Bút ký của Từ Khanh
11. Kiếp sau vẫn làm người Miến Điện
Tôi ở một nhà khách tươm tất sạch sẽ thuộc khu Nyaung U, cách Bagan Cổ sáu cây số. Đây là nơi ở sang nhất của tôi kể từ khi đến Miến Điện. Nhà khách có hai tầng, tầng trệt có vài phòng trông ra một khu sân nhỏ, có ghế ngồi hóng mát. Phòng rộng, nệm cứng, có cửa sổ, máy lạnh, nước nóng nước lạnh đầy đủ, lại có cả một cái quạt trần quay kèn kẹt, trong suốt bốn ngày ở đây không lúc nào bị cúp điện. Mùa mưa nên chỉ có vài phòng có khách du lịch. Sân sau nhà khách để vài chục chiếc xe đạp, cứ chọn một cái đạp đi không cần hỏi ai cả, khi nào trả thì đưa cho nhân viên 1.000 kyat. Thật là một tâm trạng thoải mái.Một buổi chiều tôi ra phòng tiếp tân ngồi đọc báo. Chủ nhà khách là một phụ nữ đứng tuổi, đeo kính trắng, khi không phải tiếp khách bà thường đọc sách, để mặc cho các nhân viên làm việc. Chỉ khi nào đổi tiền thì bà mới tiếp chuyện, nói năng nhã nhặn và lễ độ. Chợt một người đàn ông Tây phương từ phòng trong bước ra quầy tiếp tân. Ông ta mặc sọc quần ngắn, áo sơ mi hở cổ, tuy đã trọng tuổi nhưng dáng điệu nhanh nhẹn và hơi xấc xược. Ông ta hất hàm nói với một nhân viên nam:
- Tao đi tìm chỗ bơi đây.
Anh tiếp tân cười cười, chỉ đường cho ông già ra bờ sông. Người Miến Điện thường mỉm cười im lặng khi nói chuyện. Nhưng ông ta nói, cố tính cho tất cả mọi người trong phòng đều nghe:
- Sông ở đây dơ bẩn quá, làm sao tao bơi được.
Cái miệng ưa kiếm chuyện của tôi đã nhúc nhích ngứa ngáy. Hai nhân viên tiếp tân đứng gần ông cười cười, bà chủ khẽ ngước mắt liếc ông già Tây rồi lại tiếp tục cúi xuống đọc sách. Ông già nói tiếp, giọng lớn hơn, vừa nói vừa quét mắt khắp phòng:
- Tao đến từ Âu Châu, chỗ nào sông cũng sạch, không như ở đây.
Đột nhiên ông già nhìn tôi soi mói, rồi hất hàm:
- Ê you, mày đến từ xứ nào?
Lão không chờ tôi trả lời, hỏi tiếp luôn:
- Nước mày có sông không?
Tôi cười nhạt:
- Vậy cho tôi biết có nước nào không có sông đã!
Lão hơi khựng, tôi hỏi xách mé:
- Kế tiếp cho tôi biết sông nào ở Âu Châu của ông không có cứt chó
và rác rưởi.
Bà chủ ngước nhìn, ra dấu bảo tôi đừng gây sự. Tôi càng hăng hái chửi tiếp:
- Nước tôi và nước này sông nào cũng có cứt cả, chẳng vì thế mà các nước Âu Châu của ông mới thi nhau đến tắm rửa cả trăm năm đấy.
Bà chủ nhà khách bật cười nhỏ. Lão đỏ mặt, sủa lại:
- Tụi tao đi khai hóa.
Tôi quạt:
- Khai mỏ chứ khai hóa cái gì.
Lão ngần ngừ muốn rút, tôi dứt điểm:
- Tốt nhất là ông không nên tắm sông ở đây, nếu không thì hãy cẩn thận kẻo thành con tôm toàn là đồ dơ ở trên đầu.
Lão gầm gừ bước ra cửa dông thẳng.
Tôi phải thú nhận là mình cũng sân si như lão già Âu Châu kia, nhưng vẫn có cái cảm giác ‘đã đời’. Thỉnh thoảng giang hồ, tôi vẫn gặp vài người phương Tây có não trạng khinh thường châu Á như lão già này. Ở Yangon, tôi gặp một phụ nữ, nghe giọng nói thì hình như là người Úc. Bà này cũng ở chung nhà khách, một buổi sáng đi đâu về bà ta quang quác kể lại việc mua bán bàn ghế gì đó cho nhân viên khách sạn nghe. Bà kể rằng sau khi đưa ra giá rồi, bà hỏi cô bán hàng có đồng ý không nhưng cô ta cứ im lặng, hỏi mấy lần cô ấy vẫn im lặng. Thế rồi bà hỏi nhân viên nhà khách:
- Trong văn hóa Miến Điện, im lặng nghĩa là sao? Ý nghĩa gì không mà kỳ vậy.
Tôi ngồi nghe lỏm, tính bỏ qua nhưng nghe cách nói của bà ta, tôi biết ngay bà này muốn chứng tỏ ta đây có kiến thức và nhạy cảm về văn hóa khi đến một nước khác. Các nhân viên khách sạn không trả lời. Họ cười cười ngó bâng quơ. Bà ta đảo mắt nhìn quanh và nghiệp chướng thay, ánh mắt bà lại dừng nơi tôi, ra dấu hỏi ý kiến. Tôi chọt miệng:
- Người ta im lặng tức muốn bảo bà cũng im đi. Khi đến thành La Mã thì làm theo người La Mã mà, có vậy mà bà không hiểu sao.
Tôi nói xong thấy mình thật khiếm nhã khi nói với một phụ nữ như vậy, dù là phụ nữ xấu và vô duyên. Tôi bỏ ra ngoài, tự dặn mình không nên sân si những chuyện bên đường. Tôi cũng tự phân tích thái độ ăn thua đủ của mình mỗi khi đụng độ những chuyện lẩm cẩm như vậy với người phương Tây. Không biết có phải do xuất phát từ tâm trạng mặc cảm của một con dân nước nhỏ mang nặng ‘nỗi buồn nhược tiểu’ không. Có lẽ là vậy, nhưng biết làm sao vì kiếp này, như một bài hát xưa có lời, ‘tôi sinh ra làm dân nhược tiểu’.
Nhưng có một điều tôi biết chắc, là lão già phương Tây do sự kiêu ngạo của mình nên không muốn biết những suy nghiệm của người Miến Điện. Một tác giả và nhà báo kỳ cựu người Anh, James George Scott, viết văn ký tên Shway Yoe, đã sống ở miền Bắc Việt Nam trong năm 1884 và có viết một cuốn sách tựa là France and Tongking (Nước Pháp và Bắc Kỳ). Nhưng phần lớn ông sống, dạy học, làm quan và làm báo ở Miến Điện từ năm 1875 cho đến năm 1910, từng phỏng vấn vị vua cuối cùng của Miến Điện là Thibaw (kế vị vua Mindon), nghiên cứu phong tục tập quán Miến Điện rất kỹ. Các tác phẩm của ông về Miến Điện khá nhiều, nổi tiếng nhất là Burma as It Was, as It Is, as It Will Be (1886), Burma a Hanbook of Practical Information (1906), và The Burma (1909), chưa kể năm bộ sách Gazetteeer of Upper Burma and the Shan States mà ông là tác giả chính. Trong cuốn The Burman, Scott viết: ‘Lời chúc tốt lành nhất mà một người Miến Điện muốn gửi tới một người Anh là, vào một kiếp nào đó trong tương lại, nhờ tạo nhiều nghiệp tốt, anh sẽ được đầu thai làm một Phật tử, và tốt hơn nữa, là một người Miến Điện.’
Người Miến Điện chấp nhận và kiên nhẫn với hiện tại vì tin rằng đó là nghiệp quả, cho nên sống lành bây giờ để tương lai tốt đẹp hơn. Họ mỉm cười với hiện tại, nụ cười yên lặng và bâng quơ. Đó là một khía cạnh trong nhân sinh quan Phật giáo, nhưng họ áp dụng thụ động quá nên không thấy mặt tích cực của thuyết nhân quả. Tương lai chỉ tốt đẹp hơn nếu tích cực cải đổi hiện tại, chứ không phải buông xuôi và chấp nhận. Không phải họ không hiểu như vậy, nhưng dường như họ chỉ tập trung ‘đầu tư’ cho tương lai vào các hình thức tu tập nhiều hơn là ý nghĩa của sự tu tập. Điều này không khó hiểu vì hình thức bao giờ cũng dễ thực hiện hơn.
