Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

Nhân chứng, nạn nhân tội ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 68

|

Huế sau trận tổng tấn công Tết Mậu Thân tháng 3/1968 của CS. Ảnh: N. Clark. Nguồn: mca-marines.org
Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau tết Mậu Thân như là tiếng kêu oan cho gia đình tôi, cho linh hồn của những người thân trong gia đình, gia tộc tôi cách riêng, và cho những người dân Huế nói chung,  thay cho tất cả những ai bị sát hại trong tết Mậu Thân 1968 bây giờ còn kẹt lại VN không có cơ hội để nói lên những oan khiên mà họ đã gánh chịu bởi Đảng Cộng Sản, và bè lũ tay sai  khát máu  giết hại dân lành vô tội như  anh em Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Thị Đoan Trinh  v.v…
Thưa Ông,
Năm 1968, tôi đang là sinh viên năm thứ nhất trường Cán Sự Điều Dưỡng Huế. Ngoài những giờ học lý thuyết chung tại trường, bọn sinh viên chúng tôi được chia thành nhiều toán. Mỗi toán từ 8- đến 10 người, luân phiên thực tập ở các trại bệnh trong BV Trung Ương Huế.
Có những trại bệnh sinh viên thực tập theo giờ hành chánh. Có một vài nơi, như phòng cấp cứu,  phòng bệnh nội thương … thì giờ thực tập được chia làm ba ca, sáng, chiều và đêm … Ca sáng từ 7giờ đến 2 giờ chiều, ca chiều từ 2 giờ đến 9 giờ tối, và ca đêm từ 9 giờ tối cho đến 7giờ sáng hôm sau.
Mỗi một nơi chúng tôi được thực tập từ 2 đến 3 tuần lễ.
Hai tuần trước tết, toán của tôi được chia phiên thực tập ở phòng cấp cứu. Ngày mồng hai , tôi  và hai anh bạn vào ca đêm.
Tết năm nay ba tôi bận đi hành quân xa không về kịp ăn tết.
Thường thì mấy anh em tôi năm nào cũng vậy, đều phải về nhà ông  bà nội từ trước ngày 30 tết, ở luôn cho hết ngày mồng một, rồi sau đó mới được tự  do đi chơi, thăm viếng bạn bè…
Sau bữa cơm tối mồng một tết, khoảng 8 giờ 30, anh Hai lấy xe Honda của anh đưa tôi tới BV, và nói sáng mai anh sẽ đến đón.
Tối mồng một tết phòng cấp cứu hơi vắng, chúng tôi, mấy anh sinh viên y khoa  và hai người nhân viên phòng cấp cứu nói đùa với nhau rằng hôm nay tụi mình… hên! Chúng tôi mang một ít mứt bánh ra vừa ăn vừa nói chuyện, vừa thay nhau thăm chừng những bệnh nhân mới nhập viện từ đêm qua chưa được chuyển trại.
Nhưng qua nữa đêm thì bắt đầu nghe có tiếng súng. Tiếng súng lớn, nhỏ, từ xa rồi mỗi lúc một gần. Chúng tôi  thốt giựt mình,  băn khoăn  nhìn nhau, hoang mang lo sợ. Bầu không khí bắt đầu căng thẳng, mấy anh sinh viên y khoa thì nghe ngóng bàn tán, thắc mắc  không biết tiếng súng từ đâu vọng lại…
Lúc đầu chúng tôi tưởng là thành phố Huế và BV bị pháo kích, nhưng không ngờ, chừng 3, 4 giờ sáng, bất thần không biết từ ngõ ngách nào có chừng mười mấy người tràn vào phòng cấp cứu, họ xưng chúng tôi là quân giải phóng. Đa số mặc áo quần đen, súng mang vai, bị rết ngang hông. Họ bắt tất cả chúng tôi băng bó cho một số người bị thương, đồng thời hò hét chia nhau lục soát, vơ vét, và lấy đi một số thuốc men, bông băng, dụng cụ y khoa v.v… Họ lấy sạch không chừa lại một món nào, kể cả những bánh mứt chúng tôi để trong phòng trực.
Trong lúc bọn họ đang tranh nhau lục lọi, thì ầm một cái, một tiếng nổ rớt rất gần, đâu đó trong BV, rồi tiếng thứ hai, thứ ba…rớt ngay con đường phía trước cổng chính  BV, kề phòng cấp cứu… Điện trong phòng cấp cứu vụt tắt. Thừa lúc bọn  chúng nhốn nháo kéo nhau đi, chúng tôi mạnh ai nấy tìm đường chạy thoát thân.
Ra khỏi phòng cấp cứu tôi cắm đầu chạy, tôi không định hướng được là mình đang chạy đi đâu. Súng nổ tư bề, cứ nằm xuống trốn đạn, rồi đứng lên chạy, cứ thế mà chạy. Chạy bất kể tả hữu. Cho tới khi tôi đâm sầm vào một người , định thần  ngó lại mới biết đó là cha Trung, tuyên úy của BV. Cha từ phía một trại bệnh nào đó tình cờ chạy về phía tôi. Nét mặt cha cũng thất thần, đầy vẻ lo âu, nhận ra tôi, cha hỏi “con ở mô chạy lại đây?” Tôi nói “từ phòng cấp cứu”. Vừa nói vừa theo cha, chạy về phía nhà nguyện của BV và cũng là chỗ ở thường ngày của cha. Đến đó thì đã có hai bà sơ dòng áo trắng và vài người nữa không biết từ trại bệnh nào cũng chạy lại đây. Tôi nhận ra trong số đó có sơ giám thị suốt trong sáu năm tôi nội trú tại trường trung học Jeane d’ Arc.
Cha Trung quen biết ông nội và ba mạ tôi, thỉnh thoảng ngài có ghé đến thăm ông nội nhà ở đường Hàm Nghi, nên ngài biết tôi. Không biết chạy đi đâu nữa tôi ở lại đó với cha hai bà sơ, và  mấy người nữa.
Bốn năm ngày liền chúng tôi chui rúc trong nhà nguyện, không dám chạy ra ngoài và cũng không liên lạc được với một ai từ những trại bệnh khác. Súng nổ tư bề nên  ai ở đâu thì cứ  ở đó.
Sau khi đám người xưng là “quân giải phóng” ở Cấp Cứu kéo nhau đi chúng tôi không gặp, không thấy bọn VC nào nữa, hay chúng đang lẫn trốn trong những trại bệnh khác thì tôi không biết.
Tới ngày thứ năm, ruột gan như lửa đốt, không biết ông bà nội, mạ và mấy anh em tôi trên đường Hàm Nghi ra sao. Tôi  nói với cha Trung, cha ơi con muốn muốn về nhà. Cha bảo, không được, súng đạn tư bề, nguy hiểm lắm, cứ ở đây với  cha và mấy sơ đi đã, khi mô có lính mình xuất hiện thì mới đi được.Tôi hỏi, khi mô thì lính mình mới tới, cha nói không sớm thì muộn họ cũng sẽ phản công thôi, cha nói như để trấn an tôi và mọi người thôi chứ trên mặt cha thì vẫn đầy vẻ lo âu…
Không biết nghe tin từ đâu mà một người trong nhóm nói người ta chạy vô ở trong nhà thờ Phủ Cam đông lắm. Tôi nghe càng nóng lòng muốn chạy về nhà. Muốn đi  phần vì sốt ruột muốn gặp mạ với mấy anh em tôi, phần vì đói. Đã mấy ngày không có gì ăn ngoài mấy ổ bánh mì cứng còng của Caritas còn sót lại ở nhà nguyện chúng tôi chia nhau gặm…cầm hơi!
Tôi quyết định chạy về tìm gia đình. Tôi liều. Trên người tôi chỉ có  bộ đồ đồng phục dính đầy máu , tôi chạy ra phía sau cổng BV, tìm đường về nhà. Vừa chạy vừa lo, ngó tới, ngó lui không một bóng người, nhưng tiếng súng thì nghe rất gần. Không biết mấy lần vấp, tôi té xuống. Té rồi lồm cồm bò dậy, vài bước lại vấp té. Tôi lạnh run, hai hàm răng đánh bò cạp, nhìn cảnh tượng xác người nằm đây đó, máu me đóng vũng, không biết họ bị thương đâu đó ở bên ngoài chạy vào gục chết ở đây. Quá  sợ hãi, tôi định chạy trở lại nhà nguyện thì bất thần thấy anh Văn hớt ha hớt hải từ cổng sau BV chạy vô.
Văn là bạn của anh Hải, anh kế tôi, hai người cùng học ở Văn Khoa. Nhà Văn ở miệt trên, gần dòng Thiên An. Mặt mày Văn xanh xao, hai mắt thất thần, trủm lơ, gặp tôi Văn lắp bắp, nói không ra hơi. Ti ơi thằng Hải bị bắn chết rồi. Hắn bị bắn ở bên Văn Khoa. Toàn thân run rẩy, tôi khuỵu xuống. Văn đỡ tôi  đứng lên. Lại có tiếng nổ rất gấn. Văn hoảng hốt  kéo tôi chạy lại ngồi xuống bên trong bức tường sát cánh cổng  sau BV. Hai đứa tôi run rẩy ngồi sát vào nhau. Lát sau, tiếng được tiếng mất, anh lắp bắp kể. Văn nói mấy đêm rồi Văn với mấy người  anh của tôi trốn đạn trong nhà thờ Chánh Tòa (nhà thờ Phủ Cam), nhưng rồi đêm qua có mấy sinh viên của mình dắt một toán VC vô nhà thờ đọc một lô danh sách, họ  lùa người  đi đông lắm, không biết họ đưa đi đâu. Văn kể một hơi mấy tên “sinh viên của mình” nhưng bây giờ tôi không còn nhớ nổi.
Khi đám người bị lùa đi, thân nhân của họ khóc la thảm thiết.
Sau đó Văn, anh Hải cùng mấy người bạn rủ nhau trốn ra khỏi nhà thờ và mạnh ai nấy tìm đường trốn.
Ra khỏi nhà thờ, không biết trốn chui, trốn nhủi, chạy quanh, chạy co, làm sao mà Văn với anh Hải lại tới được trường y khoa. Anh Lộc, anh Kính đi lạc hướng nào không biết. Hai anh hè nhau chui vô phòng thí nghiêm trốn thì thấy có vài người đã bị bắn chết từ bao giờ mà những vũng máu đọng dưới họ còn tươi lắm. Văn, anh Hải  hoảng hồn chạy trở ra. Chưa ra khỏi cửa thì gặp Hoàng Phủ Ngọc Phan (HPNP) và Nguyễn thị  Đoan Trinh (NTĐT) cùng mấy sinh viên khác nữa Văn không biết tên, chỉ biết họ đồng bọn với HPNP. Văn biết mặt Phan là vì Văn có người anh học y khoa cùng lớp với Phan.
Gặp Văn, Phan nạt nộ, tụi mi chạy trốn đi mô? Khôn hồn  thì chạy qua bên Văn Khoa tập trung ở đó để đi tải thương! Hải và Văn biết không thể nào thoát khỏi sự kiểm soát của bọn HPNP nên vội vàng chạy bộ xuống Văn Khoa, hy vọng bị bắt đi tải thương chứ không bị giết.
Bọn Trinh, Phan chạy xe Honda nên họ tới trước, và cũng đã bắn trước một số người khác rồi. Hải, Văn không biết nên lúc thúc chạy đến. Anh Hải chạy vô trước, nghĩ là sẽ gặp được một số bạn bè khác, cùng đi tải thương với nhau như lời HPNP nói.
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/2677/nhan-ch%E1%BB%A9ng-n%E1%BA%A1n-nhan-t%E1%BB%99i-ac-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-t%E1%BA%BFt-m%E1%BA%ADu-than-68/2010/03
=====================================================================
Nhân chứng, nạn nhân tội ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 68

|
Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị HPNP bắn gục ngay. Văn  mắc đi cầu, tìm chỗ phóng uế nên chạy vô sau anh Hải. Mới tới cửa thì nghe tiến súng, tiếng hét của anh Hải, Văn quay đầu bỏ chạy. Chưa kịp rượt theo Văn thì bỗng ầm, một tiếng nổ đâu đó, trong sân trường đại học, khiến HPNP và đồng bọn hoảng hốt leo lên xe Honda  tháo chạy. Văn thoát chết, chạy như điên, như khùng, chạy vô BV, và tình cờ gặp tôi trong đó.

