðộ, tinh thần Trần Ðộ không chỉ cháy sáng trong “ những người dân chủ ” chúng tôi mà đã tiêm nhiễm khắp đó đây, trong lão thành cách mạng, trong cựu chiến binh, trong trí thức ...
Cuộc biểu tình không rầm rộ, không kéo dài nhưng chắc chắn sức âm vang rất sâu và sẽ còn lan toả khôn cùng. Cho nên nhiều người đã nghĩ đến một “ thời kỳ hậu tang lễ Trần Ðộ ”. Phải chăng chính vì ở đây, họ đã thể hiện hết sức xuất sắc cái sự “ đểu một cách rất ngu ” trong luận điểm tôi thường nêu mỗi khi đánh giá về họ : “ Chúng nó đểu một cách rất ngu, và, đểu đến từng chi tiết ”. Tại đây, cái sự “ đểu đến từng chi tiết ” của họ cũng quả là tởm lợm. Xin nêu vài dẫn chứng :
Tướng Trần Ðộ mất ngày 9 tháng 8 năm 2002. Ngày đó Quốc hội khoá XI đang kỳ họp thứ nhất. Lẽ ra tin phải được loan báo ngay và toàn thể hội nghị phải đứng lên mặc niệm người cựu phó chủ tịch của mình. Năm ngày sau, trước lễ tang chỉ một ngày, tin mới được đưa. Họ vừa trốn được một phút mặc niệm, vừa không chỉ ngăn trở các đại biểu Quốc hội đến viếng mà khống chế được số người biết tin để kịp đến dự lễ tang. Mặc dù vậy, số người đến tiễn biệt Trần Ðộ vẫn rất đông ( trên 300 vòng hoa và bức trướng; riêng số xe máy gửi ở sân nhà tang lễ cũng trên 800 ).
Ðiều đáng ghi nhận không phải ở số lượng mà là chất lượng người đến đưa tang. Ở một số đám tang khác, nhiều người đến chỉ lấy lệ, nhiều người chỉ vì muốn buôn danh bán tước với con mà đi đưa tang bố, muốn cầu danh mưu lợi ở chồng mà đi đưa tang vợ... Tất cả những ai đến đám tang này, ngoài một số trong đám dày đặc công an ( nói một số bởi vì tin rằng nhiều công an phải thực thi nhiệm vụ một cách miễn cưỡng, trái lương tâm mình ), đều vì thực sự thương nhớ, kính phục Trần Ðộ. Ðến tang lễ này không chỉ những người nhân ái mà còn dũng cảm. Cho nên, có thể nói, đây là một trong một số rất ít đám tang lớn nhất trong lịch sử hiện đại Việt Nam.
Ðọc được tâm địa họ, tôi đã nhắc tang quyến lo giữ các sổ tang. Quả nhiên, dù không cướp được sổ tang, họ vẫn kịp xé đi nhiều trang mà cả buổi họ đứng theo giõi được. Ăn cắp, ăn cướp trong tang lễ tức là đã vượt xa cả lưu manh, côn đồ; đã ma quỷ hơn cả ma quỷ !
Trong tất cả các đám tang, để đưa lĩnh cữu xuống nghĩa trang hoăc đài hoá thân, bao giờ cũng có xe cho tang quyến cùng một số thân bằng, cố hữu. Một trong những người con Trần Ðộ mời tôi: “ Chú lên chiếc xe 14 chỗ ngồi kia ”. Chúng tôi đến đúng chiéc xe đó nhưng người lái xe là công an vờ như câm điếc. Xe cứ lừ lừ chạy theo đám tang, không mở cửa. Chỉ có tang quyến, ban tổ chức tang lễ và công an được đến đài hoá thân. Mặc dầu vậy, Hoàng Minh Chính, Phạm Quế Dương, Hoàng Tiến, Dương Sơn, Dương Hùng và tôi vẫn kịp gọi taxi, đuổi theo. Họ vứt hết các băng tang trên những vòng hoa buộc hai bên thành xe, xe đưa tang mà họ phóng như ma đuổi ! ...
Họ lén lút vụng trộm. Họ sợ. Họ sợ nhân dân nơi đám tang đi qua lại tiếp tục biểu tình. Họ sợ Trần Ðộ sống. Họ sợ Trần Ðộ cả khi Người đã chết !