Người đàn ông Miến Điện nào, nếu không xuất gia, đều phải vào chùa sống một thời gian dài hay ngắn tùy tâm nguyện và hoàn cảnh. ‘Vào chùa tu’ trở thành một điều kiện để thành nhân. Đó là một ứng dụng tốt vì ít nhất, mỗi người biết được thế nào là lành hay dữ, nói theo ngôn ngữ Phật giáo thì đã cấy một mầm tốt để tùy duyên mà nẩy nở. Nhưng họ áp dụng điều này một cách quá máy móc nên gây nhiều hiện tượng xấu đối với hình ảnh tu sĩ Phật giáo. Tôi đã thấy các thanh niên cạo đầu, mặc áo nâu sòng, đi hàng năm hàng ba ở Mandalay xuống phố đêm, ngồi lựa mua những băng DVD bạo động, tìm phim Hollywood dành cho người lớn. Họ không phải tu sĩ xuất gia, họ là những thanh niên đến tuổi vào chùa làm tu sĩ một thời gian trước khi lập gia đình. Tuy nhiên cung cách của họ làm phai vẻ đẹp của màu áo tu sĩ. Tương tự, ở cố đô Luang Prabang của Lào cũng thường xuyên có các hình ảnh như vậy. Du khách ghé Luang Prabang luôn trầm trồ hình ảnh từng đoàn tu sĩ mặc áo vàng, từ rất sớm, đi thành đoàn trên phố, ôm bình bát khất thực, bên lề đường có người quỳ sẵn chờ cúng dường thức ăn. Quả là một hình ảnh đẹp (để ghi ảnh). Các tăng đi thành hàng khi trời còn tờ mờ sáng, một chút sương đêm còn sót lại. Nhưng nhìn kỹ hơn thì không thấy đẹp lắm. Khất thực là một phương tiện để tu, bước đi chậm rãi đoan nghiêm, mắt không nhìn hai bên, ngó xuống đất trước mặt, khi có người dâng thức ăn thì sẽ niệm kinh hồi hướng cho kẻ cúng dường. Mỗi bước chân đi là một hơi thở an lạc, không vui không buồn, tỉnh thức, mỗi bước chân là một hạnh phúc, không cần tới, mà tới đâu khi đích là an lạc, mà an lạc đã ở trong từng bước chân qua.
Hình ảnh của nhiều sư sãi ở Luang Prabang không còn như thế. Đã nhiều sáng sớm tôi thấy họ đi tung tăng, nhanh nhẹn, tôi phải vừa đi vừa chạy theo mới bắt kịp, có người sau khi bình bát đã đầy thực phẩm, còn xách tòn teng một hai cái bao ni-lông đựng đầy thức ăn, ngó nghiêng liếc dọc, mau mau về chùa. Một trong ý nghĩa cao đẹp của khất thực là tạo cơ hội cho người cúng dường làm việc thiện, cho người khất thực buông xả. Dường như ý nghĩa ấy chỉ còn lại hình thức. Mà không chỉ có khất thực, một số hiện tượng khác cho thấy Phật giáo đang dần trở thành một hình thức cúng kiến. Có một lần vào ngôi chùa lớn ở Vientiane (thủ đô Lào), tôi thấy ở một góc sân có nhiều tượng Phật đặt xung quanh một cây bồ đề. Phật tử đến cúng để xôi và trái cây dưới đất, đốt nhang, nhưng sợ không chắc ăn, còn trét xôi lên miệng tượng Phật, qua vài giờ, ruồi bay đậu tới tấp lên xôi khô, không còn gì là sự đoan nghiêm hay ý nghĩa của biểu tượng cúng dường. Đúng là hiện tượng của Mạt Pháp. Nhưng không nên hiểu Mạt Pháp là giáo pháp suy vi hay Pháp đã lên tới ngọn. Giáo pháp là chân lý nên không bao giờ suy đồi. Mạt Pháp chính là sự suy vi của con người do lười biếng và dễ dãi với chính mình. Thiên đường vẫn còn đó. Niết Bàn vẫn còn nguyên. Nhưng con người đã suy yếu nên không đến gần được. Mạt Pháp không ở riêng Lào hay Miến Điện mà ở khắp nơi. Việc in ấn sách hay video về Phật giáo bừa bãi cốt để lấy tiếng cũng là một hiện tượng Mạt Pháp. Một cuốn kinh nhật tụng, in trên giấy xấu với mục đích đơn sơ là để dễ phổ biến cho nhiều người đọc tụng: đó là chính pháp. Nhưng khi biến cuốn kinh nhật tụng hàng ngày thân thuộc ấy thành một cuốn sách in ấn đẹp đẽ, tốn nhiều tiền hơn, làm hoa mắt người xem, thì đó là biểu tượng của Mạt Pháp. Thà để số tiền in sách đẹp, bìa cứng ấy làm những chuyện lợi ích khác.
Người Miến Điện biết ‘an bần lạc đạo’, biết mỉm cười với hiện tại trắc trở, bao dung với những người không hiểu họ. Có một câu chuyện minh họa cho bản chất hoạt kê và hồn nhiên của người Miến Điện là, khi căn nhà của họ bị cháy tan, thì thay vì khóc lóc đau khổ, ngày hôm sau gia chủ và hàng xóm cùng kéo nhau đánh chén ngay trên đống tro tàn của căn nhà bị cháy. Căn nhà bị cháy là do nghiệp quả, không có gì phải đau khổ tiếc nuối. Tôi không chắc là trong thực tế khổ chủ nào bị cháy nhà cũng hành động như thế, nhưng các tiếp xúc với người Miến Điện cho thấy bản tính của họ đúng là đậm chất hài hước hồn nhiên. Từ người xà-ích cho đến bác xe ôm, một cậu nhỏ chạy bàn hay người bán tranh, tất cả đều cố làm vui lòng người đối diện. Họ không muốn làm phật lòng ai, tránh tranh chấp. Dù thế nhưng sao trên các gương mặt âm thầm ấy luôn lấp lánh nét buồn trong ánh mắt.
Tuy không muốn nhận lời chúc của họ là sẽ thành một Phật tử Miến Điện vào kiếp sau, nhưng tôi phải thú nhận là đã học được rất nhiều bài học quý giá từ cách thế sống của một dân tộc dịu dàng và khiêm tốn.
12. Núi Popa cô độc thần nat
Bà chủ nhà khách khuyên tôi nên đến núi Popa cách trung tâm Bagan khoảng 50 cây số về hướng đông-nam. Đây là ngọn núi lửa đã tắt từ 250.000 năm trước, thờ tất cả thần linh của Miến Điện, gồm 37 vị, từ hơn một ngàn năm nay. Popa, gốc từ tiếng Pali, có nghĩa là hoa, nên núi Popa còn gọi là Hoa Sơn. Do nằm đơn độc giữa trung tâm Miến Điện nên dân chúng tin Hoa Sơn là biểu tượng của núi Tu Di, trung tâm của vũ trụ và nhân loại.Bà chủ tốt bụng hỏi tôi muốn đi taxi hay xe ôm. Taxi thì 20 đô, xe ôm chỉ mất 15 đô. Tôi chọn xe ôm. Bà lập tức ra đường kêu một bác xà ích đánh xe đưa tôi ra bờ sông đến nhà một anh xe ôm nào đó. Bác xà ích vui vẻ đánh xe ra bờ sông chỗ bến phà hôm tôi tới, con ngựa chạy men theo bờ sông đầy cát trắng tưởng như không vững nhưng rất thiện nghệ, bác quày tới quày lui chỗ mép sông để tìm anh xa ôm nào đó mà cả làng ai cũng biết. Bác chạy xe sát mép nước hỏi một người lái đò trên sông, rồi chạy đến một ngôi nhà lá theo lời người lái đò chỉ, người trong nhà lá chỉ qua một xóm khác, quành tới quanh lui một hồi mới tìm ra anh xe ôm đang ngồi đấu láo trong một quán cốc ven đường. Tôi xuống xe trả tiền nhưng bác xà ích khoát tay không lấy, đánh ngựa ra bờ sông kiếm khách.