Huế, Nam Việt Nam, tháng hai, 1968: Lính Thuỷ quân lục chiến Mỹ di tản một em bé bị thương. Ảnh: John Olson ©Stars and Stripes
Nghe anh Hải bị bắn trong sân đại học Văn khoa, tôi bỏ ý định về nhà, tôi muốn chạy qua Văn khoa tìm anh tôi, hy vọng anh chưa chết, tôi nghĩ sẽ tìm cách đưa anh vô Bv cấp cứu. Tôi khóc nói với Văn, em tới chỗ anh Hải. Văn can, Ti đừng đi, tụi nó có thể trở lại. Tôi mặc kệ Văn ngồi đó, vừa khóc vừa chạy. Một lát  nghe tiếng chân Văn sau lưng, miệng thì nói, Ti ơi, vô BV trốn đi, Hải nó chết thiệt rồi, mà chân vẫn bước theo tôi. Tôi như người mất hồn, vừa đi, vừa chạy, vừa khóc. Trời ơi, thật là khủng khiếp, chỉ một đoạn đường từ cổng sau BV tới sân trường VK mà không biết bao nhiêu là xác người, áo quần vung vãi khắp nơi.
Chúng tôi chạy mới tới trường trung học Jeane d’Arc, thì gặp bọn HPNP lấp ló trước cổng trường với một nhóm bộ đội Bắc Việt. Người nào mặt mày cũng đằng đằng sát khí. Gặp lại Phan, Văn run rẩy, Phan chưa kịp nói thì Văn đã lắp bắp phân trần, em qua BV kiếm con Ti chớ em không có trốn mô, và xin xỏ, anh cho em với con Ti đem xác thằng Hải về nhà rồi em trở lại đi… tải thương !
Phan không trả lời Văn, hắn nhìn tôi ác độc, mi về nhà kêu thằng Lộc, thằng Kính xuống đây mà đem thằng Hải về. Tôi líu lưỡi, em không biết hai anh em ở mô mà kêu. Trước đây tôi không hề biết mặt HPNP, mà cũng chưa hề nghe nói tới tên  người này vì trước năm 68 tôi còn là học sinh trung học. Có thể các người anh của tôi thì biết, vì họ là những lớp sinh viên đàn anh, đã từng qua những khó khăn đối đầu với đám sinh viên theo phe “tranh dấu, lên đường xuống đường” của những năm trước.
HPNP to nhỏ gì với những người đồng bọn rồi  quay lại ra lệnh  cho tôi với anh Văn  đem xác anh Hải về nhà. Chưa biết nghĩ cách nào để đem xác anh Hải về thì Văn thấy một chiếc xích lô của ai bị bể bánh xe sau, nằm chơ vơ cạnh vách tường trường Jeane d’Arc.
Văn gọi tôi theo anh. Chúng tôi đẩy chiếc xích lô sứt cọng gẫy càng về phía Văn khoa. Có chừng 10 xác người trong đó. Tôi không dám nhìn lâu. Chúng tôi hè hụi khiêng Hải bỏ lên xích lô. Xác anh đã cứng. Đùm ruột lòi ra ngoài trông rất khủng khiếp. Hai mắt vẫn còn mở trừng. Miệng vẫn còn há ra.
HPNP vừa đánh anh Văn bằng báng súng vừa chửi. Chuyến ni mi trốn nữa, mi gặp lại tau là mi chết! Văn run rẩy lắp bắp, dạ lạy anh, em không dám nữa mô. Rồi chúng tôi hè hụi đẩy chiếc xích lô mang xác người anh xấu số của tôi nhắm hướng cầu Kho Rèn đi lên. Nhà tôi ở trên đường Hàm Nghi. Qua khỏi cầu một chút. Suốt quãng đường từ đó về đến nhà, có rất nhiều  đám lính bộ đội Bắc Việt đứng tụm năm, tụm ba. Chúng tôi không bị bắt giữ lại vì có HPNP chạy đi trước ra dấu cho họ để cho chúng tôi đi.
Khúc đường ngang trường Thiên Hựu cũng có rất nhiều xác người nằm rãi rác. Nhiều vũng máu cũng như  xác người bị ruồi bu đen.  Đã mấy ngày không có gì trong bụng, tôi vừa đi vừa ói khan. Văn cũng vậy. Chúng tôi ráng sức đẩy chiếc xích lô, trong lúc HPNP cùng hai người đàn bà nữa cứ chạy xe đảo tới, đảo lui hối chúng tôi mau lên. Tôi nghe chúng nó hỏi nhau, bên Lý Thường Kiệt, Nguyễn Huệ còn ai nữa không? Có mấy chiếc xe Honda chở gạo, bánh tét, đã tịch thu của nhà ai đó chạy thẳng vô trường Thiên Hựu.
Lúc đó bỗng dưng có mấy chiếc trực thăng xuất hiện trên trời nhả đạn xuống, Văn nói như  reo bên tai tôi, Ti ơi, máy bay của mình. Mừng chưa kịp no, thì trời ơi, từ những cửa sổ trên lầu của trường Thiên Hựu những họng súng lớn nhỏ nhả đạn, nhắm hai chiếc trực thăng mà bắn, lúc đó chúng tôi mới biết là VC đang ở trong trường Thiên Hựu quá nhiều. Hoảng hồn tôi, Văn chạy lại ngồi sụp xuống bên tường rào của trường tránh đạn. Phan và đồng bọn biến đâu mất. Tụi nó như ma, khi ẩn, khi hiện. Nhưng chỉ được một lát, hai chiếc trực thang bay đâu mất. Chúng tôi thất vọng, khi thấy Phan với đồng bọn xuất hiện hối chúng tôi đi.
Lên tới cầu Kho Rèn, thấy một đám người, đàn ông, đàn bà, con nít bị bắt trói chung với nhau ngồi trên đầu cầu. Họ ngồi gục đầu xuống hai đầu gối. Tiếng con nít khóc, tiếng mấy bà mẹ dỗ con, nín đi con ơi. Đi ngang qua họ mà chúng tôi không dám nhìn. Có tiếng người trong đám gọi tôi Ti ơi, quay lại tôi nhận ra chị giúp việc của mẹ tôi và vợ của một chú cùng đơn vị với ba tôi ở tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Tôi đoán họ là những người từ trên Phủ Cam, chung quanh cầu Kho Rèn, Hàm Nghi và những con đường chung quanh đó chạy xuống tìm đường  trốn lên Phú Lương thì bị bắt giữ.
Tôi định dừng lại hỏi thăm thì HPNP trờ xe tới nạt nộ “đi, mau ngó chi!”
Trên đoạn đường từ Văn Khoa ngang qua trường Thiên Hựu, cầu Kho Rèn, lên tới nhà nội chúng tôi thấy nhiều người bị trói dính chùm vào với nhau đi trước mấy người mặc đồ đen đi dép râu, mang súng.
Súng nổ tư bề mà sao không thấy bóng dáng lính mình ở đâu cả. Chỉ thấy lính bộ đội Bắc Việt khắp nơi.
Trên đường Hàm Nghi, Nguyễn thị Đoan Trinh chạy ngang nhà nào mà y thị gật đầu là y như rằng trong nhà đó có người bị bắt đem ra, người thì bị bắn tại trước nhà, người thì bị dắt đi, mấy ông bà cụ trong nhà chạy theo nằm lăn ra đường khóc la thảm thiết…Bọn lính Bắc thì cứ chửi thề luôn miệng, đéo mẹ câm mồm, ông bắn bỏ mẹ bây giờ…
Hai chúng tôi cứ  nghiến răng, cúi mặt, lầm lủi đẩy chiếc xích lô mang xác Hải đi tới.
Khi gần tới nhà tôi ở số 24 đường Hàm Nghi thì HPNP và NTĐT rà xe lại gần bảo tôi, không được đẩy vô nhà mi. Đẩy lên trên tê!
Đẩy lên trên tê,  tôi hiểu đây là đẩy lên nhà ông bà nội tôi. Cũng trên đường Hàm Nghi nhưng nhà nội tôi ở trên dốc, hướng đi lên Phủ Cam. Nhà ba mạ tôi thì ở gần cầu Kho Rèn.
Tôi cũng không hề biết mặt Nguyễn thị Đoan Trinh trước đó. Trong hoàn cảnh này tôi mới biết mặt y thị là nhờ anh Văn nói. Tội nghiệp anh Văn, cứ tưởng khi HPNP biểu cùng tôi đẩy xác anh Hải về là được tha chết. Anh Văn và tôi cũng không ngờ rằng đoạn đường từ Văn Khoa lên tới nhà nội trên đường Hàm Nghi là đoạn đường sau cùng chúng tôi đi chung với nhau trong cuộc đời này.
Nguồn: flickr.com
Lên tới nhà nội, chúng tôi đẩy Hải vô bên trong hàng rào chè tàu, bỏ Hải ngoài sân tôi với Văn chạy vào nhà, nhà vắng ngắt, đi từ trước ra sau bếp gọi ông ơi, mệ ơi. Nghe tiếng ông nội yếu ớt từ  trong buồng vọng ra, ai đó, đứa mô đó? Con đây, ông nội. Nghe tiếng tôi, ông tôi hấp tấp chạy ra, bước chân xiêu xiêu, ông tôi chạy lại ôm tôi, ông khóc, ông nói, lạy Chúa lạy Mẹ cháu tui con sống. Tôi không khóc được, tôi run rẩy trong tay ông nội. Ông tưởng tôi sợ nên an ủi, con còn sống mà về được đây là phúc lắm rồi, ở đây với ông nội, không can chi mô! Nghe nói mạ mi đưa ba thằng em mi chạy lên Phú Lương rồi, không biết đi tới mô rồi, có thoát được không ?  Lạy Chúa, lạy Mẹ phù hộ.
Tôi không nói vì quá mệt, kéo tay ông nội ra ngoài, thấy Văn ngồi bệt dưới nền nhà, ông hỏi, đứa mô giống thằng Văn rứa bây? Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuỵu xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà ra nông nỗi ni…
Chúng tôi đem Hải vào nhà, đặt anh trên divan. Ông nội lấy mền đắp lên xác Hải.
Hai người anh tôi đang trốn trên trần nhà đòi xuống nhìn mặt Hải. Ông nội không cho. Anh Lộc  giở nắp trần nhà sát góc tường, thò đầu xuống vừa khóc vừa nói, Ti, đẩy cái ghế đẩu qua cho anh. Tôi nghe lời ra đằng sau bếp lấy cái ghế đẩu mang lên để ngay góc phòng cho anh Lộc nhẩy xuống. Ông nội ngó lên, quơ quơ hai tay, giọng ông lạc đi, đừng xuống, ông nội lạy con, đừng xuống, ở trên đó đi mà… Anh Kính đang ở trên đó, cũng đang khóc. Lộc chưa kịp nhẩy xuống thì nghe tiếng nói, tiếng chân người ngoài sân. Anh vội vàng đóng miếng ván lại thì bọn HPNP cũng vừa vào đến.
Thấy Phan bước vô, mặt Văn biến sắc, anh lắp bắp nói với ông nội, anh Phan cho tụi con đem xác về đó ông ơi. Ông nội đứng im không nói. Hai mắt cú vọ của nó ngó ông nội hỏi, thằng Lộc, thằng Kính ở mô? Ông nội nói tui không biết. Phan gằn giọng, ông thiệt không biết tụi hắn ở mô? Tụi hắn năm mô cũng về ăn tết ở đây mà ông không biết răng được? Ông nội nói, ba ngày tư ngày tết, ăn xong thì tụi hắn đi chơi, đi thăm bà con họ hàng chứ chẳng lẽ ở nhà hoài răng? Chừ thì tui biêt tụi hắn ở nhà mô mà chỉ!
Mắt Phan ngó láo liên khắp nơi, chợt thấy cái ghế đẩu ngay góc phòng, nó cười khan một tiếng.
Tôi đứng núp sau lưng ông nội, HPNP  hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn, Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tau bắn con Ti!
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/2677/nhan-ch%E1%BB%A9ng-n%E1%BA%A1n-nhan-t%E1%BB%99i-ac-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-t%E1%BA%BFt-m%E1%BA%ADu-than-68/2010/03/2
======================================================================
Nhân chứng, nạn nhân tội ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 68