Dẫu thế nào đi nữa Trần Ðộ cũng đã được toại nguyện rồi. Ðúng như đề xuất của tôi : “ Cụ đừng vào Mai Dịch cụ nhé ! vào đấy bây giờ tức là ô danh cụ ” Quả như di chúc, hôm nay Trần Ðộ đã được về nằm bên thân mẫu, nơi quê hương có Tiếng trống Tiền Hải và sang sảng lời thơ ông ngày nào: “ Những mong xoá ác ở trên đời. Ta phó thân ta với đất trời ”.
Riêng tôi, tôi vẫn còn băn khoăn. Ngày 18 tháng 7 năm 2002, tôi đến thăm ông tại phòng hồi sức cấp cứu. Giữa gần chục người, vừa con cháu, vừa bầu bạn, ông vẫy riêng tôi đến. Ông nắm chặt tay tôi kéo lại. Tôi ghé sát tai vào miệng ông nhưng vị thanh quản đã bị mổ nên ông không phát âm được nữa. Ông nói khá dài mà tôi không nghe được gì. Ðể đỡ mỏi, tôi ngẩng lên, giả vờ gật đầu cho ông đỡ thất vọng. Ông lại kéo tôi xuống tiếp tục nói, nhưng vì quá xúc đông, ông nấc lên liên tiếp. Bác sỹ vội chạy vào và tôi phải đi ra.
Dẫu không nghe được những lời trăn trối cuối cùng kia nhưng tôi hiểu đấy là những câu tâm tình tha thiết làm bỏng cháy con tim tôi dù đã già nua. Ðấy là mệnh lệnh bảo tôi giục giã mọi người hãy noi gương người anh hùng Trần Ðộ không nề gian nguy, xả thân phấn đấu vì công cuộc dân chủ hoá làm tiền đề cho đất nước phát triển bền vững, lành mạnh, nhân dân được thực sự giầu sang, tự do. hạnh phúc như sở nguyện của Trần Ðộ.
Nguyễn Thanh Giang
Nhà A13P9 - Tập thể Phòng không Hoà Mục
Phường Trung Hoà - Quận Cầu Giấy
Nguồn: Nguyenthanhgiang
VỀ THĂM MỘ BỐ – TƯỚNG TRẦN ĐỘ
TRẦN HẢI – KHÁNH TRÂM
Một ngày đầu tuần tháng 6/2012 vợ chồng
chúng tôi về thăm mộ ông ở Thái Bình. Sáng nay trời Hà Nội âm u, mưa từ
đêm qua. Lúc 7h chúng tôi rời ngôi nhà 97 Trần Hưng Đạo mưa vẫn chưa
ngớt nhưng cả hai vẫn thực hiện kế hoạch hôm nay về Thái Bình. May quá
trên đường đi thì trời cứ sáng dần lên rồi mưa tạnh. Khoảng hơn 8h xe
đến Phủ Lý. Nơi đây nổi tiếng hơn chục năm nay về một món ẩm thực được
chế biến bằng thứ bột gạo mà ai đã đến Phủ Lý cũng sẽ dừng chân thưởng
thức, đó là món “bánh cuốn thịt nướng”. Làm 2 xuất rồi gọi thêm 2 ly trà
nóng là xong bữa sáng, chiếc bóp bớt đi 64.000 đ. No bụng xong là mắt
bắt đầu làm việc. Vốn hay quan sát, thoáng nhìn tôi đã thấy công an Hà
Nam đội mũ kê pi không giống như mũ của công an Hà Nội. Đi được một đoạn
mà tôi vẫn còn nhớ bữa sáng. Ngồi ăn món bánh cuốn trên vỉa hè tôi lại
chợt nhớ câu vè lưu truyền trong dân gian đã lâu:
«Vỉa hè là của nhân dân anh hùng».
Từ ngày được nhà nước chính thức công
nhận «5 thành phần kinh tế » thì cái vỉa hè vốn là của chung, là «sở hữu
tập thể» nay thoắt cái được trưng dụng thành của riêng ở rất nhiều nơi
và nó được vinh dự mang cái tên cũng thật ấn tượng. Thoạt nghe đã thấy
bóng dáng người chủ của nó: «Nhân dân anh hùng». Sáng nay tôi đã cảm ơn
«ông chủ» này.