Anh xe ôm đen rám như trái bắp nướng, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Tôi nhìn đồng hồ đã hơn 9 giờ sáng, hẹn anh sớm mai 6 lại đi Popa chứ bây giờ trễ quá. Anh vui vẻ chở tôi về lại nhà khách.
Sáng hôm sau, đúng giờ, tôi gọn gàng ba lô thót lên yên sau chiếc xe máy. Anh xe ôm mặc áo thun ba lỗ, đầu trần, phóng vù vù trên con đường nhỏ. Ra khỏi Nyaung U chừng một cây số, con đường rộng hơn, vạch ngăn cách là hàng cây giữa đường. Không có một chiếc xe nào trên đường quê, không khí thơm lừng mùi cây cỏ, mùi đất màu nâu hồng tải dưới những cụm cây thốt nốt cao ngất ngưởng lặng im trong sương sớm bình minh, những cánh đồng hướng dương vàng mộng lắt lay, vài căn nhà tre thưa thớt bên đường. Cảnh trí như ở một thời nào không thực.
Đường đi càng lúc càng dâng cao nhưng không gắt. Núi Popa cao trên 1.500 mét so với mặt nước biển, nhưng do nằm trên cao nguyên cao hơn 500 mét nên lên gần tới nơi, chiều cao ngọn núi đã bớt đi một phần ba. Tuy nhiên không phải là độ cao mà chính các huyền thoại liên quan đến Popa khiến nó trở thành một điểm hành hương của rất nhiều người Miến Điện.
Trước khi Phật giáo phát triển mạnh ở Miến Điện vào thế kỷ thứ 10 và 11, người bản địa thờ các vị thần linh tùy theo địa lý và hoàn cảnh dân cư . Điều này không lạ vì dân tộc nào cũng có một tín ngưỡng riêng trước khi các tôn giáo lớn ở nước khác du nhập vào. Nói một cách tương đối (vì Miến Điện có nhiều sắc dân và có dân tộc không thờ cúng thần linh như người Kachin), người Miến Điện tin tưởng thần linh và thờ cúng một thế giới vô hình nhưng gần gũi họ. Đất có thổ địa, nhà có thần gác cửa, núi có sơn thần, sông có hà bá, cổ thụ có thần cây, rừng, suối hay thác cũng đều có linh thần, làng có thần làng (Thành hoàng). Họ gọi ‘chư vị’ này là nat. Có thể hiểu nat là thần linh gần gũi với con người nhất, nat có thể dữ hay hiền, họ có mặt khắp nơi, cư ngụ ở bất cứ nơi nào độc đáo và cô độc như một tảng đá lớn bơ vơ trong rừng rậm, hay trụ trên một cổ thụ chơ vơ giữa triền sông. Nat có thể do vua phong (thần), một người bị chết oan, một người có công vừa khuất. Mỗi vị nat đều có một huyền thoại, tựa như chuyện tích Ông Táo Việt Nam. Tín ngưỡng dân gian của người Miến Điện không lạ, nhưng tôi có cảm tưởng họ thờ cúng thần linh kỹ lưỡng, tín tâm mạnh, thể hiện qua nhiều lễ hội linh đình tổ chức quanh năm để kỷ niệm các vị nat. Những lễ hội nat, thường linh đình và kéo dài nhiều ngày, cho thấy phần nào nhân sinh quan của người Miến Điện. Hôm tôi sắp rời Mandalay, bác xe ôm tình nguyện chở đi xem một lễ hội đang đang diễn ra tại làng Taungbyon cách Mandalay khoảng 20 cây số về hướng bắc để tưởng niệm hai vị thần làng, theo truyền thuyết là hai anh em ruột, tên là Shwe Phyin Gyi và Shwe Phyin Nghe. Lễ hội này kéo dài trong tám ngày đêm liên tục, đặc biệt dành cho người đồng tính luyến ái nam. Đây là lễ hội đồng tính nam lớn nhất châu Á, nhiều nhà nghiên cứu Miến Điện còn cho rằng đây là lễ hội đồng tính nam đầu tiên của nhân loại. Dân Miến Điện khắp nước, và hội viên các câu lạc bộ đồng tính nam ở Thái Lan, tham dự lễ hội rất đông. Cửa hàng ăn uống, lều nhạc, nhảy múa diễn ra suốt ngày đêm, những người đồng tính nam mặc trang phục sặc sỡ, đánh phấn thoa son, họ nhảy nhót và cúng tiền hay thực phẩm cho những người lên đồng mà người ta tin là do hai vị nat nhập xác. Bác xe ôm nói người đồng tính thành tâm cúng dường để xin kiếp sau được làm người nam hoặc nữ chứ không nửa nọ nửa kia. Ở một đất nước mà nhiều người cho là lạc hậu và kém văn minh, lại có một lễ hội tầm quốc gia dành riêng cho người đồng tính, đủ thấy người Miến Điện khoáng đạt và hiểu biết về kiếp người hơn nhiều dân tộc tự cho mình có văn hiến.
Núi Popa là điểm duy nhất ở Miến Điện thờ các linh thần, mỗi vị đều có lai lịch gay cấn và đầy màu sắc. Nổi bật nhất là câu chuyện hai chị em ruột nat. Vào triều đại Tagaung có một người thợ rèn rất giỏi. Ông có hai con một gái một trai. Do danh tiếng quá lừng lẫy của ông nên vua sợ, tìm cách kết giao với gia đình người thợ rèn, lập người chị làm chánh cung để tìm cách hãm hại gia đình người thợ rèn. Vua nhờ người chị cho vời cậu em vào triều để phong tước, nhưng khi người em vào thì vua ra lịnh cột cậu vào gốc cây sứ trong vườn thượng uyển để thiêu sống. Người chị nghe tiếng kêu cứu của em chạy ra thì lửa đã bốc cao. Bà nhảy vào lửa cứu em, cả hai chị em đều chết cháy. Khi binh lính thu dọn hài cốt thì lạ thay đầu của hai người còn nguyên. Họ trở thành thần nat cư ngụ ngay dưới gốc cây mà họ bị thiêu sống. Họ nguyền ai dựa vào gốc cây hay đứng trong bóng râm của cây sứ này đều phải chết. Nhà vua sợ hãi, ông ra lịnh bứng gốc cây ném xuống sông Voi. Thân cây trôi xuống tấp vào Bagan. Lúc ấy vua Thinligyaung đang trị vì ở đó. Tuy thân cây đã rời xa chỗ cũ nhưng lời nguyền của hai chị em vẫn còn hiệu lực, hễ ai đụng phải thân cây đều phải chết. Hồn hai chị em còn xuất hiện trong hoàng cung để khóc kể cho vua nghe nỗi oan ức của họ. Vua Thinligyaung sợ hãi, cho thiết lập một ngôi đền để thờ hai chị em, rồi ban chiếu chỉ tổ chức lễ hội cúng hai chị em nat hàng năm vào tháng Sáu thật trọng thể. Từ đó hai chị em mới không phá phách trả thù. Khi kinh đô Miến Điện dời về Amarapura (cách Mandalay 11 cây số) từ năm 1837 đến 1846, vua Tharrawaddi cho đúc hai cái đầu bằng vàng và làm lễ rước lên núi Popa thờ phụng. Sau khi quân Anh chiếm Miến Điện, hai cái đầu bằng vàng lại bị dời xuống Bagan, và sau đó đem đi đâu mất biệt.
Những câu chuyện dân gian xung quanh các vị thần linh khiến Popa có một sức hút mãnh liệt đối với người bản địa. Lúc anh xe ôm dừng xe trong một quán nhỏ dưới chân núi, tôi thấy cảnh người địa phương lên xuống núi tấp nập, hàng quán đông người qua lại, dưới đất nhiều con khỉ già khỉ nhỏ chạy nhảy nghênh ngang chung đụng với người. Cảnh nhộn nhịp khác hẵn con đường vắng vẻ vừa đi qua dù bầu trời vẫn vần vũ mây xám, mưa thu lất phất nhuốm một vẻ buồn rầu.