|
Nó  vừa nói, vừa xoáy mái tóc dài của tôi trong tay, nó đẩy tới, đẩy lui. Tôi đau điếng, tôi sợ, tôi run lẩy bẩy, nước mắt ứa ra nhưng không dám la thành tiếng. Ông nội tôi chấp tay lạy nó như tế sao, tui lạy anh tha cháu tui, con gái con lứa, hắn biết chi mô.
Thằng Phan càng la lớn, tau biết tụi mi trên đó, có xuống không thì nói, tau bắn con Ti.
Phan xô tôi té xuống, lấy chân đạp lên lưng. Chĩa mũi súng lên đầu tôi hô một, hai,ba… Lập tức anh Lộc mở nắp trần nhà thò đầu xuống la to, đừng, đừng bắn em tau, tau xuống, để tau xuống… Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc Anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP đã nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dẫy dụa mấy cái rồi nằm im.
Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chĩa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó dành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván.
Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kề bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi.  Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính.
Bắn ông tôi xong chúng kéo nhau đi bắt anh Văn theo. Còn lại một mình, tôi bò lại ôm lấy ông nội, tôi khóc không ra tiếng, tôi thở không ra hơi, hai bàn tay tôi ướt đẫm máu, máu của ông nội tôi, tôi bò sang anh Lộc, bò sang anh Kính, tôi lay, tôi gọi, tôi gào, không ai nghe tôi hết, anh tôi không trả lời tôi, hai con mắt, bốn con mắt, sáu con mắt đều mắt mở trừng, ông nội tôi nằm im, máu trong ngực ông vẫn tuôn ra từng vòi. Tôi gục đầu xuống xác ông lịm đi. Không biết bao lâu thì tôi tỉnh lại, nhưng không ngồi dậy nổi. Cứ nằm ôm lấy xác ông nội. Tóc tôi bết đầy máu, toàn thân tôi, máu, phân và nước tiểu đẩm ướt. Tôi không còn sức để ngồi lên. Không biết tôi nằm bên cạnh xác ông tôi với ba người anh như vậy là bao lâu, khi tỉnh dậy thì thấy hai vợ chồng bác.
Hậu, vài người lối xóm của với ông nội đang ở trong nhà.
Họ dọn dẹp, khiêng bộ ngựa trong nhà bếp ra trước phòng khách, đặt xác ông nội cùng với ba người anh tôi nằm chung với nhau. Hai bác gái đem tôi vào phòng tắm, phụ nhau tắm rửa cho tôi như một đứa con nít, bác Hậu lấy áo quần của bác mặc cho tôi. Tâm trí tôi hoàn toàn tê liệt. Tôi không còn khóc được, không còn mở miệng nói được câu nào. Ngày cũng như đêm ngồi rũ rượi bên cạnh xác của ông tôi, các anh tôi. Tôi không còn sợ chết. Nhưng sao tụi nó không giết luôn tôi? Trời hỡi, trời ơi!
Nhìn thấy tôi tiều tụy,  mỗi ngày bác Hậu gái khuấy cho tôi vài muổng bột bích chi ép tôi uống. Thiệt ra nhà nội cũng chẳng còn chi. Gạo cơm, bánh mứt thì bị tụi nó khiêng đi hết rồi. Bác Hâu còn dấu được ít gạo, ít than nấu cháo uống cầm hơi với nhau.
Ngày hôm sau thằng Phan trở lại. Bác Hâu xin phép được chôn ông tôi và mấy người anh sau vườn nhà nhưng nó không cho, nói cứ để đó.
Đã hơn bảy ngày, xác đã bắt đầu sình lên và nặng mùi. Mà Phan không trở lại. Một buổi tối tụi bộ đội Bắc Việt đến lục lọi kiếm gạo. Bác Hậu xin chúng nó đào huyệt sau nhà để chôn ông nội và ba người anh tôi. Chúng nó bảo ừ thối quá rồi thì chôn đi, nhưng chỉ được đào một lỗ huyệt.
Vợ chồng bác Hậu khóc lóc năn nĩ, mấy anh ơi, người chết rồi biết chi, anh cho tụi tui đào 4 huyệt. Chúng không cho. Chúng nó phụ bác Hậu đào huyệt. Bảo đem cả bốn người bỏ xuống chung một lỗ. Lấp lẹ đi, thối quá. Bác Hậu với mấy người trong nhà không ai muốn làm, ngó nhau mà khóc…
Chiều tối hôm đó Văn trở lại với Phan và mấy thằng bộ đội. Chúng nó bắt Văn phụ với mấy thằng bộ đội khiêng từng người ra bỏ xuống huyệt. Hai vợ chồng bác Hậu theo ra vườn. Tôi kiệt sức nằm vùi một chỗ nhưng tai tôi vẫn nghe rõ những lời đối thoại trong nhà. Tôi không đủ can đảm theo ra vườn chứng kiến cảnh vùi lấp những người thân yêu của tôi. Nằm trong buồn ông bà nội nhưng tôi nghe rõ từng tiếng cuổng xẻng đang đào đất. Tâm trí tôi quay cuồng, ruột gan tôi đòi đoạn. Trời ở đâu, đất ở đâu? Tôi gọi ông tôi, gọi anh Lộc, anh Kính, anh Hải, không ai nghe tôi hết…
Khi bốn cái xác người được bỏ xuống, miệng lỗ chưa được lấp, thì tôi nghe tiếng súng nổ, tiếng kêu gào của vợ chồng bác Hậu, nhưng không nghe tiếng của Văn. Tiếng bác Hậu kêu Văn ơi, Văn ơi giọng bác đòi đoạn, thì tôi biết chuyện gì đã xẩy ra cho Văn. Toàn thân tôi lẩy bẩy, tôi cảm thấy khó thở, một lần nữa cứt và nước đái trong người tôi túa ra.
Tôi nghe tiếng mấy thắng bộ đội hò hét bảo lấp đất lại. Bác Hậu Và những người hàng xóm của nội tôi đành phải làm theo. Khi tụi bộ đội VC bỏ đi, bác Hậu chạy vào buồng vò đầu, bức tai, giọng tức tưởi, thằng Văn nằm chung với ba thằng anh mi rồi con ơi! Trời ơi, là trời ơi, bác Hậu đấm ngực, không biết thằng Văn đã chết chưa mà hắn bắt tui lấp. Văn ơi là Văn ơi, con tha tội cho bác, trời ơi người mô mà ác như rứa… Tôi lặng người, nghe bác Hậu khóc anh Văn.
Sau lần đó không đứa nào trong bọn chúng trở lại, kể cả tụi bộ đội. Chắc nhà ông tôi chẳng còn người để mà giết, chẳng còn của cải chi để mà cướp nữa.
Hơn hai mươi ngày, tôi nằm liệt lào trong nhà nội. Bên ngoài súng đạn vẫn tư bề.
Hai vợ chồng bác Hậu không nở bỏ tôi lại một mình, trong lúc bác nghe ngóng và biết đa số dân Phủ cam đã tìm đường chạy thoát được xuống Phú Lương. Bác năn nỉ tôi ráng ăn uống thêm một chút để có sức mà chạy, không lẽ con nằm đây chờ chết? Con không muốn tìm mạ con răng?
Hôm sau nữa tôi  theo gia đình bác Hậu tìm đường chạy lên Phú Lương vì nghe nói lính Mỹ, lính mình đã thấy xuất hiện chung quanh đây rồi. Đi xuống ngã cầu Kho Rèn thì cầu đã bị sập, bác theo đoàn người đi hướng khác, tôi đi theo như người mất hồn, họ đi đâu tôi theo đó, tôi không còn nhớ là mình đã đi qua được những nơi đâu. Có điều tôi lấy làm lạ, trên đường chạy giặc, mỗi khi đạn pháo bắn khắp nơi mà người ta cứ gồng gánh nhau mà đi, không ai chịu dừng lại kiếm chỗ tránh đạn, người ta nói với nhau, khi mô mà có mọc chê hay đạn pháo chi đó thì bọn VC chui vô nhà dân để trốn đạn, chúng nó không ra đường để chặn bắt dân lại, vì vậy người ta cứ chạy  bất kể, dưới lằn mưa đạn người ta càng  chạy đi đông hơn. Ôi những người dân tội nghiệp của xứ Huế thà chết dưới bom đạn còn hơn để bị lọt vô tay quân sát nhân ác độc.

Cầu An Cựu, Huế, tháng 3/1968. Nguồn: flickr.com
Cuối cùng thì tôi cũng về đến được Phú Lương gặp mạ và ba đứa em trai của tôi. Quá đau khổ, Mạ tôi bị  phát điên khi hay tin cái chết của ba người anh và ông nội. Ít lâu sau ba tôi trở về sau một đợt hành quân nào đó của tiểu đoàn 12 Pháo Binh Phú Bài. Thấy mạ tội như vậy, biết không thể trở lại đường Hàm Nghi ông mướn nhà ở tạm tại Phú Lương.
Sau khi Huế được giải thoát. Ba tôi nhờ bà con lối xóm cải táng Văn, ba người anh, và ông nội tôi, tang lễ được cử hành tại nhà thờ Phủ Cam do cha Nguyễn Phùng Tuệ chủ tế. Gia đình anh Văn đồng ý cho anh Văn được nằm lại trong miếng vườn nhà ông nội tôi cùng với ba người anh  của tôi.
Ba tôi được giải ngũ khoảng giữa năm 69. Mạ tôi vẫn trong cơn điên loạn không thuyên giảm. Ba tôi quyết định bỏ Huế đem hết gia đình vào Long Khánh sinh sống. Nhà nội giao lại nhờ hai bác Hậu coi chừng. Nhà ở 24 Hàm Nghi (gần dường rầy xe lửa) thì bán cho ai đó tôi không rõ.
Thưa ông Liên Thành,
Đó là những cái chết oan khiên của những người ruột thịt thân yêu mà tôi phải chứng kiến tận mắt với muôn ngàn đau đớn. Trong bà con thân tộc nội ngoại hai bên của tôi có rất nhiều người  bị bắt đi ở nhà thờ Phủ Cam, một số bị bắt ở nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế. Số người bị chôn sống, mất tích lên tới 70 người. Tất cả đều là học sinh, sinh viên, thường dân, nông dân, buôn bán ở chợ An Cựu.
Sau Tết Mậu Thân, những người bà con còn lại của tôi quá đau khổ, sợ hãi, họ đã âm thầm bỏ Huế, tản mác khắp nơi, thay tên đổi họ mà sống…
Sau biến cố tháng 4 đen 75, gia đình tôi lại là những nạn nhân của lũ Cộng Sản ác độc, vô luân. Ba tôi và những đứa em trai còn lại cũng đã chết sau mười mấy năm bị đày đọa trong lao tù CS.
Đã 40 năm qua, những vết thương đó vẫn còn tươi rói trong tôi. Nỗi đau mỗi ngày một đầy. Đó là những cái chết oan khiên trong muôn ngàn cái oan khiên của người dân Huế.
Tôi là người con duy nhất trong gia đình còn sống sót sau tết mậu Thân cũng như  sau những ngày mất nước. Nay viết lại những cái chết thương tâm của những người Thân Yêu trong Gia đình tôi với tư cách là một nhân chứng và nạn nhân, để tố cáo Tội Ác của Cộng Sản, có như thế, oan hồn của ông nội và anh em tôi mới có thể siêu thoát
Tôi sẵn sàng ra làm nhân chứng trước tòa án quốc tế, cũng như xuất hiện trước các phương tiện truyền thông khi cần thiết.
Xin trình ông tên tuổi ông nội tôi, và của ba người anh bị sát hại :
Tên ông nội :    Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Ba người anh : Nguyễn Xuân Kính, sinh viên y khoa, sinh năm 1942.
Nguyễn Xuân Lộc. sinh viên luật, sinh năm 1946
Nguyễn Thanh Hải, sinh viên Văn Khoa, sinh năm 1949
Lê Tuấn Văn, sinh viên Văn Khoa, bạn của anh Hải tôi.


© Nguyễn thị Thái Hoà
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/2677/nhan-ch%E1%BB%A9ng-n%E1%BA%A1n-nhan-t%E1%BB%99i-ac-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-t%E1%BA%BFt-m%E1%BA%ADu-than-68/2010/03/3
======================================================================
Nhân chứng, nạn nhân tội ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 68
|
Tưởng nhớ 7.600 người dân Huế bị thảm sát trong cuộc tổng tấn công của Cộng Sản, Tết Mậu Thân, 1968

Huế 1968. Nguồn: stripes.com
Huế 1968. Nguồn: stripes.com
Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Huế 1968. Nguồn: stripes.com

Nguồn: flickr.com
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/2677/nhan-ch%E1%BB%A9ng-n%E1%BA%A1n-nhan-t%E1%BB%99i-ac-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-t%E1%BA%BFt-m%E1%BA%ADu-than-68/2010/03/5
======================================================
Nhân chứng, nạn nhân tội ác Cộng Sản Tết Mậu Thân 68

|
     
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/2677/nhan-ch%E1%BB%A9ng-n%E1%BA%A1n-nhan-t%E1%BB%99i-ac-c%E1%BB%99ng-s%E1%BA%A3n-t%E1%BA%BFt-m%E1%BA%ADu-than-68/2010/03/4
=====================================================
Huế, thảm sát Tết Mậu Thân.