Theo chỉ dẫn của tấm bản đồ du lịch,
khoảng cách từ Hà Nội đến thành phố Thái Bình là 110 km, từ đây về quê
nội Tiền Hải khoảng 20km nữa. Xe cứ chạy bon bon. Đường xá bây giờ tốt
thật. Tôi lại tiếp tục ngắm cảnh. Đi qua Nam Định đã thấy nhiều đặc sản
như bánh gai, kẹo dồi (là những thứ quà quê sang trọng của thời thơ ấu).
Chúng tôi chuyển vô Nam sinh sống đã lâu nên rất thích ngắm cảnh đồng
bằng Bắc Bộ. Khi đi vào địa phận Thái Bình, nhìn thấy những cánh đồng
lúa nơi đây, tôi lại nhớ về những câu thơ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường trong bài «Anh chủ nhiệm». Ngày ấy những đứa học trò như chúng
tôi ai cũng thuộc lòng:
«Nắng chiều thấp thoáng ngọn cây tre
Sóng lúa mênh mông cuộn đổ về
Anh cùng tôi bước trên đê nhỏ
Áo nâu bạc mầu bay với gió
Anh giơ tay vẽ giữa trời xanh
Vẽ cả ngày mai thành bức tranh…»
Nghĩ về hai câu thơ cuối, tôi cho rằng
nhà thơ Hoàng Trung Thông dùng hình ảnh “Anh chủ nhiệm” để nói lên cái
tương lai XHCN mà miền Bắc đang cố gắng dựng xây. Cái ước muốn, cái mong
ước này được bắt đầu từ những năm 60 của TK 20 thời chống Mỹ cho đến
ngày thống nhất đất nước 1975, rồi hơn 37 năm hòa bình tưởng là sẽ vẽ
xong thế nhưng đến tận hôm nay- sang thế kỷ 21 chúng ta vẫn chưa có bức
tranh đó…và cũng không biết sẽ còn “vẽ” đến bao giờ?
Nằm trong vựa lúa của đồng bằng Bắc Bộ,
Thái Bình từ xưa nổi tiếng với danh hiệu “quê hương 5 tấn”. Cũng từ đây
ra đời bài hát “Bài ca 5 tấn” : “Trong tiếng súng cả nước cùng đánh Mỹ, ruộng đất hôm nay không muốn nghỉ lấy một ngày…”.
Bao nhiêu hồi ức của quá khứ lại hiện về. Với 5 tấn thóc/ ha ngày ấy để
có được những khẩu hiệu: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu
một người”, và “Tất cả cho tiền tuyến”. Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý sáng tác
bài này, ông là người con Nam Bộ tập kết ra Bắc. Khi bài hát chào đời
thì bố tôi, một người con của Thái Bình lại đang chỉ huy chiến đấu ở
chiến trường Nam Bộ (B2). Ông đi Nam từ 1964 đến 1974 mới trở về Bắc.
Trong 10 năm ở chiến trường B2, ông mang quân hàm thiếu tướng, phó chính
ủy quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Cùng chiến đấu với ông còn có
tướng Hoàng Văn Thái cũng là con dân Thái Bình.
Tôi cứ chìm trong những nghĩ suy. Đến gần trưa thì đến nghĩa trang làng.
Đây là làng Thư Điền, xã Tây Giang,
huyện Tiền Hải nơi ông yên nghỉ từ ngày 15/8/2002 (tức 7/7 AL). Ông mất
đúng ngày đầu tháng Bảy âm lịch: 1/7/2002. Sau 6 ngày mới tổ chức được
tang lễ. Một đám tang có “tiếng vỗ tay” và nhiều sự kiện. Thi hài được
hỏa táng. Hôm sau gia đình nhận cốt và đưa ông về đây. Năm nay là vừa
tròn 10 năm ngày mất. Là người gắn bó với quê hương, ông có ước nguyện
khi qua đời sẽ về nằm tại quê nhà. Lúc còn sống, bố tôi cũng đặt tên con
trai theo tên quê hương để nhớ về nơi “chôn rau cắt rốn”: Trần Điền,
Trần Hải.