Tôi leo một mạch mất khoảng nửa giờ là lên tới đỉnh, nơi có chùa Taung Kala khá lớn. Sau này hỏi lại mới biết mình đã leo 777 bậc thềm mà không biết và không mệt vì khi leo không biết có nhiều bậc thềm như thế. Các bậc thềm lên núi thật dơ bẩn, phân khỉ tùm lum bị dẫm đạp đầy cả nền xi măng, mùi khỉ và mùi phân hôi hám, lại phải đi chân trần nên cảm giác càng rùng rợn. Trên bậc cấp và hai bên đường đi có rất nhiều khỉ nhảy nhót qua lại làm trò khỉ, chúng bắt chí cho nhau, hoặc một con nằm ngửa lim dim khoái trá để con kia gải háng, nhiều con lom lom nhìn khách rất khó chịu. Những người đi lễ còn rải bắp cho khỉ ăn hoặc nhường lối nên chúng càng ngang nhiên ngồi hay nằm ngay giữa lối đi. Tôi chỉ muốn tát cho một con một cái nên thân nhưng sợ chúng đông quá, lỡ chúng nó có tinh thần bè lũ xúm lại ‘bề hội đồng’ thì e các thần nat cũng không cứu nổi!
Cũng may lên gần tới đỉnh thì khỉ bớt đi, lối đi cũng được quét dọn tươm tất hơn. Đứng trên đỉnh nhìn chung quanh thật không bỏ công leo núi. Hướng đông là các rặng núi bao quanh tiểu bang Shan, ba hướng kia cũng toàn núi, dưới xa ẩn hiện những chùm mimosa vàng rươm, những bụi cây xương rồng xanh mướt, hoa dại đủ sắc màu, những tháp chùa vàng óng nằm từng cụm hay rải rác, xa nữa là ngôi làng Popa rải rác mái nhà lợp tôn. Ngôi làng này là chứng nhân lịch sử của nhiều triều đại khi Pagan (tức Bagan bây giờ) còn là kinh đô từ năm 839 đến 1298 (459 năm), nơi trốn lánh của nhiều hoàng tử bị truy nã vì tranh dành ngôi báu, nơi các hoàng tử chiêu binh mãi mã để tấn công hoàng thành vì ngoài vị trí chiến thuật, họ tin rằng xuất quân từ núi Popa sẽ tất thắng – như trường hợp vua Anaurhata, lên ngôi năm 1010 và đem Phật giáo nguyên thủy vào Miến Điện. Xung quanh núi có nhiều suối nhỏ, dòng suối lớn nhất là sông Pin chảy ra sông Voi.
Từ chân cho tới đỉnh đều có các ngôi đền nhỏ thờ Phật chung với các thần linh. Ba mươi bảy vị thần đều có trang phục khác nhau. Họ mặc áo trắng, vàng, đỏ, tím, nâu, đủ cả. Mỗi vị một hình tướng, người trông dữ tợn, kẻ hiền lành hay trầm ngâm. Nhưng ấn tượng chung của tôi khi nhìn vô một gian phòng có nhiều tượng nat là lạnh lẽo âm khí dù đèn điện thắp sáng. Giống như nhìn một thế giới âm binh và lơ lửng âm khí, đôi mắt của các bức tượng buồn phiền hoặc bất mãn, họ khiến tôi nhớ những hình nộm bằng tre có dán giấy màu mà người miền Trung đốt đi sau khi cúng. Người đi lễ sắp trái cây tràn lan xung quanh họ, họ bỏ tiền vào các thùng kiếng hoặc dán cả lên tượng, kể cả tượng Phật, rồi thì thụp lạy trong tiếng khấn phụ vang rõ của một người đàn ông canh đền. Lần đầu tiên tôi cảm thấy ‘không êm’ khi đến một nơi thờ phụng, nên ra hành lang đỉnh núi ngắm cảnh xong là chuồn êm xuống núi. Từ chân núi, trước khi đi bộ xuống làng để nhìn ngược lên, tôi mua một hòn đá nhỏ ‘hai hòn’, đó là một viên đá bên ngoài có nham thạch bao lại, cầm lên lắc lắc mới biết bên trong có một hòn nữa.
Từ con đường làng nhìn lên, núi Popa có hình dáng như một cái tháp bị cắt đầu, triền núi dốc và cân đối như hai cạnh một tam giác, xung quanh triền núi đá nhiều hơn rêu và cây. Trên mặt bằng bị cắt ngang ấy là ngôi chùa Taung Kala. Tôi đứng thật xa để ngắm ngọn linh sơn của Miến Điện, vì có đọc đâu đó rằng muốn thấy hồn núi thì phải đứng xa nó, đi quanh nó trong nhiều thời khắc khác nhau. Từ xa, cả ngọn núi như một cái chuông từ trên trời úp xuống đất, dáng cô độc, nhưng là nỗi cô độc hiền lành chứ không hùng vĩ nghêng ngang hay chứa điều gì ẩn mật. Người Miến Điện ví nó như núi thiêng Tu Di cũng hơi quá. Ở Tây Tạng, núi Kailas, hay còn gọi là Linh Sơn hay Ngân Sơn, là một trong các đỉnh núi trong dãy Hi Mã Lạp Sơn mới thật sự là Tu Di Sơn, vì nó là khởi nguồn của bảy dòng sông lớn của châu Á, trong đó có sông Hằng, Hoàng Hà và sông Mê Kông. Có lẽ, nếu ví như núi Tu Di, nó chỉ đúng về mặt tâm linh, tức trung tâm của mạch sống tâm linh, nơi các linh thần ẩn cư. Tu Di là ngọn núi chỉ có trong siêu hình học Phật giáo, chứ không phải là ngọn núi thật thấy bằng mắt thường. Theo Kinh Hoa Nghiêm, núi Tu Di là trung tâm của tất cả các cõi, được kết thành bởi toàn vàng, bạc, châu báu và lưu ly, cao đến 505.000 dậm, chỉ có chư thiên cư ngụ, chứ con người không thể thấy mà cũng không thể đến đó được. Siêu hình học Phật giáo cho rằng cả núi Tu Di chứa trong một hạt cải, và hạt cải chứa trong núi Tu Di. Tín ngưỡng dân gian Miến Điện coi Hoa Sơn như Tu Di có lẽ vì đó là nơi họ thờ các vị thần nat, đấng quyền năng tối thượng của họ. Điểm khác biệt nữa, so với Kailas của Tây Tạng hay ý nghĩa Tu Di trong siêu hình học Phật giáo, Hoa Sơn là trú xứ của nhiều vị được phong thần sau khi chết bất đắc kỳ tử, có vị nat nguyên là công chúa bị vua trấn nước, có vị là vua hay hoàng tử, có vị là vua của voi trắng hay ngựa trắng. Và trong số 37 vị thần linh này có người rất hung dữ. Vì lẽ đó họ được thờ cúng để khỏi phá phách chứ không phải để che chở hộ vệ (không phá phách là đã mừng rồi). Tôi chợt nghĩ rằng tình cảnh đất nước Miến Điện ngày nay xuất phát (phần nào) từ nhân sinh quan của họ. Họ sợ hãi các vị thần hung dữ, không tìm cách triệt tiêu hay dời đi chỗ khác (kính trọng nhưng xa lánh) mà lại thờ cúng, tránh chọc giận thần để được để yên. Không biết có nên ví điều này như một thủ đoạn hối lộ không. Và không biết trong đời sống thường ngày, họ có áp dụng cách xử thế này khi gặp cường hào ác bá hay không.