|

Ảnh Wikipedia
Thực chất đây là một cuộc diệt chủng, bọn cộng sản đã thẳng tay tàn sát đồng bào mình trong những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc một cách dã man. Cuộc thảm sát kinh hoàng ở Huế Tết Mậu Thân nói lên được sự bội tín và lật lọng đê hèn của đảng cộng sản Việt Nam đã thừa dịp Hưu chiến trong ba ngày Tết để mở cuộc tổng tấn công. Lợi dụng những ngày này lực lượng Việt Nam Cộng hòa cho binh sĩ nghĩ phép 50%, cộng thêm sự lơ là của số quân nhân còn ở tại đơn vị trong những ngày Tết, quân cộng sản Việt Nam đã bất thần tung chiêu đánh lén. Lúc ban đầu vì bất ngờ nên quân VNCH có phần yếu thế, tuy nhiên không bao lâu sau thì lấy lại tinh thần và đã cố thủ được vị trí chiến đấu một cách oanh liệt, duy chỉ có thành phố Huế bị áp lực địch nặng nề nên phải mất 26 ngày sau quân VNCH mới tái chiếm hoàn toàn. Bán Nguyệt san Tự Do Ngôn Luận số 43 (15-1-2008) của linh mục Chân Tín nói đến cuộc Thảm sát Tết Mậu Thân ở Huế như sau:
“Trước tiên, đó là vi phạm thỏa ước hưu chiến mà cộng sản đã cam kết một cách long trọng, khiến phía VNCH tin lời mà cho một nữa số quân nhân về ăn Tết với gia đình nên bước đầu đã phần nào bị động…Thứ hai, đó là chà đạp những ngày Tết thiêng liêng của dân tộc. Giữa cảnh sum họp êm ấm, CS đã gây cảnh tan nát chia lìa. Giữa bầu không khí yêu thương hòa giải, CS đã đem tới hận thù bạo lực. “Ai đã cướp con tôi? Ai đã giết con tôi giữa cơn mộng đêm thái bình?” Là câu hát còn vang vọng mãi trong lòng dân miền Nam. Máu đỏ pha vào với rượu Tết. Thịt người đã trộn lẫn với bánh tét bánh chưng. Vỏ đạn đã nằm vương vãi lăn lóc cạnh những đồ thờ tự. Thứ ba, đó là giết chết cả thường dân, bất kể tu sĩ, linh mục, y tá bác sĩ, viên chức cán bộ, văn nhân nghệ sĩ, thầy giáo học trò, thậm chí cả những kẻ buôn thúng bán bưng, lao động độ nhật”.(Đối Thoại online ngày 14-2-2008)
Theo báo cáo tổng kết của Douglas Pike, lúc bấy giờ là nhân viên hành chính ngoại giao của cơ quan Thông tin Hoa Kỳ năm 1970 thì có 3 giai đoạn đưa đến những vụ tàn sát:
“Giai đoạn đầu là một loạt các cuộc xử án bất hợp pháp công cộng kéo dài khoảng 5-10 phút do giới chức trong quân Bắc Việt hay Việt cộng dựng lên. Bị cáo luôn bị kết án “có tội với nhân dân”.
“…
“Giai đoạn sau cùng, khi thấy rõ họ đang bị đánh bật ra khỏi Huế, quân Bắc Việt/Việt cộng thi hành những vụ thủ tiêu nhân chứng- bất cứ ai biết mặt họ, nhìn thấy những tội ác trong lúc Huế bị chiếm đều bị giết và chôn mất xác”…
“Marilyn B.Young trong sách tựa đề The Vietnam Wars, 1945-1990 ghi lại:
Trong những ngày đầu của cuộc chiếm đóng quả thực có những vụ xử tử công khai tại chỗ…khi trận chiến gần kết thúc bởi cuộc công pháo, lính miền Bắc trên đường rút lui xử tử những người họ đang giam giữ thay vì thả họ ra hay bắt theo làm tù binh- với con số người chết không nhiều như chính phủ Sài Gòn và Washington công bố, nhưng nhiều đủ để tạo những câu hỏi tang thương cho những người sống sót ở Huế”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 4-2-2008)
Phóng viên Thiện Giao của đài RFA qua bài “Huế, 25 ngày kinh hoàng của 40 năm trước” thì theo ông Nguyễn Lý Tưởng, cựu Dân biểu khu vực Thừa Thiên Huế kể lại:
“Tại thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, 22 địa điểm tìm được là các mồ chôn tập thể. Trong 22 địa điểm này, người ta đếm được 2.326 sọ người. Sau tết, chúng tôi lập Hội Gia đình Nạn nhân Cộng sản trong Tết Mậu Thân. Các gia đình kê khai có người chết, có người mất tích, lên đến 4.000 gia đình. Người ta ước tính vào khoảng 6.000 người. Có nhà báo ước tính 5.000 người. Chúng tôi cho con số 5 đến 6 ngàn là không sai lệch lắm đâu…
“Đỉnh điểm là Khe Đá Mài, thuộc núi Đình Môn Kim Ngọc, tại đây khoảng 400 bộ hài cốt đã được tìm thấy. Những hài cốt tìm thấy tại Khe Đá Mài chính là của những người trú ẩn tại xứ đạo Phủ Cam, xã Thủy Phước, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên.
“Cộng sản bắt đi trên 500 người, thanh niên từ 15, 16 tuổi đến ông già 60,70 bị đưa đi giam ở chùa Từ Đàm. Đến đêm, họ bị dẫn đi lên đường núi và qua sông. Sau đó tàn sát hết mọi người trong tư thế bị trói”. (RFA online ngày 31-1-2008)
Theo hai vị linh mục khả kính Nguyễn Hữu Giải và Phan Văn Lợi hiện đang sống tại Huế kể lại Cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài:
“…tại núi Ba Tầng (núi Bân), phía Nam thành phố Huế. Ngôi mộ này lưu giữ hơn 400 bộ hài cốt chủ yếu bốc từ Khe Đá Mài nhưng đã bị chính quyền cộng sản phá đổ trụ bia và để cho hoang phế suốt 32 năm trời…
“Trong toàn bộ biến cố Tết Mậu Thân, có lẽ những gì xảy ra tại Huế là đau thương và đánh động hơn cả, có lẽ cuộc thảm sát tại Khe Đá Mài là rùng rợn, dã man và thê thảm nhất. Tiếc thay, theo sự am hiểu của chúng tôi, hình như người ta chỉ biết đến kết cục của nó là hàng trăm bộ hài cốt dồn lại một đống dưới khe sau khi thịt thối rữa bị nước cuốn đi lâu ngày, từ đó suy diễn ra sự việc hơn là biết rõ diễn tiến của toàn bộ sự việc kể từ lúc nạn nhân bắt đầu bị dẫn đi đến chỗ hành quyết”. (Đối Thoại online ngày 17-1-2008)
Qua lời thuật lại của hai linh mục Phan Văn Lợi và Nguyễn Hữu Giải khi họ gặp một nhân chứng sống lúc bấy giờ ông ta mới 17 tuổi cũng bị bắt theo đoàn người bị đưa đi giết ở Khe Đá Mài nhưng may mắn lợi dụng lúc đêm tối nên ông đã trốn thoát và hiện còn sống ở trong nước và kể rằng:
“Rồi chúng bắt đầu dùng dây diện thoại trói thúc ké từng người một chúng tôi, trói xong chúng xâu lại từng chùm bằng một sợi dây kẽm gai, 20 chục người làm một chùm. Tôi nhớ là đếm được trên 25 chùm, túc hơn 500 người…Về sau tôi được biết đa phần những thanh niên bị bắt đêm mồng 6 Tết tại nhà thờ Phủ Cam và sau đó bị giết chết đều là học sinh, sinh viên, thanh niên nhút nhát hiền lành”. (Thời Luận ngày 24/27 tháng 1-2008)
Phóng viên Don Oberdorfer, năm 1969 sang Việt Nam phỏng vấn nhiều nhân chứng trong thời gian Huế bị cộng sản chiếm đóng đã xác minh cho nhận định của người kể chuyện Khe Đá Mài:
“Oberdorfer báo cáo rằng hầu hết những người nam trên 15 tuổi trốn tránh trong một nhà thờ ở Phủ Cam đều bị đem đi và bắn chết. Khi Oberdorfer phỏng vấn Hồ Tý, một viên chỉ huy Việt cộng trong cuộc tấn công 1968, ông này cho biết đảng cộng sản có lưu ý đặc biệt về khu Công giáo Phủ Cam vì “người Công giáo là kẻ thù của chúng tôi”. (Wikipedia tiếng Việt online ngày 4-2-2008)
Và dã man nhất là:
“Một trong các cuộc thảm sát gây phẫn nộ dư luận quốc tế là vụ giết 4 bác sĩ người Đức sang giảng dạy và làm việc tại trường Đại học Y Khoa Huế. Trong bài viết “The Vietcong Massacre at Hue”, xuất bản năm 1976, một bác sĩ có tên Elje Vannema, kể rằng ông bà bác sĩ Horst Gunther Krainick và hai bác sĩ Raymund Discher cùng Alterkoter đã bị giết trong tháng Hai năm 1968 tại chùa Tường Vân”. (RFA online ngày 31-1-2008)
Theo Phóng viên Thiện Giao thì ông Võ Văn Bằng, Trưởng Ban Cải táng Nạn nhân Cộng sản Tết Mậu Thân hồi tưởng:
“Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạc trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng…
“Theo Nguyễn Phúc Liên Thành, Phó trưởng ty Cảnh sát Đặc biệt lực lượng Cảnh sát Quốc gia tại Thừa Thiên thì: “Những báo cáo của các cuộc Cảnh sát các xã thuộc 13 quận của thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên, do các xã báo cáo, khoảng 5.300 nạn nhân bị chôn sống tại tỉnh Thừa Thiên”. (RFA online ngày 31-1-2008)
Nhà báo Vũ Ánh, nguyên phóng viên mặt trận hệ thống Truyền thanh quốc gia VNCH, đã có mặt tại Huế từ ngày 5 đến 29 Mậu Thân và đi theo nhiều nhóm tìm hầm chôn tập thể kể lại cảm giác của ông khi nhìn thấy những cảnh tượng ấy:
“Vùng nhiều nhất là quận Phú Thứ và Dạ Lê Thượng có nhiều hầm chôn xác tập thể. Cảm giác của tôi lúc ấy rất lạ, như là bị tê liệt khi nhìn các hình ảnh đó…
“ Ngay ở hầm Phú Thứ, chắc khoảng gần 1.000 người. Khui lên, đầu của họ phía sau sọ bị bể hết. Những thi hài bị nối nhau bằng dây điện thoại. Có những người không có vết thương, chứng tỏ bị chôn sống”. (RFA online ngày 1-2-2008)
Trong bài nói chuyện tại buổi 40 năm Tưởng niệm Tết Mậu Thân, Việt Báo Gallery, thứ Bảy 29-3-2008, nhà báo Nhã Ca tác giả “Giải khăn sô cho Huế” phát biểu:
“Bốn mươi năm trước đây, đúng vào giờ trưa mùng Hai Tết, tại Cửa Đông Ba Huế, chỉ mấy tiếng đồng hồ sau khi đột nhập, cộng sản khai diễn cuộc tàn sát. Toán nạn nhân đầu tiên gồm 5 thường dân-không hề có người lính Cộng Hòa nào. Tất cả bị trói, bắt đứng quay lưng vào tường thành. Dân chúng đứng coi. Súng AK nổ. Từng người gục chết. Sau cuộc hành hình, thân nhân những người bị bắn nhào ra muốn ôm xác. Họ bị đánh, bị đá, bị đuổi. Xác người bị phơi ngày phơi đêm. Nắng. Máu. Ròi bọ…
“Và cuộc tàn sát tiếp tục. Không bằng súng đạn mà bằng cách chôn sống. Những nạn nhân bị cột trói bằng dây điện dính chùm xếp hàng bên hố. Một vài người bị đập đầu. Cả dây người đang sống bị đạp xuống hố đè lên nhau. Cái đầu nào ngóc lên bị đập bằng cuốc. Cứ thế mà chôn hàng ngàn người. Bạn tôi, chị Tâm Túy cũng đã bị chôn sống. Khi xác đào lên, thấy hai tay chị vói lên như đang cố cào bới đất. Móng tay, móng chân mọc dài hơn. Tóc mọc dài hơn…Bạn tôi bị chôn sống khi còn đầy sức sống.
“Huế Tết Mậu Thân. Hàng ngàn người đã bị chôn sống như thế”. (Việt Báo ngày 31-3-2008)
Theo thông tín viên Tường An của đài RFA thì cư sĩ Trí Lực, người đã chôn cất những xác chết nằm lại sau biến cố Mậu Thân kể lại nỗi kinh hoàng lúc đó như sau:
“Hai mươi sáu ngày sau, sau khi Cố đô Huế bình định trở lại thì tôi tận mắt chứng kiến những hầm chôn tập thể được khai quật lên từ vùng Bãi Dâu Gia Hội, những người xấu số đã bị trói quật lại sau lưng và có những mảnh xương sọ bị vỡ nát. Cảnh kinh hoàng là cảnh cộng sản đã chôn sống bao nhiêu người dân vô tội..
“Nhà văn Đinh Lâm Thanh, hiện sống ở Pháp, cũng là chứng nhân của biến cố Mậu Thân kể:
“Gia đình của tôi vùng Phủ Cam là một, vùng An Vân Thượng là hai, Gia Hội là ba. Bà con xa bà con gần của bên họ ngoại của tôi gồm cả thảy 12 người. Trong 12 người đó, có người bị chôn sống, có người bị bắn tại chỗ, có người bị chặt đầu, có người bị mổ bụng”. (RFA online ngày 7-2-2012)
Nhân chứng của cuộc thảm sát dã man của CSVN trong những ngày tang thương của Huế sau cùng trong bài này là bà Nguyễn Thị Thái Hòa kể:
“Tôi xin tường thuật lại chi tiết những cái chết đau thương của ông nội tôi, ba người anh, cùng một người bạn của họ, như là một nhân chứng còn sống sót sau Tết Mậu Thân…
“Vừa vô tới giảng đường thì anh Hải bị Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn gục ngay… Văn òa khóc, tôi khóc theo, kéo ông nội ra sân. Nhìn thấy xác Hải ông nội tôi khuyụ xuống, miệng thì kêu trời ơi, trời ơi, răng mà nông nổi ni…
“Tôi đứng sau lưng ông nội, Hoàng Phủ Ngọc Phan hung hăng bước tới, xô ông nội qua một bên, nó nắm lấy tóc tôi kéo tôi ra về phía hắn. Ngó lên trần nhà la lớn: Lộc, Kính, Hiệp, tụi mày không xuống tao bắn con Ti!…
“Ông nội tôi chạy lại giữ cái ghế cho anh bước xuống, hai chân ông run, ông té sấp, đang lúc anh Lộc tìm cách tuột xuống, thò hai chân xuống trước, hai tay còn vịn trần nhà, khi đôi chân vừa chạm chiếc ghế đẩu thì HPNP nổ súng, đạn trúng ngay chính giữa cổ, máu phọt ra, Lộc lăn xuống sàn nhà toàn thân anh dảy dụa mấy cái rồi nằm im.
“Mặc ông nội tôi la hét thất thanh, Phan chỉa súng bắn lên trần nhà, nghe tiếng anh Kính lăn tới đâu, nó bắn tới đó, bắn nát trần nhà, hết đạn nó giành lấy cây súng của một thằng khác bắn tiếp, cho tới khi anh Kính tôi rớt xuống theo mấy miếng ván. Anh Văn ngồi bệt xuống đất, nhắm mắt, bịt tai, run lẩy bẩy, ngồi kế bên cạnh anh người tôi tê cóng, đái ỉa ra cả quần, ông nội tôi nhào tới ôm anh Kính, hai mắt trợn trừng, anh đang thều thào những lời sau cùng, ông khóc, ông chửi rủa thằng Phan, nó say máu, bắn luôn ông nội tôi. Ông tôi đổ xuống bên cạnh anh Kính”. (Đàn Chim Việt online này 16-1-2012)
Cuộc tổng tấn công gây tang thương cho người dân Huế trong Tết Mậu Thân đã được nhạc sĩ Trịnh Công Sơn viết thành bài ca bất hủ:“Hát trên những xác người”
“Chiều đi lên Bãi Dâu
Hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
Trên con đường
Người ta bồng bế nhau chạy trốn
Chiều đi lên Bãi Dâu
Hát trên những xác người
Tôi đã thấy, tôi đã thấy
Những hố hầm
Đã chôn vùi thân xác anh em…