Nghĩa trang làng tôi không lớn lắm nhưng
đường rất khó đi. Chúng tôi phải đi lòng vòng trên các khu mộ để vào
phần mộ của gia đình. Ở đây dân làng không chừa lối đi chung, thế là
chúng tôi phải trèo lên bờ tường, dẫm từ mộ nọ đến mộ kia. Ai không giữ
được thăng bằng thì chỉ có ngã. Năm ngoái về đây chúng tôi cũng đã gặp
tình cảnh này. Những năm trước nữa thì đi dễ dàng hơn, càng về sau càng
nhiều người mất và mạnh ai nấy chôn không có quy hoạch gì nên những ngôi
mộ lâu đời sẽ bị bịt kín lối vào.
Tôi bước lò dò chênh vênh trên bờ tường,
vừa đưa mắt xem hướng phần mộ của bố nằm ở đâu. Cái mốc để nhớ là chiếc
cột điện. Từ đây cách mộ 50,60 mét nhưng rất khó vào. Lúc thì lội bùn,
lúc lên bờ tường. Cứ thế trèo lên, lội xuống, rồi thì nhẩy từ bờ nọ sang
bờ kia… Đi vài mươi phút thì cũng đến nơi.
Khuôn viên của gia đình rất nhỏ, chưa
tới 20 m2, nơi yên nghỉ của 7 con người: Bà nội tôi (cụ Tô Thị Phủng),
các bác, các chú, bố tôi. Trừ bà nội ra mỗi người chỉ có một tấm bia ghi
tên họ, ngày sinh, ngày mất nhưng không có ảnh. Trên mặt đất cỏ mọc cao
ngút. Có cả hoa dại. Loại hoa cúc trắng rất đẹp. Khi tôi đang thắp
hương thì có một chú bướm vàng bay đến. Không biết có phải bố ra đón
không? Chú bướm vàng này lại hơi bé. Nhiều khi tôi cũng thật khó giải
thích bởi hai lần về thăm mộ bố trước đây, trên đường đi mưa tầm tã. Tôi
cứ lo khi đến nơi mưa như thế có trèo được vào mộ không, ấy vậy mà thật
kỳ lạ, khi xe bắt đầu rẽ vào làng mưa cứ ngớt dần. Lúc ra đến mộ thì
tạnh hẳn.
Về quê bao giờ tôi cũng chuẩn bị hai sắp
lễ, một đem ra mộ, một thắp tại nhà thờ tổ của dòng họ. Trái cây cúng
các cụ và bố có táo Mỹ, xoài Nam Bộ, và vải đầu mùa. Thêm bó hoa cúc
vàng tươi, rực rỡ. Trong khói hương nghi ngút, tôi bần thần nhớ bà nội,
nhớ bố tôi, nhớ người thân… Năm ngoái tôi đưa con gái nhỏ đến thăm và
thắp hương cho ông. Năm nay cháu ở nhà vì nhớ cảnh bế cháu chật vật mãi
mới tìm được mộ. Cháu nhờ tôi nói với ông nội: “Ông ơi, cháu thương ông
lắm. Năm nay cháu đã 10 tuổi rồi ông ạ”. Suy nghĩ của trẻ thơ là vậy vì
cháu nhớ mãi câu chuyện tôi kể cho cháu nghe, khi ông mất cháu mới được
11 tháng tuổi. Lần nào đến đây tôi cũng vẫn nghiệm thấy rằng cái kết nối
âm dương thật kỳ diệu. Khi thì thầm với bố về những lời dặn của con
gái, nước mắt tôi lại trào ra. Có lẽ bố tôi đọc được suy nghĩ của người
thân đó. Tôi đã từng đứng trước mộ bố nhiều lần, đã cúi lậy ông, đã kể
cho ông nghe về thời cuộc nhưng chưa bao giờ tôi nói rành mạch như ngày
hôm nay. Tôi buồn rầu kể về cái ác đang hàng ngày diễn ra ở khắp ba miền Trung-Nam-Bắc, những cái ác còn rùng rợn kinh tởm hơn 10 năm trước đúng như tâm sự của ông ở bài thơ:
“Những mơ xóa ác ở trên đời
Ta phó thân ta với đất trời
Ác xóa đi thay bằng cực thiện
Tháng ngày biến hóa ác luân hồi ».