13. Đổi tên
Sau khi từ Hoa Sơn trở về vào xế chiều, tôi tranh thủ đạp xe vô các ngôi làng loanh quanh Nyaung U cho đến tối mịt. Hôm nay là ngày 14 âm lịch, trăng sáng vằng vặt trên bầu trời xanh lơ. Mấy ngày qua ăn uống linh tinh, toàn những chỗ dở hơi nên hôm nay hạ quyết tâm kiếm một chỗ đàng hoàng tử tế. Tôi phải tự thưởng cho mình vì còn tiền trong khi chỉ còn hai ngày nữa, tôi sẽ bay về Yangon, ở lại một đêm ở đó để sáng hôm sau bay qua Bangkok chờ đổi chuyến về Sài Gòn. Tôi tìm được một nhà hàng (thứ thiệt) bên ngoài khu Bagan Cổ để ăn tối, có tên ‘A Little Bit of Bagan’. Nhà hàng nằm trên con đường nhỏ, gần ngã ba cắt ngang đường cái Bagan-Nyaung U và xịch hướng phía khu Nyaung U, ngay góc đường có tấm bảng chỉ hướng nên dễ tìm. Sau khi bước qua sân trước sẽ thấy một phòng Internet máy lạnh, nếu bạn muốn lướt tin hay gửi điện thư thì các cô phục vụ sẽ giúp bạn vượt tường lửa để vào Yahoo hay Google. Các bạn phượt không nên bỏ qua nhà hang này vì giá cả không đến nổi nào (tất nhiên nếu so với các quán ven đường thì nó mắc gấp ba lần). Một lon bia Myanmar giá một đô rưởi, cơm gà hay mì Ý giá từ hai đô đến ba đô. Đặc biệt cà phê thứ thiệt, uống rất đã. Đặc biệt hơn nữa chúng nó có nước mắm ớt ăn với cơm nóng rật xịn. Sau khi ăn sẽ được tặng đồ tráng miệng là mấy chục viên kẹo me đựng trong một hộp gỗ nhỏ hình cái tháp. Ngồi dưới các tàng cây lớn trong vườn, ngắm những chiếc đèn lồng vàng nhạt, ngó nghiêng qua lá là trăng trắng soi trời xanh, lai rai với bia quốc doanh, hồi tưởng những tháp cổ, mở điện thoại cầm tay nghe Diễm Xưa ‘mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ’ và đừng nhớ ai cả, chỉ nhìn có bóng mình trên nền đất, tôi thấy rằng quả cái tuổi trai già của mình vẫn không đến nổi nào.Sau khi về tới nhà khách đã gần nửa đêm. Có tiếng gõ cửa: anh bồi phòng trẻ khệ nệ bưng một mâm có đầy đủ bình thủy nước nóng, ấm trà và cái tách nhỏ. Tôi chưa kịp hỏi thì cậu ta mỉm cười: ‘Bà chủ dặn đem cho anh.’ Từ ngày đem thân vào chốn giang hồ tôi ít khi gặp người tử tế cho nên rất cảm động, nhắn cậu ta cám ơn bà chủ. Không chừng bà ta phục kỹ năng ‘động khẩu’ với ông Tây già của tôi chăng. Nếu quả vậy thì không uổng công phu tu luyện đấu võ mồm. Tôi cao hứng nói:
- Mầy uống vài lon với tao không?
Anh ta mỉm cười gật đầu. Tôi nói anh ta đem vài lon bia Mandalay ra ngồi ở bậc thềm, anh ta cẩn thận đốt thêm cái nhang muỗi. Tụi tôi vừa uống vừa tán phét. Anh bạn làm bồi phòng đã tốt nghiệp đại học Mandalay ngành nhân văn. Tôi không ngạc nhiên khi biết cậu cử nhân đi làm bồi phòng. Ngay trước nhà khách này, phía bên kia đường có một quán ăn bình dân. Trên vách quán có treo ba tấm ảnh chụp ba người con trai lãnh bằng tốt nghiệp, trong đó có tấm hình của anh bồi bàn ở trần, quấn xà rông. Anh này hãnh diện nói anh cũng tốt nghiệp đại học Mandalay, hai người kia là anh trai cũng đã xong đại học, một người làm gì đó cho nhà nước, còn một người chạy taxi.
Dù đã có nhang mũi nhưng chúng tôi vừa uống vừa đập mũi. Đêm yên tĩnh, lâu lâu nghe tiếng lóc cóc của xe ngựa ngoài đường vọng vào. Tôi hỏi anh ta một chi tiết về tên họ của người Miến Điện. Hôm ở Yangon, tôi hỏi tên một thanh niên làm việc trong nhà khách và nhờ anh ta viết ra giấy để khi sắp về lại thì gọi điện thoại để báo trước. Khi tôi hỏi chữ nào là tên gọi, chữ nào là họ thì anh ta cười nói: ‘Tụi tui đâu có họ.’
Nhờ cậu cử nhân bồi phòng giải thích tường tận, và đọc thêm một vài tài liệu, nhất là của tác giả Shway Yoe (đã nói ở chương trước), tôi mới biết rõ hơn người Miến Điện đặt tên họ rất tự do.
Thông thường sau khi ra đời khoảng hai tuần, đứa trẻ sẽ được đặt tên. Gia đình sẽ tìm một ông thầy bói, lựa ngày lành và giờ hoàng đạo, mời bà con và bạn bè đến dự lễ đặt tên. Hôm ấy đứa bé mới được gội đầu kể từ khi chào đời. Họ hàng quyến thuộc đem đồ ăn hay tiền bạc đến tặng. Người mẹ bồng con cha, xung quanh bà con hút thuốc lá vặt hay nhai trầu để suy nghĩ một cái tên cho đứa bé, ai nghĩ ra tên thì nói ra để người khác bình luận. Thường đó chỉ là hình thức vì cha mẹ đã chọn tên trước, bà con cũng chỉ nói vài cái tên do cha mẹ đã thông báo.
Tên của đứa bé tùy thuộc nó được sinh vào ngày nào trong tuần. Người Miến Điện rất coi trọng tám ngày trong tuần – thứ Tư được chia ra làm hai ngày. Họ vào chùa cũng tùy theo sinh vào ngày nào trong tuần để lựa hướng thích hợp mà cầu nguyện, vì mỗi ngày trong tuần tương ứng với một hướng. Khi đặt tên con, họ dựa vào ngày sinh trong tuần để chọn vì mỗi ngày tương ứng với một nhóm phụ âm đầu, chỉ có Chủ Nhật mới bắt đầu bằng nguyên âm. Thí dụ đứa con sinh nhằm thứ Hai, tên nó sẽ bắt đầu bằng một trong các mẫu tự đầu là K, Kh, G, Gh, Ng, như Ngwe Khaing, Gauk, Khin.
Sinh ngày thứ Ba thì sẽ có tên bắt đầu bằng các phụ âm S, H, Z, Zh, Nya, như San Nyun. Sinh nhằm thứ Bảy thì tên sẽ bắt đầu bằng các mẫu tự T, Ht, D, Dh, N, như Ne Htun, Du Wun.
Sinh ngày thứ Năm thì tên bắt đầu với P, Hp, B, Bh, M, như Po Mya, Bo Gale, Mi Meit.
Vào ngày thứ Tư thì tùy sinh giờ nào. Nếu sinh buổi sáng trước 12 giờ thì bắt đầu bằng mẫu tự L, W, như Waing Hla. Từ giữa trưa đến nửa đêm bé sẽ có tên bắt đầu bằng Y như Yôn, Yauk, Yo.
Sinh vào thứ Sáu thì tên bắt đầu bằng Th hay H: Than, Thet She, Thin. Theo cách đặt tên này thì Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc từ năm 1961 đến 1971, ông U Thant người Miến Điện, chắc sinh vào ngày thứ Sáu (‘U’ đặt trước tên dành cho đàn ông lớn tuổi hay có chức tước trong xã hội).
Trong thực tế, người Miến Điện ít khi kêu tên trống không mà kèm trước trên gọi một chữ chỉ tuổi tác hay giới tính. Thí dụ ‘Maung’ để chỉ phái nam và ‘Ma’ là nữ giới, như Maung Gauk là cậu Gauk (cậu sinh ngày thứ Hai), Ma Khin là cô hay bà Khin. Riêng ‘U’ dành cho đàn ông lớn tuổi và được kính trọng (do người khác gọi hay do chính đương sự tự đặt trước tên gọi của mình), còn ‘Daw’ để bày tỏ sự kính trọng với phụ nữ có tuổi, vì thế đôi khi đọc báo ta thấy tên của nữ lãnh tụ đối lập có thêm chữ ‘Daw’ đằng trước: Daw Aung San Suu Kyi.
Do đặt tên theo thứ, và việc đổi tên tùy tiện nên người Miến Điện không có họ. Một người cha có năm đứa con trai thì cả năm người có thể có tên gọi khác hẳn người cha. Cậu con có thể thêm chữ Maung (ông), hay Shwe (vàng) trước tên mình, thí dụ cậu được đặt tên là Lugale Ngè, khi đến tuổi biết dê gái (thường rất sớm) cậu sẽ tự gọi mình là Maung Lugale – thêm chữ ‘Maung’ đằng trước cho bảnh. Khi qua tuổi ba mươi cậu sẽ tự tiện gọi mình là ‘U Ngè’ hay ‘U Lugale’. Trong trường hợp cậu ghét tên cha mẹ đặt, hoặc muốn chính thức hóa tên mới thì cậu sẽ gửi thư đến người quen và bạn bè, báo tin: ‘Tên tôi nguyên là Maung Shwe Pyin, từ nay tôi không dùng tên này nữa, hãy gọi tôi là Maung Hkyaw.’ Thế là xong thủ tục.