Xác người nằm trôi sông
Trôi trên ruộng đồng
Trên nóc nhà thành phố
Trên những con đường quanh co
Xác người nằm bơ vơ
Dưới mái hiên chùa
Trong giáo đường thành phố
Trên thềm nhà hoang vu

Xác người nằm quanh đây
Trong mưa lạnh này
Bên xác người già yếu
Có xác còn thơ ngây
Xác nào là em tôi
Dưới hố hầm này
Trong những vùng lửa cháy
Bên những vồng ngô khoai”.
(RFA online ngày 7-2-2008)

Một nhà khoa bảng miền Nam là tiến sĩ Dân tộc học Lê Văn Hảo, giáo sư Đại học Văn khoa Huế, Đà Lạt và Sài Gòn vào dịp Tết Mậu Thân ông là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách mạng Thừ Thiên-Huế sau này trả lời phỏng vấn của phóng viên Nguyễn Văn An về vai trò của ông trong trận tấn công Tết Mậu Thân, ông nói như sau:
“Trong tất cả khi nổ ra Mậu Thân tức là trong 26 ngày đêm cộng sản chiếm thành phố Huế thì tôi ngồi trên núi để nghe đài phát thanh suốt ngày, tất cả những gì xảy ra dưới Huế tôi chỉ biết qua đài phát thanh của Hà Nội và đài phát thanh giải phóng.
“Than ôi! Đó không phải sự thật lịch sử mà tôi chỉ là một con tin ở trong thế kẹt phải nhận lấy chức vụ để bảo tồn sự sống còn để mà mong có ngày về với vợ con thôi! Chớ tôi nói thật với anh vai trò của tôi trong tết Mậu Thân là vai trò hoàn toàn thụ động, tôi chỉ ngồi trên núi nghe đài, nghe tin tức…
Nói thật anh, việc ấy thì tôi biết ngay khi tôi lên núi thì tôi biết Mặt trận Giải phóng là trò bịp bợm, tức là một tổ chức hữu danh vô thực, nó là tổ chức của cộng sản thôi, gọi là MTDTGPMN nhưng mà tất cả do Hà Nội chỉ đạo thôi. Việc đó tôi biết ngay và họ cũng không dấu anh ạ! Lúc đó mình ở trong tay họ rồi nên họ cũng không dấu”. (RFA online ngày 2-2-2008)

Ngày nay khi nói đến Tết Mậu Thân thì người ta đều nghĩ ngay đến cuộc thảm sát tại Huế vì nơi đó đã cho mọi người thấy hết sự tàn sát dã man của những người tự mang danh giải phóng. Tội ác ấy ngày nay chính những người trong cuộc đã chối bỏ trách nhiệm và sự hiện hữu của mình nơi đó, họ không dám nhận cái chiến công hiển hách của họ, vì họ biết đó là chiến công mà loài người nguyền rủa. Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời Thụy Khuê:
“…với tư cách là đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”. (RFI online ngày 12-7-1997)
Sở dĩ áp lực của địch quân tại Huế lâu dài và bị tàn phá nặng nề là do những tên cỏng rắn cắn gà nhà như tiến sĩ Lê Văn Hảo, anh em giáo sư Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn thị Đoan Trinh… và những thanh niên, sinh viên, học trò của họ đã năng nổ làm những tên xung kích chỉ điểm cho cộng quân tìm bắt và tàn sát người dân Huế cho nên sau này nhạc sĩ Nguyễn Minh Khôi sáng tác bản nhạc “Cơn mê chiều” để nói lên cái ô nhục này:
“Chiều nay không có em
Mưa non cao về dưới ngàn
Đàn con nay lớn khôn
Mang gươm đao vào xóm làng

Đường nội thành xưa ai tàn phá?
Cầu Tràng Tiền bạc màu loang giòng máu…”
(Nguyễn Minh Khôi)

Trả lời phóng viên Thiện Giao đài RFA, một thanh niên trí thức nhận định:
“Trong vụ thảm sát Mậu Thân, ngoài nỗi đau đớn cho dân tộc trong cuộc nồi da xáo thịt tàn độc, còn có một nỗi đau lớn hơn, là vai trò một số trí thức Việt Nam trong cuộc thảm sát này. Bài hát có câu: “Đàn con nay lớn khôn, mang gươm đao vào xóm làng”. Đàn con nớ, có phải chăng là một số trí thức Huế đã đưa Việt cộng vào làng, rồi sau đó theo ra bưng khi quân đội VNCH tái chiếm Huế? Chẳng hạn trường hợp Hoàng Phủ Ngọc Phan, phát biểu trước đây rằng những người bị thủ tiêu chôn sống là thành phần ác ôn có nợ máu với nhân dân”. (RFA online ngày 7-2-2008)
Trên diễn đàn Talawas, nhà thơ Ngô Minh có viết bài “Bi kịch Hoàng Phủ Ngọc Tường” thanh minh rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường trong suốt trận tấn công tại Huế thì ông ta đang “luyện chưởng” ở trên núi, nhưng có điều thú vị là Ngô Minh đã nhìn nhận một thực tế mà trước đây CSVN cứ chối leo lẻo:
“Quân Giải phóng mà đa phần là bộ đội trẻ từ miền Bắc vào chết rất nhiều”.
(Talawas online ngày 4-3-2008)
Lời thú nhận cay đắng của thượng tướng QĐND Trần Văn Trà được giáo sư Nguyễn Ngọc Bích nhắc lại trong bài “Trận chiến Mậu Thân Huế (II)”
“Có những đơn vị tham chiến mà không ai sống sót trở về”. (Đàn Chim Việt online ngày 26-3-2008)
Và sự thừa nhận trong niềm hối hận của thi sĩ “cách mạng” Chế Lan Viên trong bài thơ Ai? Tôi!
“Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng
Chỉ một đêm, còn sống có 30…”
(RFA online ngày 14-1-2012)
Sau cùng là sự “hối hận” của Lê Minh, trong vai trò tư lệnh chiến trường Huế Tết Mậu Thân đã tâm sự trong Hồi Ký:
“Tôi thấy cần phải nói đến một điều đáng buồn. (Về) sự tang tóc trong biến cố Mậu Thân (…) còn lại một mặt của vấn đề, việc trừng trị những người có tội ác với nhân dân (sic) đã nổi dậy. (…) Rốt cuộc là đã có những người bị xử oan trong chiến tranh. Dù lý do thế nào thì trách nhiệm vẫn thuộc về lãnh đạo, trong đó có trách nhiệm của tôi”. (Đàn Chim Việt online ngày 26-3-2008)
Đọc qua những tài liệu trên, “ta đã thấy” rõ được bộ mặt của đảng CS sát nhân diệt chủng dã man không thua gì bọn diệt chủng Khmer đỏ. Nếu CSVN “giải phóng” được miền Nam năm 1968 thì chắc chắn cảnh đầu rơi máu chảy sẽ thê thảm hơn nhiều, những cảnh giết người man rợ sẽ diễn ra một cách tàn độc hơn cả bọn Ponpot. Ngày nay cộng sản đang ngự trị trên quê hương Việt Nam khốn khổ, do đó mà tội ác diệt chủng của chúng chưa được phơi bày ra ánh sáng công lý cho đến một ngày mà đảng cộng sản mất quyền cai trị, thì ngày đó chắc chắn rằng bọn chúng cũng sẽ bị lôi ra tòa án quốc tế để đền tội với Tổ quốc, với nhân dân dù chúng đã chết.

Đại Nghĩa (Sưu tầm)
© Đàn Chim Việt
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/53142/hu%E1%BA%BF-th%E1%BA%A3m-sat-t%E1%BA%BFt-m%E1%BA%ADu-than/2012/02
======================================================
Nhân Tết Nhâm Thìn, nhớ lại Hai mươi sáu ngày tang thương của Huế
|
Tết Nhâm Thìn 2012 đến nhắc người Việt, nhất là người Huế nhớ đến Tết Mậu Thân. Đêm mồng một Tết (rạng mồng Hai) quân đội cộng sản mở cuộc tấn công quy mô trên toàn quốc, trong đó có thành phố Huế. Đêm trước – đêm Giao Thừa – trong khi thỏa thuận ngưng bắn 36 giờ để dân ăn Tết còn hiệu lực, cộng quân đã đánh vào một số thị trấn nhưng ở một quy mô nhỏ.
Cuộc tấn công của cộng quân vào thành phố Huế mở màn cho 26 ngày tang thương, 26 ngày kinh hoàng của lịch sử kinh thành Huế. Trong hơn một thế kỷ, Huế chỉ trải qua hai lần bom đạn. Lần thứ nhất “kinh đô thất thủ” năm 1883 khi Pháp đưa chiến thuyền ngược sông Hương pháo kích kinh đô Huế. Lần thứ hai khi cuộc tòan quốc kháng chiến bắt đầu, quân đội Việt Minh bao vây đánh các đơn vị Pháp đóng tại Huế vào cuối năm 1946, đầu năm 1947.
**

Hai mươi sáu ngày tang thương của Huế trong dịp Tết Mậu Thân 1968 được quyết định tại phiên họp Trung ương đảng của đảng cộng sản Việt Nam tại Hà Nội tháng Tư năm 1967 ….
Ngược một chút dòng lịch sử. Cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ từ tháng 12 năm 1946 đưa đến sự bại trận của quân Pháp tại Điện Biên Phủ năm1954 và Việt Nam bị chia đôi ngang vĩ tuyến 17. Miền Bắc cộng sản, miền Nam cho người quốc gia.
Thời gian 8 năm kháng chiến (1946-1954) là thời gian tế nhị của lớp sĩ phu và những người Việt Nam có chút ăn học. Hầu hết theo phong trào chống Pháp và nằm trong guồng máy lãnh đạo của đảng cộng sản Việt Nam. Một số trở thành người cộng sản, và một số không nhỏ trong thời gian kháng chiến thấy được bộ mặt thật của chủ nghĩa cộng sản đã bỏ về thành phố. Hầu hết thành phố do người Pháp quản lý với một chính quyền “gọi là quốc gia” làm bình phong nên không có chính nghĩa cho dù trong thời gian 8 năm người Pháp vì nhu cầu chính trị và áp lực của Hoa Kỳ đã trao trả một ít quyền hành và danh nghĩa cho ông Bảo Đại. Trong bối cảnh chính trị đó, những người bỏ hàng ngũ cộng sản về thành không có chỗ đứng. Họ bơ vơ trong cảnh hàng thần lơ láo.
Sau khi chia đôi Việt Nam, người Pháp rút về, Hoa Kỳ giúp hạ bệ ông Bảo Đại, thành hình “Việt Nam Cộng Hòa” với đầy dủ danh nghĩa một chính quyền quốc gia với sự lãnh đạo đầu tiên của tổng thống Ngô Đình Diệm.
Chính sách của Hoa Kỳ là giúp xây dựng một miền Nam Việt Nam phú cường, ổn định và tự do dân chủ để nhân dân miền Nam phát huy nội lực tự bảo vệ trước cuộc tấn công của miền Bắc. Xương sống của chính sách là miền Nam có một chính quyền quốc gia được sự hậu thuẫn của dân.
Rất tiếc do hoàn cảnh lịch sử điều kiện trên không thực hiện được. Bối cảnh lịch sử lúc đó là:
(1) nhân dân miền Nam chưa hiểu chủ nghĩa cộng sản là gì, và có cảm tình với những người lãnh đạo cộng sản vì họ vừa lãnh đạo thành công một cuộc đấu tranh giành độc lập.
(2) các chính khách và quân nhân lãnh đạo bộ máy chính trị và quân sự miền Nam Việt Nam hầu hết là sản phẩm của bộ máy cai trị của người Pháp để lại.
Trong số này tuy có thành phần ưu tú, nhưng thiếu phẩm chất của những nhà ái quốc chân chính. Từng là một bộ phận trong bộ máy cai trị của Pháp họ không ý thức được thế nào là tự do và thế nào là dân chủ. Một vài ý niệm dân chủ, tự do do người Pháp mang lại nhiều lắm giúp họ ca ngợi cái đẹp của tự do dân chủ nhưng chỉ ý thức lờ mờ rằng cái tự do dân chủ đó để dành cho từng lớp thống trị hay hợp tác với tầng lớp thống trị chứ không phải dành cho nhân dân Việt Nam chân lấm tay bùn. Vì vậy họ không thể hòan thành nhiệm vụ lịch sử là mang đến cho quần chúng một tinh thần ao ước tự do quyết tâm đổ mồ hôi và nều cần bằng máu để bảo vệ nếp sống trong tự do và dân chủ của mình.
Với tâm lý quần chúng đó, với dàn nhân sự đó tổng thống Ngô Đình Diệm dù là một người có tinh thần yêu nước cao và được sự giúp đỡ tận tình của Hoa Kỳ vẫn không xây dựng nổi một miền nam phú cường và dân chủ.
Trong bối cảnh đó miền Bắc dốc toàn lực tổ chức tuyên truyền phá hoại chế độ và đưa quân trá hình xâm lăng miền nam.