Người dân thời nay chịu biết bao đau đớn vì những cái ác cứ công khai, cứ ngang nhiên lộng hành không cần che đậy. Một thời cái ác lên ngôi.
Nhưng tôi cũng vui mừng báo tin với bố về một xã hội dân sự đang hình thành.
Tôi vẫn tin là những lời từ trong tim tôi sẽ vượt qua cách biệt âm dương để đến tai ông.
Tôi quỳ sát đất và nghĩ rằng bố đang
nghe mình. Tôi cũng vui vì âm – dương hòa quyện, lòng người bên nhau.
Khi thầm thì tôi cứ nhìn vào tấm bia. Lúc mới đến tấm bia bị cỏ che
khuất, tôi phải nhổ bớt vài cụm thì cái tảng đá nho nhỏ mầu xám mới hiện
ra. Hai chúng tôi cũng thắp hương cho các ngôi mộ xung quanh nữa. Những
người anh em và hàng xóm của bố.
Hôm nay là thứ sáu. Toàn cảnh khu nghĩa
trang vắng lặng quá. Lần nào cũng vậy chúng tôi ở chơi với các cụ và bố
cho hết tuần hương rồi mới hóa vàng. Sau khi xong hết việc nhang khói,
tôi ngồi ghi chép và nhìn ra xung quanh. Đã hơn 11 giờ trưa. Nắng hanh
hanh. Gió nhè nhẹ. Chú bướm vàng cứ quanh quẩn bên trang viết của tôi.
Nghĩa trang này khi 10 năm trước đưa bố về đây còn vắng vẻ, ra vào rất
dễ. Bây giờ thì khó vô cùng. Tôi nhìn các ngôi mộ hàng xóm, mỗi cái một
vẻ. Màu sắc cũng vậy. Chỗ nào cỏ cũng mọc rất cao. Có nhiều chỗ cỏ mọc
che hết các ngôi mộ và bia người mất. Trong khuôn viên gia đình tôi, cô
tôi phải lát gạch để hạn chế cỏ mọc. Lúc này đang vào mùa mưa, cỏ mọc
xanh quá. Phong tục ở làng là không nhổ cỏ. Một năm chỉ làm cỏ vào dịp
đông chí trước tết Nguyên đán.
Cỏ xanh, cúc trắng, thật thanh bình, còn
mâm trái cây lại vừa tươi vừa đẹp. Nhìn những trái táo Mỹ tôi lại liên
tưởng đến chuyến thăm vịnh Cam Ranh của vị bộ trưởng quốc phòng Mỹ Lion
Panetta đầu tuần. Nếu bây giờ bố còn sống thì bố sẽ thấy người đứng đầu
quân đội Mỹ này rất bình dị. Ông mặc dân sự, chuyện trò thân thiện với
các quân nhân và vui vẻ trả lời những câu hỏi của các nhà báo. Sự kiện
này đánh dấu gần 40 năm sau ngày người Mỹ từ bỏ Nam Việt Nam nay đã trở
lại quân cảng chiến lược này. Biển Thái Bình Dương luôn là lời mời gọi
mọi công dân trái đất, chẳng của riêng ai, chẳng cấm cửa ngăn chân ai
được. Vài năm trở lại đây, nhà cầm quyền Bắc Kinh có nhiều gây hấn trên
Biển Đông nhằm biến nơi đây thành ao nhà của riêng mình. Tự do hàng hải
(cũng như mọi sự tự do khác trong khuôn khổ nhân bản) là vĩnh hằng bố
nhỉ? Tuần hương cháy đến sát chân. Hóa vàng xong, chúng tôi tần ngần
chia tay với bố và người thân. Nắng vẫn nhẹ, gió hiu hiu. Có tiếng mèo
kêu meo meo vẳng lại rất gần đây. Lúc ra cũng gian khó như lúc vào chỉ
khác là không phải tìm đường nữa. Lộc mang ra chúng tôi chia hết cho trẻ
chăn trâu.