Tôi có hỏi anh bạn đang lai rai bia bọt khi muốn đổi tên thì giấy tờ cá nhân làm sao. Anh ta nói thì chỉ cần báo chính quyền và có cách làm thủ tục hành chính đơn giản. Thật là lạ. Đặc biệt phụ nữ ít khi đổi tên. Nhưng nam nữ gì, do tính ngày sinh theo thứ, nên tuần nào cũng có sinh nhật. Các trưởng giả hay bợm nhậu Việt Nam nên bắt chước phong tục này để có chính nghĩa ăn nhậu.
Tập quán đổi tên của người Miến Điện có thể dùng giải thích hiện tượng chính quyền hiện tại đổi tên nhiều địa danh. Từ năm 1989, tên tiếng Anh ‘Burma’ được đổi thành ‘Myanmar’. Trừ Mỹ và Anh, các nước khác công nhận tên mới. Các địa danh nổi tiếng khác cũng được đổi, như Pagan thành Bagan, Rangoon thành Yangon, sông Irrawaddy thành Ayeyarwaddy (sông Voi), cao nguyên May Myo thành Pin Oo Lwin (Phố Mây). Đài BBC hồi cuối tháng Chín năm 2007 từng có một bài viết bình luận về việc đổi tên nước ‘Burma’ thành ‘Myanmar’, cả trích dẫn phát biểu của nhà ngữ học Richard Coates thuộc đại học Western English. Ông này cho rằng chính quyền đổi tên vì muốn cắt đứt với quá khứ bị thuộc địa. Có lẽ đúng nhưng chưa chắc người Miến Điện đã quan trọng hóa việc đổi tên nước hay địa danh. Có một số người vẫn dùng tên cũ vì lý do chính trị, chứ không phải họ quan trọng hóa quan niệm ‘người quân tử đi chẳng đổi tên ngồi không đổi họ’. Thích tên gì thì dùng tên ấy. Đó là tinh thần của ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là phương tiện qui ước miễn sao được số đông đồng ý, chứ không cần câu nệ ‘quân tử’ hay ‘chính danh’ gì đó.
14. Tắm sông
Ngày cuối cùng ở Bagan, tôi đạp xe xuyên qua thành phố từ bờ bắc đến bờ nam sông Voi. Bagan có ba khu chính nằm trên một trục lộ trải nhựa, hai bên trồng nhiều cây tếch, lề đường toàn đất đỏ và khô, có các đường đất nhỏ cắt ngang dẫn vô làng mạc sát bờ sông. Con đường dài chừng 20 cây số, bắt đầu từ phía bến tàu Nyaung U ở cực bắc, xuyên qua khu Bagan Cổ ở trung tâm, kết thúc ở khu Bagan Mới ở cực nam. Toàn bộ phố sá, chùa tháp đều nằm phía tả ngạn sông Voi.Tôi cột sau yên xe một chai nước, đem theo một gói kẹo để bổ sung năng lượng cho bắp chân. Đường khá dốc nên mới đạp lên một đoạn dốc ngắn đã đổ mồ hôi hột, nhưng bù lại khi xuống dốc lại chạy ro ro khỏe khoắn. Mỗi lần lên dốc hào hển, tôi nhớ lời cô bạn ở Việt Nam chuyên giang hồ bằng xe đạp, nói rất triết lý: ‘Nó rất công bằng, lên mệt thì khi xuống dốc sẽ được bù lại xứng đáng.’ Nó ở đây là con đường, mọi con đường đi qua! Chỉ những người mê chân trời mới nghĩ ra chân lý vô cùng đơn giản ấy. Khi gồng bắp chân rướn người đạp lên đốc, tôi nhớ lời, nên tự nhủ: ‘Rán lên con, chút xíu nữa mày sẽ sướng!’
Bagan là kinh đô từ thế kỷ 9 đến thế kỷ 13. Khu tháp cổ có diện tích khoảng 40 cây số vuông hiện nay vẫn còn 2.230 chùa, tháp, tự viện, nhưng chỉ bằng một phần năm số đền đài chùa tháp nguyên thủy. Trong số này có 911 ngôi chùa, trong đó 347 chùa có tranh vẽ hình tướng bồ tát và chư Phật trên tường, nhiều tranh tường chỉ còn những nét mờ như phấn trắng. Ngoài ra còn có 524 tháp và 415 tự viện còn tồn tại. Tính trung bình cứ 17 mét vuông có một di tích chùa chiền hay đền tháp.
Lịch sử Bagan ghi nhận ông vua đầu tiên có công xây chùa và phát triển đất nước là vua Anawratha (1044-1077). Ông xây cụm chùa tháp trên diện tích mô phỏng cấu trúc mạn-đà-là, ở bốn góc có bốn chùa lớn, giữa trung tâm mạn-đà-la là đại tự Shwesandaw. Hai ông vua nối ngôi tiếp tục xây thêm chùa là Kyanzittha (1084-1112) and Narapatizithu (1170-1211). Thế kỷ 12 vì vậy không những là Thời Hoàng Kim của Chùa Tháp Bagan, và thời đại đó đã biến Bagan thành nơi tu học của tăng chúng tứ phương cho đến ngày nay. Năm 1287, quân Mông cổ xâm lăng, tàn phá đền đài, vua Narapatizithu phải lánh nạn, Bagan từ ấy tàn tạ, không còn là kinh đô chính trị, nhưng vẫn là kinh đô của Phật giáo Miến Điện.
Tôi vòng vèo đi qua vô số tháp nhỏ, tháp lớn, tháp nâu, tháp xám, tháp vàng, có tháp rêu phong đổ nát, có cái mới được trùng tu, có tháp cỏ cây che khuất, có đền còn tượng Phật, có nơi bốn mặt đền không còn tượng duy dấu gạch nâu, có cái trống không. Nhưng không mà có. Có những tượng phải chui vào mới thấy, rồi những tượng chỉ cần ngừng xe, chống chân, nghiêng người nhìn vào thấy Phật ngồi buồn sau những hàng gạch vương vãi. Khác với cảm xúc khi đứng trên cao nhìn muôn đỉnh tháp vươn trên rừng cây xanh, lần này đi xuyên qua các miếu đền, tôi có cảm tưởng đi ngược thời gian, đi qua những ngẩn ngơ, ngậm ngùi. Thời nào như hiện tới, thoắt lui, một tiếng kinh ngân lên, tắt lịm, con sóc nhỏ băng qua bụi đường biến vào lùm cây sột soạt, tiếng bò kêu ểu oải, vó ngựa đâu lóc cóc buồn.
Tôi vào chùa A Nan (Ananda Temple). A Nan là thị giả thân cận nhất của Đức Phật, nổi tiếng có trí nhớ vô song, nhờ vậy khi kết tập kinh điển lần đầu tiên (bốn tháng sau khi Phật nhập niết bàn) ông đọc thuộc lòng các bài thuyết pháp của Phật để về sau ghi lại thành một trong ba bộ kinh điển là tạng Kinh.
Tôi thích A Nan vì ông dễ thương và thật thà. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, khi Phật hỏi A Nan nguyên nhân ông xuất gia theo Phật, A Nan trả lời vì ông thấy ba mươi tướng của Phật hết bực tốt đẹp, sáng chói như ngọc lưu ly, nên ‘tôi thương Phật, mến Phật, mà đành cạo đầu đi tu’. Tôi rất ‘chịu’ cách trả lời của A Nan, không quanh co né tránh. Thêm một điều đáng yêu nữa là ngài A Nan suýt ‘tiêu tùng sự nghiệp’ tu hành vì khất thực trúng vào nhà nàng Ma Đăng Già, ‘em’ này dụ ông vào nhà rờ rẫm vuốt ve, may mà Văn Thù đem phép Phật đến giải thoát ông đúng lúc. Đoạn kinh này rất hay cả với người không phải Phật tử, tả cảnh ông A Nan khất thực và vì sao gặp nàng Ma Đăng Già:
‘... Đến chừng trở về giữa đường, lại nhắm bữa không có ai cúng, ông bèn mang bình bát tới thành phố mà khất thực.