Để củng cố miền Nam, tháng 11/1963 Hoa Kỳ thay thế lãnh đạo bằng cách lật đổ chế độ ông Diệm. Nhưng các chế độ quân nhân thay thế ông Diệm tệ hơn chế độ ông Diệm. Trước nguy cơ sụp đổ, Hoa Kỳ không có sự lựa chọn nào khác hơn là đưa quân vào miền Nam chiến đấu đồng thời oanh tạc miền Bắc Việt Nam để ngăn làn sóng đỏ chiếm Nam Việt Nam rồi tràn ra toàn vùng Đông Nam Á và nam Thái Bình Dương đe dọa Úc châu theo chủ thuyết Domino rất được ưa chuộng vào lúc đó.
Tháng Ba, 1965 Hoa Kỳ đổ bộ đơn vị Thủy quân Lục chiến đầu tiên lên Đà Nẵng, Hà Nội đưa các Sư đoàn chính quy vào miền Nam, Hoa Kỳ tiếp tục đổ quân. Từ tháng Ba 1965 đến cuối năm 1967 Hoa Kỳ chuyển 485.000 binh sĩ đến miền Nam, trong đó có Sư đoàn Kỵ binh không vận, một sư đoàn tân lập di chuyển hoàn toàn bằng trực thăng.
Cuối năm 1965 quân đội Hoa Kỳ và quân chính quy bắc Việt thử sức nhau trong vùng rừng núi trên cao nguyên miền Trung. Hai bên chịu nhiều tổn thất, và sau cùng quân đội cộng sản không chịu nổi rút quân qua Cambốt.
Đối với Hoa Kỳ bây giờ là giải pháp quân sự chứ không còn là giải pháp tạo ổn định để chiến thắng về mặt chính trị nữa. Sau cuộc thử lửa tại cao nguyên Hoa Kỳ thực hiện nhiều cuộc hành quân càn quét các ổ đóng quân, bộ chỉ huy và các căn cứ tiếp vận của cộng sản quanh Sài gòn. Cuộc hành quân Cedar Falls tháng 1/1967 đánh vào khu “Tam Giác Sắt” gần Sàigòn. Từ tháng 2 đến tháng 5 Hoa Kỳ thực hiện cuộc hành quân Junction City đánh vào Chiến khu C, gần biên giới Cambốt. Cả hai cuộc hành quân đều đạt mục tiêu. Áp lực vào Sài gòn được giải tỏa; quân đội cộng sản tại Chiến khu C phải trốn qua biên giới Cambốt. Mặc dù sau khi quân đội Hoa Kỳ rút ra khỏi các vùng tảo thanh, quân đội cộng sản trở lại các vùng đó, nhưng tinh thần bộ đội và cán bộ của cộng sản xuống rất thấp.
Sau các cuộc giao tranh trên cao nguyên và hai cuộc càn quét Cedar Falls và Junction City lãnh đạo cộng sản tại Hà Nội tự hỏi rằng tiếp tục cuộc chiến như hiện trạng có thể đạt được hai mục tiêu sau không:
(1) buộc quân đội Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam, và
(2) lật đổ chính quyền tại Sài gòn.
Ý kiến trong Bộ chính trị của đảng cộng sản Việt Nam khác nhau.
Lê Duẩn và Nguyễn Chí Thanh nghĩ rằng tiếp tục hiện trạng sẽ làm cho Hà Nội kiệt sức trước. Duẩn và Thanh cho rằng cần phải làm một hành động ngoạn mục, gây nhiều tổn thất và tạo xúc động làm cho dân chúng Hoa Kỳ hỏang hốt và giúp thổi bùng lên phong trào chống chiến tranh đang âm ỉ tại Hoa Kỳ. Võ Nguyên Giáp trái lại, vốn có lối suy tư cổ điển theo sách vỡ cho rằng tình hình chưa chín để phát động một cuộc nổi dậy. Theo Gíáp, cần tiếp tục cuộc chiến tranh hao mòn “nông thôn bao vây thành thị” một thời gian nữa mới tới điểm “nổi dậy” được.
Sự bất đồng ý kiến đã được giải quyết trong Hội nghị trung ương đảng thứ 13 tại Hà Nội, qua đó đảng cộng sản quyết nghị tung một cuộc tổng tấn công vào các đô thị miền Nam trong dịp Tết Mậu Thân vào tháng Giêng Hai năm 1968.
Có lẽ Nguyễn Chí Thanh sẽ là người tổ chức cuộc nổi dậy nếu ông ta không chết bất ngờ vào tháng 7/1967. Thanh chết, không còn ai ngoài Giáp có khả năng tổ chức và lãnh đạo cuộc Tổng tấn công. Giáp thi hành lệnh đảng dù ông không đồng ý. Sau này mặc dù cuộc tổng tấn công đạt mục đích chính trị buộc Hoa Kỳ xuống thang, ngưng gởi thêm quân đội và đề nghị hòa đàm đi đến chấm dứt chiến tranh, nhưng sự tổn thất nhân mạng quá lớn làm ông mất uy tín “là một viên tướng giỏi” trong nội bộ, và ngôi sao của Giáp mờ dần từ đó.
Cuộc tổng tấn công của Giáp khởi đầu đêm giao thừa (đêm 29/1/1968 rạng ngày 30/1) vào các thành phố Nha Trang, Hội An, Quy Nhơn, Kontum, Pleiku, Ban Mê Thuột và pháo kích vào Bộ Tư lệnh Quân Đoàn I. Đêm sau mồng Một rạng mồng Hai Tết (đêm 30/1 rạng ngày 31/1/1968) Giáp đánh Huế, Sài gòn, tòa đại sứ Hoa Kỳ và 20 thành phố và thị trấn khác trên toàn quốc .
Bài viết này tôi dành trận đánh tại Huế. Trận đánh Huế kéo dài 26 ngày là trận đánh dài nhất, đẩm máu nhất, với sự trả thù giết hơn 3000 quân nhân, công chức, cán bộ miền Nam.
**
Thành phố Huế nằm trên hai bờ sông Hương Giang. Năm 1968 Huế có 140.000 dân, khoảng 100.000 sống bên tả ngạn gồm phố chợ Đông Ba, khu Gia Hội và Thành Nội. Phần còn lại sống bên bờ hữu ngạn có hình tam giác giới hạn bởi sông Hương, sông đào An cựu và quốc lộ 1. Trung tâm gồm tòa hành chánh, bưu điện, bệnh viện trung ương, Đại học và trường Quốc học Huế, cơ quan MACV Mỹ (Military Assistance Command, Vietnam) và cầu tàu tiếp vận bằng đường thủy từ cửa Thuận An vào nằm gần bến Đập Đá do một đơn vị Hải quân Việt Nam Cộng Hòa trú quân.

Thành Nội Huế nằm sát trên bờ bắc sông Hương rộng 7.8 km vuông, cạnh nam hình vòng cung áp sát bờ sông, 3 cạnh còn lại thẳng dài trung bình 2.800 mét. Thành được bảo vệ bằng một bức tường đất cao 9 mét che chắn trong ngoài bằng một lớp gạch dày, và cao 12 mét. Thành có nhiều cửa ra vào. Các cửa nổi tiếng là cửa Thượng Tự, cửa Nhà Đồ mở ra hướng Nam; cửa Hữu, cửa Chánh Tây mở ra phía Tây;cửa Đông Ba hướng ra phía Đông, cửa Bắc hướng về phía Bắc. Trong khối đất bao bọc thành có nhiều công thự, địa đạo người Nhật xây để bảo vệ Huế sau khi Nhật đảo chánh Pháp năm 1945 trong Thế chiến 2. Khi cộng quân chiếm Huế, họ xây công thự phòng thủ kiên cố với địa đạo, hầm ếch có sẵn và đào thêm trong bức thành đất làm cho việc tảo thanh của Thủy quân Lục chiến Mỹ-Việt và các đơn vị Dù và bộ binh Việt Nam Cộng Hòa trở nên rất khó khăn và nhiều tổn thất.

Bên trong Thành Nội là Đại Nội nơi thiết triều của các vua triều Nguyễn trước khi người Pháp chiếm năm 1883. Đại Nội hình vuông nằm cân đối trong Thành Nội, nhưng kề mặt nam hơn, mỗi bề 700 mét, bao quanh bằng một bức tường thành bằng gạch dày cao 6 mét. Ba cấu trúc đáng để ý của Huế là Cột cờ  cao 37 mét trong Thành Nội nằm ngay trước Đại Nội. Thứ hai là cầu Trường Tiền có 6 vài bắc qua sông Hương nối liền hai khu nam bắc của thành phố. Thứ ba là đồn Mang Cá nằm góc đông-bắc Thành Nội, nơi đặt Bộ Tư lệnh Sư Đoàn 1 Bộ binh. Các Trung đoàn của Sư Đoàn 1 đều được bố trí dọc theo quốc lộ 1 từ An Hòa ra vùng hỏa tuyến. Bảo vệ Bộ Tư lệnh và thành phố Huế là một đại đội Hắc Báo trinh sát do Đại úy Trần Kim Huê chỉ huy. An ninh trong thành phố do cảnh sát phụ trách.
Về phiá Hoa Kỳ, chỉ có cơ quan MACV tọa lạc sau khu Tòa Khâm Sứ cũ gồm 200 nhân viên, quân nhân lẫn dân sự và vài sĩ quan Úc cố vấn của Sư đoàn 1. Đơn vị quân sự Hoa Kỳ gần nhất nằm ở sân bay Phú Bài phía nam Huế 11 km trên quốc lộ 1 đi Đà Nẵng. Tại đây có Bộ Chỉ Huy Lực lượng Đặc Nhiệm X-Ray do Chuẩn Tướng Foster LaHue chỉ huy. X-Ray là một bộ phận của Sư Đoàn 1 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ đóng ở Đà Nẵng .
Chuẩn bị đánh Huế tướng Võ Nguyên Giáp huy động 8.000 quân gồm 2 Trung đoàn chính quy Bắc Việt và 6 tiểu đoàn cộng sản địa phương. Trong đó 5000 quân dùng để tấn công, 3000 quân còn lại dùng để bảo vệ đường tiếp vận vũ khí và người của cộng quân và đồng thời cắt đường tiếp vận của Mỹ-Việt. Lực lượng tấn công chia thành hai Đoàn. Đoàn 5 do Trung Tá Nguyễn Vạn chỉ huy chia làm hai mũi đánh từ phía nam vào khu hành chánh và MACV. Đoàn 6 do Trung Tá Nguyễn Trọng Dần chỉ huy cũng chia làm hai mũi đánh vào Thành Nội, chiếm cột cờ để kéo cờ và đồn Mang Cá. Đoàn 6 tập họp và xuất quân từ quận Hương Trà, trong khi Đòan 5 từ  thung lũng A Sao trong rặng Trường Sơn vượt sông Hương tại bến đò Đình Môn tiến vào phía nam Huế qua ngõ cầu Lim.
Mấy tháng trước khi tấn công quân đội cộng sản đã được huấn luyên kỹ thuật đánh trong thành phố và công an được lệnh chuẩn bị một danh sách quân cán chính Việt Nam Cộng Hòa trong thành phố sẽ bị giết khi chiếm Huế. Trong thời gian 26 ngày đánh nhau tại Huế, Giáp rút từ Khe Sanh đưa vào chiến trường Huế – Thừa Thiên thêm 3 trung đoàn nâng tổng số quân của chiến dịch Huế lên đến 20.000 quân.
Trong đêm 28/1 một tiểu đoàn đặc công đã đưa vũ khí lén lút vào thành phố và mặc thường phục trà trộn vào dân chúng (Theo “Cuộc Tổng Công Kích – Tổng Khởi Nghĩa 1968 – TCK/TKN” trang 228 của Khối Quân sử, Phòng 5/TTM). Do thỏa thuận Tết, gần một nửa quân lính Việt Nam Cộng Hòa nghỉ phép ăn Tết nên khi cộng sản tấn công lực lượng chống đỡ của Việt Nam Cộng Hòa rất yếu.Tuy nhiên nhờ một yếu tố tinh thần, đồn Mang Cá không bị cộng sản tràn ngập.
Trong đêm Giao thừa, Chuẩn tướng Ngô Quang Trưởng, Tư lệnh Sư đoàn I được tin cộng sản đánh vào một số thành phố duyên hải như Nha Trang và pháo kích Đà Nẵng. Sáng mồng Một ông ra lệnh cắm trại nhân viên cơ hữu, và đêm Mồng 1 Tết ông ngủ lại đồn. Sự hiện diện của tướng Trưởng đã làm cho nhân viên lên tinh thần và chống giữ không cho cộng sản tràn ngập. Cộng quân chỉ chiếm được bệnh viện nằm ngoài đồn chính và sau đó bị đẩy lui. Đại đội Thám báo cũng bám giữ được một nửa sân bay Tây Lộc .
Từ mồng 1 đến mồng 8 (30/1 – 6/2) cộng sản kêu gọi và chờ đợi nhân dân Huế nổi dậy tuyên bố không chấp nhận chính quyền Việt Nam Cộng Hòa và sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ. Nhưng điều này đã không xẩy ra. Ngọai trừ cán bộ cộng sản và một thiểu số nằm vùng, dân Huế nằm im trong nhà hoặc chạy trốn khi thấy bóng dáng cộng quân.