Viếng mộ xong, chúng tôi về nhà cô Xuyến
em ruột bố để thăm cô và thắp hương cho các cụ ở nhà thờ tổ. Nơi đây
trước là ngôi nhà tuổi thơ của bố. Nhà mái tranh, vách đất, sau này bà
nội làm lại xây bằng tường gạch. Cũng trên cái thổ này năm 2004, cô
Xuyến và các bác xây một nhà thờ tổ. Phong tục ở đây còn đậm nét «đất lề
quê thói» : Trên bàn thờ tổ đặt bài vị của dòng họ, quanh năm phủ tấm
vải đỏ, chỉ lấy ra vào ngày 30 tết để đón các cụ về với con cháu. Đến
ngày 3 tết tiễn ông bà xong, đem phủ lại. Ảnh bố tôi được đặt ở bàn thờ
nhỏ ngay bên trái bàn thờ chính. Trên tường có treo một vài bức trướng
từ buổi tang lễ. Đọc những dòng chữ của đồng đội, đồng chí, những người
bạn, người lính cùng vào sinh ra tử với ông ở các chiến trường khiến tôi
nhớ cụ vô cùng. Đây là bức trướng thêu những tấm lòng đồng đội trên nền
đỏ chữ vàng của Ban liên lạc truyền thống báo QĐND: «Trọn nghĩa nước
non/ vẹn tình đồng đội. Kính viếng nhà báo lão thành Trung tướng Trần
Độ ». Bức trướng của đoàn cựu chiến binh Ban ký sự lịch sử Quân đội mang
dòng chữ : «Thương tiếc nhà văn Trung tướng Trần Độ». Hay bức «Tuệ mục
tuệ tâm. Văn nhân võ tướng» đã nói lên tất cả tình người với sự kính
trọng và yêu quý dành cho ông. Tôi nghĩ con người ta sống trên đời này
khi mất đi được mọi người dành cho tình yêu thương đến như vậy cũng là
mãn nguyện.
Thoắt cái đã 10 năm trôi qua. Cô Xuyến
chỉ vào bụi mẫu đơn bố tôi trồng ngay sau khi từ Nam ra nay đang trổ
bông. Bụi khá to, cây cũng đã già. Lá mầu xanh sẫm làm nổi bật những
chùm hoa màu đỏ thật đẹp. Bụi hoa nằm ở cuối sân thỉnh thoảng cô tôi vẫn
hái để dâng lên các cụ. Bố tôi cũng được thưởng thức thứ hoa cây nhà lá
vườn này do chính tay em gái chăm sóc, chắc ông vui lắm. Tôi cũng được
biết trong số các anh chị em, bố dành nhiều tình thương cho cô Xuyến
nhất.
Sau bữa trưa, chúng tôi chia tay với
ngôi nhà của họ nội. Cũng mảnh đất và ngôi nhà này (tôi hình dung trước
đây là vách đất) bố tôi đã chào đời để 16 tuổi chia tay với bà nội đi
hoạt động cách mạng. 17 tuổi bị bắt vô tù, bị tra tấn dã man ở nhà lao
Thái Bình, Hỏa Lò. Năm 18 tuổi vào Đảng và cũng năm này bố tôi bị đầy đi
nhà tù Sơn La (1941), nơi rừng thiêng nước độc «nước Sơn La, ma Hòa
Bình». Kể từ đó bố vượt ngục, gắn bó với cuộc đời đi làm cách mạng.Trong
hai cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc chống Pháp, chống Mỹ ông là một
vị tướng của nhân dân, «từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu».
Tôi sẽ còn nhớ mãi lời ông tâm sự với tướng Lê Trọng Tấn: «Chúng mình
làm tướng để đánh giặc chứ không phải đánh giặc để làm tướng». Khi tổ
quốc hòa bình, ông buông tay súng để cầm lấy cây bút. Những dòng tâm
huyết của ông không nằm ngoài ý tưởng của Bác Hồ: «Nước nhà được độc lập
mà người dân không được tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa gì» và
«đến ngày thắng lợi, chúng ta sẽ xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn to
đẹp hơn». Ông đã sống đẹp, đã «vì nhân dân quên mình». Từ mảnh đất nơi
làng Thư Điền rợp sóng lúa, bóng tre bố tôi đã ra đi, nay ông lại trở về
với quê hương yêu dấu: Làng Thư Điền, xã Tây Giang, huyện Tiền Hải,
tỉnh Thái Bình.
Sài Gòn 18/7/2012
Nguồn: Nguyentrongtao
________________
nguồn:http://tranhung09.blogspot.com/2013/01/ho-so-tran-o-song-ho-so-tran-o-ca-khi.html
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001