‘Trong ý muốn ông trước cầu một người lâu nay chưa có trai tăng khi nào, mà làm một vị Thí Chủ, bất kỳ giàu hay nghèo, nhơ hay sạch, nhà nào cũng đặng, chớ ông không lựa.
‘Lòng ông muốn làm cái pháp bình đẳng để viên thành cái công đức vô lượng cho tất cả chúng sanh.
‘Vì ông đã từng nghe Phật quở ông Tu Bồ Đề, và ông Đại Ca Diếp, làm bực A La Hán đi khất thực mà một người bỏ nhà giàu xin nhà nghèo, còn một người bỏ nhà nghèo xin nhà giàu, tâm không đặng quân bình, nên chi ông tuân theo lời Phật, mở lòng lành vô ngại mà độ cái miệng khinh khi của đời.
‘Ông bèn đi trải qua ngoài thành, rồi lần lần rảo bước vào trong cửa thành, nghiêm chỉnh oai nghi, kính trọng một phép trì trai vậy.
‘Trong khi khất thực, ông đi ngang một nhà tục, bị nàng Ma Đăng Già dùng phép chú thuật của ngoại đạo mà bắt ông vào phòng rờ rẫm vuốt ve, toan làm cho ông phá giới.
‘Phật đương chứng trai nơi cung Vua Ba Tư Nặc, biết ông bị nạn, ăn rồi liền cáo về.’
(Đoạn kinh trên khởi đầu Kinh Thủ Lăng Nghiêm, một bộ kinh thượng thừa tích cực cứu thế của Phật giáo. Và cũng nhờ nguyên nhân ông A Nan mắc nạn, Phật mới nói kinh này.)
Chùa A Nan là một trong các chùa cổ nhất ở Bagan, xây từ năm 1105. Tường thành bao quanh khuôn viên chùa có hàng ngàn hoa văn khắc chạm, bên trong có nhiều điện thờ lớn nhỏ và vô số hình tượng chạm lên tường ngoài tường trong. Ngôi điện chính có đáy vuông, mỗi bề dài 53 mét, phía trên có hai tầng (sân thượng) nâng một ngôi tháp màu vàng cao 51 mét. Ở bốn góc của mỗi tầng đều có sư tử đá đứng gác. Lối vào bên trong qua một hành lang dài, có bốn cửa theo đúng bốn hướng đông, tây, nam, bắc. Bên ngoài đền trang trí 1.500 hình tượng. Khi đi trên hành lang vào đến chính sẽ gặp một hành lang hẹp bao quanh bên ngoài, đi theo hành lang này sẽ thấy 80 ô hình bán nguyệt nhiều kích cỡ khác nhau đục sâu vào tường, trong mỗi ô đều có tượng mô tả các sự kiện quan trọng của cuộc đời Đức Phật, những ô cao quá phải dùng thang leo lên mới thấy.
Hành lang này đi ngang bốn cửa chính, mỗi cửa đều có tượng Phật Thích Ca đứng cao 9.5 mét mạ vàng. Hướng dẫn viên du lịch có thể ‘bốc’ là bốn pho tượng này bằng đồng nhưng thật ra bằng gỗ tếch. Trong bốn pho tượng này chỉ có hai tượng hướng bắc và nam là có từ thời xây chùa, hai tượng kia mới làm sau này vì bị hư hại trong một lần hỏa hoạn. Cả hai bức tượng nguyên thủy – hướng cửa bắc và nam – rất dễ nhận biết vì tay Phật đang bắt ấn thuyết pháp (để trước ngực). Tượng phía Tây tay Phật bắt ấn vô úy (lòng bàn tay phải ngửa ra trước ngực), trên hành lang ở hướng này có khắc hai dấu chân Phật trên đá, mỗi bàn chân chạm khắc tỉ mỉ 108 tướng tốt nhưng do người ta sờ mó quá nhiều nên dấu vết chỉ còn lờ mờ. Riêng tượng phía đông hai tay pho tượng thẳng xuống nắm khẻ vạt áo. Tôi để ý ở chùa Miến Điện nhiều tượng Thích Ca có hình tướng này nhưng không hiểu có ý nghĩa gì, nhưng nếu ngắm nhìn lâu sẽ có cảm tượng như Phật đang đi. Cả bốn tôn tượng đều sinh động dưới ánh sáng thiên nhiên xuyên qua ô cửa trên trần điện, riêng tượng nhìn ra hướng nam nếu đứng gần nhìn lên sẽ thấy một vẻ buồn buồn, nhưng đứng ngoài cửa nhìn lên lại thấy Phật như mỉm cười hoan hỉ. Thật là một kiệt tác nghệ thuật.
Mặc dù mật độ chùa tháp dầy nhưng mỗi đền tháp đều nằm riêng lẻ, không kết nối với nhau. Từ chùa A Nan qua chùa lớn Thatbyinnyu kề bên chỉ năm phút đi bộ, nhưng mỗi chùa một vẻ. Cái chung nhất là các chùa lớn đều tường thành bao quanh, có cổng vào nhìn ra chính hướng, ở giữa là điện chính, trên điện có tháp cao thường là hình chuông. Còn chùa và tháp nhỏ thì ngay sát lối đi, gần gũi với con người như nhà cửa bình thường.
Điểm chung thứ hai là có ba loại kiến trúc ở Bagan, chùa, tháp, và tự viện. Tháp khác với chùa ở chỗ tháp không có cửa vào bên trong nội điện, xây kín và bên trong thường cất dấu xá lợi Phật. Tự viện lớn hơn chùa, gồm một khối kiến trúc độc lập hoặc một dãy kiến trúc gồm nhiều điện, phòng ốc và sảnh lớn để tăng sinh tu học. Đây chỉ là cách phân biệt tương đối vì thường trong chùa đều có tháp lớn và nhỏ bao quanh.
Đặc tính thứ ba là hầu hết vật liệu dùng xây cất chùa tháp ở Bagan đều bằng gạch, chỉ có ba ngôi chùa bằng đá hoặc tường gạch lát đá.
Một kiến trúc khác hẵn và độc đáo còn tồn tại là hoàng thành bao quanh cung điện. Hoàng thành vuông tương tự như hoàng thành ở Mandalay, nhưng bờ thành phía sông Voi – hướng bắc – hoàn toàn biến mất do bị xâm thực, tường thành hướng tây và nam cũng không còn dấu vết. Loanh quanh hết các chùa tháp ngoài thành, tôi đạp xe đến cổng thành duy nhất còn sót lại ở hướng đông (hướng về khu Nyaung U và nằm trên trục đường chính), cổng Tharaba. Cổng này chỉ còn hai khối gạch đỏ, mặt trên và bề mặt hai tường thành hai bên đã hư hại nặng, long lở và trồi sụt hình thù. Bên ngoài và hai bên cổng có thờ hai vị thần nat. Không có dấu tích gì chứng tỏ cổ thành đang được trùng tu, nhưng chính nhờ thế nên thành cổ mang một bầu khí hoài cổ, lặng lẽ và cam chịu ở một nơi vắng người.
Bên trong nội thành cây cối rậm rạp, nhà cửa hai bên đường thưa thớt như một vùng đất hoang, dù tận bờ sông có làng và khách sạn nhiều sao. Lúc này đã giữa trưa, trời nóng bức, hai bên đường không có quán xá gì để hỏi đường, chai nước cột sau yên xe rớt từ hồi nào nên cổ họng khô đắng. Tuy đã nghiên cứu bản đồ nhưng đạp hoài vẫn chưa tới khu Bagan Mới. Thời may tôi thấy một cái nhà nhỏ chứa hai lu nước uống bên đường. Khắp Miến Điện nơi nào cũng có hai hoặc ba lu chứa nước uống xây bên đường đi cho khách lỡ đường. Người ta xây một trạm xi măng nhỏ giống như các miếu hay am bên mình, trên có mái che, bên trong đặt hai, ba cái lu đất có nắp đậy, trên để một ly nhựa. Hằng ngày có người đạp xe chở nước uống từ đâu đó đến châm vào lu. Tôi chưa bao giờ nghĩ có lúc mình sẽ cần đến mấy cái lu này, nhưng vào lúc lỡ đường lỡ xá này mới thấy nó cần thiết. Giữa trưa, múc một ly nước trong lu uống giữa cơn khát cháy tưởng như uống từng ngụm chanh đường ngọt lịm. Trong cái am chứa nước có hai chiếc chiếu nhựa cuộn tròn. Tôi trải chiếu ra dưới góc cây, làm một giấc ngắn.