Song hành với sự kêu gọi quần chúng, công an tiếp tục chương trình tàn sát. Những người trong danh sách lập sẵn được gọi ra trình diện, cho về vài hôm để thuyết phục những người còn trốn tránh. Sau đó kêu đi học tập và giết hết trong đêm tối đơn giản bằng một viên đạn vào đầu và vùi thây trong những hầm tập thể tại sân trường trung học Gia Hội, Bãi Dâu và chùa Tăng Quang Tư. Kế hoạch đưa ra khỏi Huế để giết không thực hiện được do cuộc phản công và bao vây mặt tây nam thành phố của Sư Đòan kỵ binh không vận Hoa Kỳ.
Cuộc phản công của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và Hoa Kỳ bắt đầu ngày mồng 2. Đợt phản công đầu tiên phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa chịu nhiều tổn thất vì tưởng rằng cộng quân nhiều lắm là một hay hai tiểu đoàn trong thành phố. Tướng Ngô Quang Trưởng và tướng Foster LaHue và Bộ Tư Lệnh Việt Mỹ ở Sài gòn không ngờ lúc này cộng sản có gần 1 sư đoàn trong thành phố Huế.
Tướng Trưởng ra lệnh Tiểu Đoàn 2 Dù cùng với một Chi đoàn thiết giáp đang đóng ở làng Từ Hạ tiến về Thành Nội để giải tỏa áp lực vào bộ Tư Lệnh Sư Đoàn. Một Chi đoàn thiết giáp khác đóng ở An Cựu cũng được lệnh tiến vào thành phố. Chi đoàn này do đích thân Trung Tá Phan Hữu Chí (Thiết đoàn trưởng) chỉ huy và có hai sĩ quan thiết giáp tháp tùng, trong đó có Đại úy Trương Quang Thương chỉ huy một thiết giáp. Ngoài công tác giải tỏa thành phố Chi đòan này còn có nhiệm vụ cứu gia đình tướng Trưởng đang kẹt bên hữu ngạn.
Chi đoàn của Trung Tá Chí ra khỏi trại nhưng không tiến lên được vì hỏa lực của cộng quân. Trong khi đó tiểu đoàn Dù trên đường tiến về cửa An Hòa phải chật vật chiến đấu với nhiều tổn thất đến 3 giờ chiều ngày mồng 2, mới tiến sát bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 1.
Trong khi đó tướng LeHue gởi một đại đội Thủy quân Lục chiến do Đạị úy Gordon  Batcheller chỉ huy có trang bị 4 dàn súng đại liên 12 ly 7 từ Phú Bài theo quốc lộ 1 lên Huế. Đại úy Batcheller được lệnh tiến qua thành phố liên lạc với tiểu đoàn Việt Nam Cộng Hòa từ phiá Bắc tiến vào. Trên đường tiến quân đại úy Batcheller gặp đơn vị tiếp tế có 4 xe thiết giáp hộ tống của Trung Tá LaMontagne đang trên đường tiếp tế định kỳ cho sư Đoàn 3 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ ở vùng giới tuyến. Gần An Cựu hai đơn vị này gặp chi đoàn thiết giáp của Trung Tá Chí đang bị hỏa lực của cộng quân không tiến lên được. Ba đơn vị – hai Mỹ, một Việt – phối hợp sức mạnh dùng hỏa lực áp đảo băng qua cầu An Cựu tiến về MACV Huế .
Chi đòan của Trung Tá Chí dẫn đầu chọc thủng hỏa lực của cộng quân băng qua cánh đồng trống nối liền chợ An Cựu với Tiểu khu Thừa Thiên (bên cạnh MACV). Khi đến trước Ty Cảnh Sát thiết giáp của Trung Tá Chí bị bắn hạ, Trung Tá Chí tử thương. Hai xạ thủ trên thiết giáp của Đại Úy Thương cũng bị thương. Đại úy Thương lái thiết giáp chạy ra ngỏ nhà hàng Chaffanjon, ra đường Lê Lợi rồi chạy về Tiểu khu an tòan. Trên đường từ An Cựu tiến vào thành phố Đại úy Batcheller bị thương nặng. Được tin tướng LaHue gởi một tiểu đoàn do Trung tá Gravel chỉ huy từ Phú Bài lên tiếp viện. Đến 3 giờ chiều đơn vị của Gravel và LaMontagne tiến vào được MACV, sau khi đã cho tản thương đại úy Bacheller và các binh sĩ khác về Phú Bài.
Đến MACV Trung tá Gravel được lệnh tiến qua Thành Nội. Nhưng với tổn thất nặng nề ông rút về MACV.
Sau nỗ lực giải tỏa không thành và nhiều tổn thất này, tướng Hoàng Xuân Lãm Tư lệnh Quân khu 1 và tướng Cushman, Tư lệnh Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ vùng giới tuyến chia trách nhiệm. Hoa Kỳ giải tỏa khu hành chánh hữu ngạn. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa giải tỏa khu tả ngạn.

Đại tá Hughes chỉ huy trưởng Trung đòan 1 Thủy quân Lục chiến được giao trách nhiệm giải tỏa hữu ngạn Huế. Trong khi đó vào mồng 4 Tết, Sư đoàn Kỵ binh không vận Hoa Kỳ bắt đầu triển khai quân phong tỏa đường tiếp vận của cộng sản từ A Sao vào thành phố Huế.
Từ MACV ở đầu cầu Trường Tiền theo đường Lê Lợi lên đến cầu Ga chỉ dài chừng 2 km và có 11 khu phố (block), hai tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ của Dại Tá Hughes đã mất 11 ngày đánh chiếm từng khu vườn, từng căn nhà với tổn thất cao. Cộng quân biến mỗi khu phố thành một pháo đài và quyết bám trụ.
Đánh suốt 24 giờ trong ngày mồng 5 để chiếm lại Kho Bạc và nhà Bưu Điện. Ngày mồng 6 chiếm lại khu thể thao thành phố (Sport center), Bệnh viện Huế và Thư viện đại học. Sau 2 ngày cam go khác, mồng 8, một đại đội của đại úy Ron Christmas chiếm lại khu hành chánh Huế. Trong cuộc tiến quân Hoa Kỳ đã dùng thiết giáp bắn trực xạ vào các khu nhà cộng quân cố thủ. Đến ngày 11 Tết quân đội Hoa Kỳ kiểm soát sân vận động, nhà thờ Phú Cam và ngày 13 Tết Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ tiến đến cầu Ga, và 2 ngày sau vượt qua sông An cựu (sông An Cựu là sông đào cùng với sông Hương và quốc lộ 1 lập thành tam giác chính của phố hữu ngạn). Mục tiêu của Trung đoàn 1 Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ là bắt tay với các đơn vị của Sư đoàn Không vận đang bao vây và tảo thanh các đơn vị cộng quân ở ngoài. Đến ngày 16, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ kiểm soát trọn khu hữu ngạn sông Hương, và phải mất 10 ngày nữa mới tảo thanh hết các toán du kích lẻ tẻ còn lại. Tổn thất của Hoa Kỳ giải tỏa hữu ngạn gồm 88 tử thương và 320 bị thương. Cộng quân tử thương hơn 1000 người.
Theo phân nhiệm, ngày mồng 4 tướng Trưởng chuyển quân giải tỏa thành nội Huế. Ông điều động 3 tiểu đoàn Dù số 2, số 7 và số 9 và một chi đoàn thiết giáp. Một tiểu đoàn Dù khác từ Quảng Trị được trực thăng vận vào Mang Cá để đánh ra góc đông-bắc Thành Nội. Đến ngày mồng 5 quân Dù chiếm lại được góc thành An Hòa và một phần sân bay Tây Lộc. Nhưng trong ngày kế  tiếp quân Dù không tiến được bước nào trước sự cố thủ của quân Bắc việt vẫn được tiếp thêm người và vũ khí đạn được từ phía Tây qua cửa Chánh Tây.
Ngày mồng 9 Tướng Trưởng yêu cầu Hoa Kỳ giúp. Ngày 12 Tết tướng LaHue cho tiểu đoàn của Thiếu Tá Thompson dùng tàu hải quân đổ lên Bao Vinh vào Thành Nội bằng Cửa Hậu rồi tiến đánh ngược dọc theo tường thành Đông Bắc có cửa Đông Ba. Tiểu đoàn Thiếu tá Thompson tổn thất nặng và được tăng cường bởi 1 đại đội Thủy quân Lục chiến khác. Lúc này lệnh hạn chế hỏa lực đã được hủy bỏ nên quân đội Hoa Kỳ dùng máy bay ném bom, hải pháo, xe tăng, súng đại bác trực xạ để phá hủy các ụ phòng thủ của cộng quân trong bức thành đất.
Ngày 16 Tết, thời tiết quang đản hơn trên thành phố Huế, cuộc phản công giành lại Huế bắt đầu. Thành Nội được chia thành 6 khu (xem bản đồ)
Khu A, là khu an toàn năm cạnh đồn Mang Cá giữ Cửa Hậu làm cửa chuyển quân tiếp sức và quân dụng.
Khu B quân Dù đã tảo thanh, nhưng cộng quân vẫn giữ cửa Đông Ba

Khu C là khu có sân bay Tây Lộc do Trung đoàn 3 bộ của Trung Tá Phan Bá Hòa tảo thanh. Cộng quân vẫn còn bám cửa Chánh Tây.
Khu D nằm dưới khu B gíáp cửa Thượng Tứ và bức thành phía đông Đại Nội do một tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ của Thiếu Tá Thompson tảo thanh. Tiểu đòan nầy mạnh nhất trong các đơn vị tham chiến, gồm 1000 quân nhân và trang bị vũ khí nặng và được yểm trợ hỏa lực bằng máy bay, hải pháo và đại bác trực xạ .
Khu E là khu Đại Nội, mục tiêu cuối cùng của các mũi dùi chung quanh. Khu E do cộng quân kiếm soát cho đến phút chót.
Khu F là góc tây nam Thành Nội do Chiến đoàn đoàn A Thủy quân Lục chiến từ Sài gòn ra do Trung Tá Hoàng Thông chỉ huy có một Chi đoàn Thiết giáp yểm trợ hỏa lực. Chiến đoàn có Thiếu Tá  Phan Văn Thắng chỉ huy Tiểu đoàn 1 đánh phía đông sát thành Đại nội tiến chiếm Cửa Nhà Đồ, và Thiếu Tá Phạm Văn Nhã chỉ huy Tiểu đoàn 5 đánh phía Tây, chiếm Cửa Hữu tiến xuống bắt tay với Tiểu đoàn 1. Sau đó bắt tay với Tiểu đoàn Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ sau khi tiểu đoàn nàychiếm cửa Thượng Tứ. Rồi cùng hợp lực chiếm lại cột cờ.
Sau 10 ngày đánh nhau gay go trên từng đường phố, trong từng gò đất Thành Nội, sức kháng cự của cộng quân vào các ngày 25, 26 Tết suy giảm hẵn. Trước đó, vào ngày 23 Tết đưa ông Táo về trời Bộ Chỉ huy Chiến dịch của cộng quân đóng tại làng Lai Chữ đã bị Sư đòan Kỵ binh Hoa Kỳ đánh tan và các đường tiếp tế đều  bị cắt đứt. Ngày 25 Tết đoàn 6 cộng quân được lệnh rút lui.
Sáng tinh sương ngày 26 Tết quốc kỳ Việt Nam Cộng Hòa đã được một số binh sĩ thuộc đại đội thám báo kéo lên trước sự chứng kiến của các đơn vị Thủy quân Lục chiến Việt Nam và Hoa Kỳ.
Vài giờ đồng hồ sau , Đại đội Thám báo đích thân do đại úy Trần Kiêm Huê chỉ huy cùng 300 quân nhân thuộc Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 3, Sư đoàn 1 tiến chiếm Đại Nội. Không có một sự kháng cự nào, cộng quân đã rút lui.
Ngày 26 Tết, Thủy quân Lục chiến Hoa Kỳ từ cửa Thượng Tứ tiến ra đã làm chủ cầu Trường Tiền thiết lập sự liên lạc giữa hữu và tả ngạn sông Hương. Qua ngày 27 Tết những cuộc đánh nhau lẻ tẻ diễn ra khi các đơn vị Biệt động quân Việt Nam hành quân chiếm lại khu Gia Hội, chợ Đông Ba và hoàn toàn giải phóng Huế.
Cộng quân rút lui và tiếp tục thi hành lệnh tàn sát thực hiện chưa xong . Ngoài những người bị giết trong các ngày đầu, có thêm ít nhất một ngàn quân nhân, công chức, cảnh sát, đảng viên Việt Nam Quốc dân đảng, đảng Đại Việt bị giết vào những ngày sau khi cộng quân rút ra khỏi thành phố.
Huế được giải phóng. 40% nhà cửa bị sụp đổ do bom đạn. 116,000 người  trong số 140.000 dân thành phố Huế mất nhà cửa. Trong số 5,800 người chết có khoảng 3000 người do cộng sản tàn
Tổn thất binh sĩ kha cao cho một trận đánh 30 ngày. Quân đội Việt Nam Cộng Hòa chết 384 người, bị thương nặng nhẹ 1,800 người. Hoa Kỳ tổn thất 221 quân nhân (gồm 147 Thủy quân Lục chiến, 74 bộ binh) và 1364 binh sĩ bị thương (857 Thủy quân Lục chiến, 507 bộ binh). Tổn thất của cộng quân ước lượng 8000 người chết, 5000 trong nội thành, 3000 ngoài vòng đai Huế (theo The Tet Offensive by James H. Willbanks, trang 54).
Việc cộng sản giết hàng ngàn người trong trận Mậu Thân 1968 tại Huế được giải thích “cộng sản vốn tàn ác và sẵn sàng giết lầm hơn bỏ sót”. Về mặt lịch sử, sự giải thích này quá đơn giản. Lịch sử chứng tỏ rằng các chủ thuyết quá khích đều có thể đưa lại sự phóng tay và tàn độc, như Stalin, Hitler, Mao Trạch Đông đã giết hằng triệu người (nếu chỉ nói những vụ tàn sát thời cận đại).
Nhưng đối với cộng sản việc giết đối phương không có vũ khí trong tay là một hành động chính trị. Và nếu đặt trong khung chính trị vào thời điểm đó không có gì biện minh cho hành động tàn sát của cộng sản trong dịp Mậu Thân. Nếu cộng sản tính tóan sẽ có một cuộc nổi dậy của nhân dân miền Nam cộng sản sẽ không giết bừa bãi trong những ngày đầu tiên như vậy. Còn nếu tấn công toàn quốc nhắm làm nản lòng nhân dân Mỹ và thổi bùng ngọn lửa phản chiến tại Hoa Kỳ, cộng sản lại càng mua chuộc nhân dân bằng một bộ mặt hiền hòa chờ cơ hội
Sau này khi vụ tàn sát Mậu Thân trở thành một vết nhơ cho chính quyền Hà Nội, cộng sản đã bố trí và mua chuộc một số “nhà nghiên cứu” đưa ra những giả thuyết chạy tội cho cộng sản. Có thể kể: Thứ nhất là anh thợ chụp hình Griffiths, một ký giả chiến trường, năm 1971 viết rằng “không có vụ tàn sát Mậu Thân. Những người chết là do bom đạn của quân đội Hoa Kỳ” (xem “Battle for Hue: Tet 1968” by  Keith William Nolan 1983, Presido Press). Thứ hai là nhà báo Porter  D. Gareth, trong hai bài viết, “Vietnam: the blood argument”, 1969 và “The 1968 Hue massacre”, 1974 khẳng định chẳng có vụ tàn sát nào cả (xem The Tet Offensive by  James Willbanks trang 243). Những luận  điệu chạy tội đó không đánh lừa được dư luận thế giới. Trong những tháng cuối cùng của năm Mậu Thân 1968, Huế trắng xóa khăn tang đi đào mồ tập thể tìm thân nhân do cộng sản lùa đi trong khi chiếm Huế hay khi rút lui đã là những bằng chứng quá rõ ràng trước lịch sử.
Vẫn còn một câu hỏi cần trả lời: Tại sao cộng sản Việt Nam thực hiện vụ tàn sát Mậu Thân?  Nguyên nhân sâu xa có thể tìm thấy qua quá trình đi làm “cách mạng” của ông Võ Nguyên Giáp và món nợ máu người Pháp nợ gia đình ông.
Ông Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911 tại Quảng Bình, năm nay 100 tuổi, con bà Nguyễn Thị Kiên và ông Võ Quang Nghiêm, một nhà nho từng theo phong trào Cần Vương chống Pháp. Ông là con thứ 6 trong một gia đình có 8 người con. Năm 12 tuổi ông được gởi vào Huế tòng học tại trường Quốc Học Huế .
Thời gian học tại Huế ông Giáp theo phong trào chống Pháp và thường đến thăm viếng cụ Phan bội Châu đang bị Pháp giam lỏng tại Bến Ngự. Sau một cuộc biểu tình chống một hành động độc tài của ông Hiệu trưởng người Pháp ông Giáp bị đuổi khỏi trường. Năm 1927 ông Giáp gia nhập đảng Tân Việt, một đảng có khuynh hướng Mác xít .
Năm 1930 Giáp bị công an Pháp bắt, và bị giam chung tại Huế với ông Đặng Thai Mại và Nguyễn Thị Quang Thái, 14 tuổi, em ruột Nguyễn Thị Minh Khai, một đảng viên nòng cốt của đảng cộng sản Đông Dương. Bị kết án và cùng bị giam tại nhà tù Lao Bão, Giáp và cô Quang Thái yêu nhau. Hai năm sau Giáp và Quang Thái được Pháp trả tự do. Quang Thái trở về quê ở Vinh, sau đó Giáp cũng bỏ Huế ra Vinh để sống gần gia đình Quang Thái. Năm 1933 khi ông Mại ra Hà Nội dạy học, Giáp theo ông Mại ra Bắc.
Tại Hà Nội, Trường Chinh và Phạm Văn Đồng thuyết phục Giáp gia nhập đảng cộng sản. Trở thành đảng viên năm 1937, ông Giáp tạo uy tín rất nhanh trong đảng cộng sản nhờ căn bản học vấn và khả năng làm việc.

Năm 1939 ông Giáp lập gia đình với bà Quang Thái. Năm sau ông theo Phạm Văn Đồng qua Trung quốc gặp lãnh tụ Hồ Chí Minh. Thời gian ông còn ở Trung quốc, Pháp đã bắt và xử bắn bà Minh Khai tại Sài gòn năm 1941. Quang Thái bị Pháp bắt tại Vinh một tháng sau đó đưa ra giam và chết tại nhà lao Hỏa Lò ở Hà Nội vì tra tấn. Trường Chinh biết tin dữ nhưng dấu không cho Giáp biết.
Lưu lạc 6 năm, năm 1945 Gíáp theo chân Hồ Chí Minh trở về nắm chính quyền tại Hà Nội. Năm sau (1946) khi ông Giáp trở về Quảng Bình thăm cha ông Nghiêm không cho ông gặp cho rằng ông theo chủ nghĩa cộng sản là một chọn lựa sai lầm. Nhưng ông ủng hộ Giáp trong nổ lực chống Pháp giành độc lâp.
Hiệp định Hạ Long tháng 2/1946 cho phép Pháp đưa quân đến trú đóng tại một số thành phố tại Việt Nam trong đó có Sài gòn, Huế, Đà Nẳng, Hải Phòng, Hà nội. Tháng 12/1946 Hồ Chí Minh phát động cuộc tổng khởi nghĩa để đuổi quân Pháp ra khỏi Việt Nam. Pháp đưa quân chiếm tất cả các thành phố chính và chuẩn bị tái thiết lập chế độ đô hộ Việt Nam với một dàn chính quyền quốc gia do cựu hòang Bảo Đại làm bình phong.

Giữa năm 1947 Pháp chiếm lại Huế và Quảng Bình. Cán bộ cộng sản bố trí đưa bố mẹ và con gái ông Giáp (Võ Thị Hồng Anh, lúc đó 7 tuổi) ra vùng kháng chiến. Nhưng ông Nghiêm không chịu đi. Tháng 8/1947 Pháp bắt ông Nghiêm đưa vào giam tại lao Thừa Thiên. Ông bị tra tấn buộc khai chỗ ở của ông Giáp trên Việt Bắc và ép ông lên đài phát thanh kêu gọi Giáp bỏ cuộc đấu tranh chống Pháp. Pháp đã dùng đến phương pháp cực kỳ dã man thời trung cổ như cột ông Nghiêm vào xe kéo lê trong sân nhà tù. Ông Nghiêm không thể biết Giáp ở đâu. Còn lời kêu gọi trên đài không có tác dụng gì.
Khi ông Nghiêm quá yếu Pháp đưa ông vào bệnh viện Huế và mấy tháng sau ông chết tại đó như một người vô thừa nhận .Ông được chôn tại một nghĩa địa hoang dưới chân núi Ngự Bình. Sau năm 1975, do yêu cầu của ông Giáp, chính quyền tỉnh Quảng Bình đã lập ủy ban tìm mộ ông Nghiêm, cải táng đưa về chôn tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. (theo Google – Wikipedia)
Sau này trong thời gian thương thuyết với ông Giáp người Pháp cảm thấy áy náy đã đối đãi tàn tệ với gia đình ông giải thích rằng những người Việt trong bộ  máy cảnh sát làm việc đó chứ không phải người Pháp. Năm 1982 sử gia Will Brownell, giám đốc chương trình nghiên cứu Việt Nam thuộc đại học Columbia ở Hoa Kỳ phỏng vấn tướng Raoul Salan và hỏi ông về sự xác thực của việc bà Quang Thái vợ ông Giáp bị tra tấn chết tại nhà lao Hỏa Lò Hà Nội năm 1941 tướng Salan xác nhận điều đó có thật và tướng Salan ám chỉ rằng những sự tra tấn như vậy không do chính tay người Pháp làm (“Victory at any cost”, by Cecil B. Currey, nhà xuất bản Brassey’s Inc, 1997, trang 45)
Người Pháp chối bỏ trách nhiệm đã nhúng tay vào một việc giết người dơ bẩn không xứng đáng với một dân tộc có văn hóa, nhưng ông Giáp không quên thù cha.
Năm 1967, khi được Đảng giao trách nhiệm vạch kế hoạch tổng tấn công, có thể ông Gíap rắp tâm trả thù. Đối với người cộng sản Việt Nam, chế độ của người Pháp chuyển sang chính quyền ông Bảo Đại, rồi Việt Nam Cộng Hòa cũng chỉ là một, và mối thù nhà do người Pháp gây ra ông Giáp đổ lên đầu viên chức chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, nhất là viên chức thành phố Huế.
Mối thù 21 năm (1947 – 1968) đã được ông Giáp tính toán chi ly. Lấy ý của ông Giáp từ một văn kiện trung ương các cấp tỉnh đã chỉ thị cấp huyện, xã, phường chuẩn bị tổng tấn công ký ngày 1/11/1967. Chỉ thị có đoạn viết: “…Để chuẩn bị cuộc nổi dậy, các anh phải tận diệt bộ máy cai trị của địch …. Các anh cần lập danh sách của chúng và chỗ ở rồi dùng mọi phương tiện kể cả các toán đặc công cảm tử giết cho hết ….” (tài liệu lưu trữ tại Vietnam Archive, đại học Tech University, Lubock, Texas, theo “The Tet Offensive, a concise history” của James H. Willbanks trang 195, 196).

Chỉ thị tàn sát đã được thi hành một cách quy mô tại Huế. Một số vùng như Bến Tre, cộng quân kiểm soát khá lâu vẫn không có danh sách và tàn sát như ở Huế.
Thành phố Huế vốn là kinh đô của triều Nguyễn cho đến khi người Pháp chiếm Việt Nam vào cuối thế kỷ 19. Trước năm 1945 Huế vẫn còn là thủ phủ của Nam triều một cách hình thức. Nhưng chính yếu là nơi tọa lạc tòa khâm sứ Pháp nắm quyền cai trị Trung kỳ qua các tòa công sứ ở mỗi tỉnh và điều hành công việc hành chánh qua các vị tổng đốc, tuần vũ, tri phủ và tri huyện được đào tạo qua hệ thống giáo dục của Pháp. Sau cuộc cách mạng 19/8/1945 cũng như sau khi Pháp tái chiếm Huế năm 1947 Huế được tổ chức hành chánh giống như các tỉnh khác tòan quốc (trừ Nam kỳ). Sau Hiệp định Geneve, và sau khi Việt Nam Cộng Hòa ra đời Huế có tòa cố vấn do ông Ngô Đình Cẩn, em ruột của tổng thống Ngô Đình Diệm giữ chức cố vấn miền Trung.
Sau cuộc đảo chánh năm 1963, Huế là trung tâm của phong trào đòi chấm dứt chiến tranh, đòi dân chủ hóa đất nước và các cải tổ xã hội khác. Phật giáo là lực lượng đòi hỏi chính. Do Phật giáo thiếu nhân sự lãnh đạo trước một phong trào quần chúng bung ra ngoài tầm tay, cộng sản đã đột nhập và thao túng phong trào đòi chấm dứt chế độ quân nhân, thành lập đoàn sinh viên quyết tử để chống lại chính quyền trung ương tại Sài gòn. Tình hình Huế ổn định sau khi ban hành Hiến pháp Đệ nhị Cộng hòa và Huế trở thành thành phố bình lặng nhất tại miền Trung.
Trong khi cuộc chiến tranh xâm lăng miền nam của cộng sản Hà Nội lên cao điểm với sự uy hiếp của quân đội cộng sản tại miền giới tuyến và Khe Sanh, Huế vẫn là một thành phố an bình với sông Hương, núi Ngự và sinh hoạt văn hoá sinh động của đại học Huế và trường Quốc Học.
Không ai có thể tưởng tượng thảm cảnh giết chóc sẽ xẩy ra khi tướng Võ Nguyên Giáp đặt Huế trong vòng nhắm trả thù cha khi ông hoạch định kế hoạch tổng tấn công. Kết quả là 3000 người bị giết do một chế độ bất nhân tròng tréo với oan nghiệt của lịch sử.
Nếu việc tra tấn đưa đến cái chết của thân phụ của Giáp là một vết nhơ trong lịch sử xâm lăng của nước Pháp thì vụ trả thù trong vụ Mậu thân cũng là một tội ác không dễ xóa nhòa trong lịch sử Việt Nam.
Trần Bình Nam
Dec. 1, 2011
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com

© Đàn Chim Việt
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/47403/nhan-t%E1%BA%BFt-nham-thin-nh%E1%BB%9B-l%E1%BA%A1i-hai-m%C6%B0%C6%A1i-sau-ngay-tang-th%C6%B0%C6%A1ng-c%E1%BB%A7a-hu%E1%BA%BF/2011/12
======================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001