Tôi đạp xe đi chừng nửa tiếng nữa thì tới khu Bagan Mới. Đây là một thị trấn xinh xắn, thanh lịch hơn khu Nyaung U. Đường phố dốc như cao nguyên, quán xá không nhiều nhưng ngăn nắp sạch sẽ. Tôi xem bản đồ và đạp tiếp đến cuối đường để vào một nhà hàng nằm trong công viên Lawkananda ven sông. Cổng vào có một thanh gỗ chắn ngang, một nữ cảnh sát đứng gác. Tôi cứ đạp thẳng vào, cô cảnh sát ách lại, ra dấu không được vào. Tôi ra dấu muốn vào nhà hàng ăn, nhưng cô ta cứ xua tay đuổi lia lịa. Nhà hàng này chắc chỉ dành cho khách đặc biệt. Tôi nản chí quay ngược đường cũ, dắt xe đi ngược lên dốc. May quá thấy một tấm bảng ghi ‘Si Thu Restaurant’ nằm bên bờ sông Voi. Đó là một nhà hàng khá lớn bằng gỗ, không có thực khách nào. Ngồi trong nhà hàng nhìn qua bên kia sông là rặng núi thấp chạy dài trên một thung lũng rộng và vắng. Tuy ở vị trí lý tưởng nhưng đồ ăn rẻ, đặc biệt sạch sẽ và phục vụ như một nhà hàng năm sao. Thật là một địa chỉ tốt để chăm chăm núi sông miên man. Một vài chiếc đò giương buồm từ bờ bên kia lửng thửng trôi về bên này. Tôi chợt nảy ý định thuê một chiếc thuyền đi ngược dòng sông Voi về lại Nyaung U. Người bồi nói ở khu này không có dịch vụ đó, vả lại ở đây chỉ có đò ngang chạy bằng buồm nên không ai đi ngược dòng nước đến 20 cây số. Tôi không nản, nhờ anh ta coi giùm ba lô rồi đi xuống một ngôi làng bên ngoài nhà hàng. Đó là một cụm dân cư nhỏ, nhà lợp tranh, vách nứa. Tôi quanh co tìm lối xuống bờ sông, thấy một chiếc đò nhỏ vừa cập bến. Tôi ách ông lái đò, lật bản đồ ra dấu muốn đi ngược về Nyaung U. Ông ngần ngừ rồi thảo luận với cậu thanh niên ngồi trước mũi. Mấy cô gái Miến đang tắm sông vừa kỳ cọ vừa tò mò nhìn. Sau một hồi lưỡng lự cậu thanh niên đưa hai bàn tay lên ra dấu mười ngàn kyat (10 đô Mỹ).
Tôi lật đật về lại nhà hàng, ăn xong dắt xe ra thì bác chèo thuyền đã đợi sẵn ngoài cửa. Bác phụ tôi vác chiếc xe đáp xuống bên vì đường đất khá dốc và xấu không đạp được. Chiếc thuyền bề ngang khoảng tám tấc, dài chừng sáu, bảy thước. Tôi để xe đạp lên thuyền, ông lái đò ngồi đằng sau vừa chèo vừa điều khiển buồm bằng một sợi dây cước móc vào ngón chân cái, đằng mũi cậu thanh niên vừa chèo vừa lái.
Tôi ngồi trên thuyền đi ngược dòng sông Voi, buổi trưa gió hây hây mềm mại đưa đò.
Đò ngược nước không đi nhanh được, lại sát phía tả ngạn nên cảnh trên bờ rất rõ. Sông Voi dài khoảng 2000 cây số, khởi nguồn từ hướng bắc, do hai con sông nhỏ Maykha và Malikha hợp lưu ở tiểu bang Kachin. Nguồn của hai con sông thượng nguồn này từ tuyết của Hi Mã Lạp Sơn đổ xuống. Khác với sông Mê Kông chảy qua năm nước, sông Voi hoàn toàn ở bên trong lãnh thổ Miến Điện, khi tới phía nam thì trổ ra chín cửa chảy vào biển Andaman. Thời chưa có đường bộ, sông Voi là đường thủy huyết mạch từ Ấn Độ Dương vào đất liền. Khúc sông chảy qua Bagan mà tôi đang đi ngược dòng có nhiều cây cổ thụ hình dáng kỳ vĩ, rễ cây to trồi hẵn lên mặt đất như một cái dù lớn có nhiều chiếc nan cong quẹo bung ra, nhiều loại hoa dại mọc trên bờ, nổi bật trên bầu trời xanh lơ nổi trôi mây trắng, cây chập chờn trên rừng lá, mái chùa màu gạch lặng thinh không.
Năm ngoái tôi đi ngược dòng Mê Kông ở Thượng Lào, từ cố đô Luang Prabang lên Huay Xay để từ đó băng ngang sông đến khu Tam Giác Vàng. Cảm giác lúc đó khác bây giờ vì chiếc thuyền cao tốc ở Lào chạy đến 70 cây số một giờ, chở tối đa sáu người ngồi co chân, không có mui. Sông Mê Kông ở Thượng Lào hẹp, nước chảy xiết, hai bên núi dựng đứng hiên ngang và hoang liêu, không một bóng người. Đường đi nguy hiểm, nếu người lái thuyền đưa mình tới đâu cũng không ai biết, cho nên vừa ‘đã’ vừa sờ sợ. Cảm giác đi ngược dòng sông Voi khác hẳn. Phía hữu ngạn núi đồi bươn chải, thung lũng thoai thoải vàng xanh, đàn ngựa trắng ngập ngừng lượm cỏ. Bờ tả ngạn rải dăm mái tranh, trước mũi đò sóng nước rộng giăng ngang.
Đời sống làng mạc ven sông chậm rãi. Phụ nữ thường giặt giụa trên một cục đá, dùng cây gỗ đập áo quần trong khi con cái trần truồng nô đùa cạnh đó. Một người đàn ông đang đãi cát tìm vàng, một người khác nón lá sụp kín mặt buông câu.
Chiều sắp tàn, đò ghé bờ trước một cụm làng nhỏ. Tôi dắt xe đi xuyên qua bãi cát mịn rồi đạp về nhà khách trả xe, thay áo quần để ra lại bờ sông cho kịp tắm trước khi nắng tắt. Con đường nhỏ trong làng ngoằn nghèo đầy bụi đất và phân heo. Gà, chó, heo và bò qua lại nhởn nhơ chung với người. Các thiếu nữ Miến Điện mặc xà rông đang tắm dọc theo mép sông, bên cạnh những chiếc đò nhỏ. Có cô vừa tắm vừa giặt, cô nào tắm xong cũng đội một thùng nước trên đầu đi về nhà. Tôi đi trên một thảm cây dại nửa chừng thì mấy thanh niên đứng gần đó ra dấu tránh xa vì có nhiều rắn. Lúc đó mặt trời đã khuất sau đỉnh núi bên kia sông. Trăng rằm đã lên lưng lửng. Tôi ùa xuống dòng nước ấm áp gợn sóng xuyên qua cây cỏ, màu nước sông Voi xám như tà áo lam tu sĩ lay động giăng ngang hai bờ, tháng Tám, ở quê tôi đang mùa giông bão, nơi đây, chiều đã vàng, một chút nắng níu trên tháp cổ Bagan gợi một mùa thu xa.

Bút ký này dành cho các bạn ‘phượt’, từ mới chỉ những người thích giang hồ vặt, thích đi ngẫu nhiên hay ‘đi bụi’, với hy vọng các bạn tìm thấy một vài điều bổ ích, trước khi lên đường qua Miến Điện.
Tập sách mỏng này, do vậy, là những ghi chép vài kinh nghiệm nhỏ, có thể nói là những điều khôn vặt, may ra những người sắp phượt biết thêm một ít thông tin.
_______________________
[1] Shway Yoe (Jame George Scott) (1963) The Burman: His Life and Notions. New York: W.W. Norton, tr.477-78
[2] Bird, George (1897). Wanderings in Burma. New York: Cornell University Library.
Admin gửi hôm Thứ Bảy, 12/01/2013
nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20121104/tu-khanh-muoi-hai-ngay-o-mien-dien-5
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001