Nguyễn Hưng Quốc (VOA)
- Lời tác giả: Trước, trên blog này, tôi đã viết một số bài về xã hội
dân sự. Thường là những bài ngắn, chỉ tập trung vào từng khía cạnh nhỏ.
Nay, tôi muốn bàn đến vấn đề này một cách sâu rộng hơn. Lý do: tôi tin
đây là một trong những vấn đề lớn, quan trọng, cần thiết và đặc biệt,
hữu ích nhất với người Việt Nam trong thời điểm hiện nay. Tính chất hữu
ích ấy, theo David Lewis, trong bài “Civil Society in African Contexts:
Reflections on the Usefulness of a Concept” (1), nằm ở hai khía cạnh:
Một, hữu ích cho việc suy nghĩ nhằm xác lập ý nghĩa của hiện thực chính
trị và xã hội; và hai, hữu ích cho tiến trình vận động cho một nền dân
chủ đích thực. Cả hai khía cạnh ấy đều cần thiết cho các nhà hoạt động
chính trị và xã hội, giới nghiên cứu cũng như tất cả những người quan
tâm đến tình hình xã hội và chính trị Việt Nam nói chung.
Vì bài viết khá dài, tôi sẽ chia ra từng phần nhỏ, mỗi phần sẽ có nhan
đề riêng. Tôi sẽ gửi đăng rải rác, xen kẽ với những bài có tính thời sự
hơn.
***
Khái niệm “civil society” trong tiếng Anh được dịch sang tiếng Việt
thành hai cách khác nhau: xã hội công dân và xã hội dân sự. Theo Joseph
Hannah, trong luận án tiến sĩ, Local Non-government Organizations in Vietnam: Development,
Civil Society, and State-Society Relations, đệ trình tại trường
University of Washington vào năm 2007, dường như cách thứ nhất xuất hiện
trước, khoảng đầu thập niên 1990, trong một bài viết đăng trên Tạp chí
Cộng sản số tháng 4 năm 1994 và trong cuốn Từ điển Xã hội học do
Nguyễn Khắc Viện làm đồng chủ biên, cũng được xuất bản vào năm 1994; tuy
nhiên, sau đó, cách dịch thứ hai, vốn ra đời muộn hơn, có vẻ như dần
dần được ưa chuộng hơn (2).
Có vẻ vậy thôi. Vào Google (ngày 27/12/2012), đánh chữ “xã hội công
dân”, tôi thấy hiện lên 7.250.000 kết quả (trong 0.21 giây); đánh chữ
“xã hội dân sự”, thấy 5.890.000 kết quả (trong 0.25 giây). Tần số xuất
hiện của chữ “xã hội công dân”, như vậy, vẫn còn cao hơn chữ “xã hội dân
sự”. Có điều, xin lưu ý là, hai chữ này có khi xuất hiện trong cùng một
bài. Dường như hầu hết các tác giả đều sử dụng theo thói quen. Rất hiếm
người cảm thấy có nhu cầu giải thích tại sao mình dùng chữ này thay vì
dùng chữ kia.
Ở Nhật, người ta dùng chữ “thị dân xã hội” (shimin shakai), trong khi ở
Trung Quốc, người ta dùng cả hai chữ “thị dân xã hội” (市民社会) và “công
dân xã hội”(公民社会). Trong tiếng Việt, riêng tôi, tôi thích chữ “xã hội
dân sự” hơn là “xã hội công dân”.
Thích vì bốn lý do chính:
Thứ nhất, chữ “dân sự” có vẻ gần với khái niệm “civil” trong tiếng Anh
hơn. Đã đành chữ “civil”, với tư cách một tính từ, gắn liền với khái
niệm công dân (citizen), nhưng trong việc sử dụng, lâu nay, về phương
diện chính trị, nó thường mang hàm nghĩa đối lập với quân sự (và, trước
đó, với giáo hội); về phương diện luật pháp, đối lập với hình sự; và về
phương diện xã hội, đối lập với sự thô lậu và lạc hậu. Trong tiếng Việt,
để chỉ sự đối lập thứ nhất, chúng ta có (chính phủ) quân sự / dân sự;
để chỉ sự đối lập thứ hai, chúng ta có (luật) hình sự / (luật) dân sự.
Riêng trường hợp thứ ba (như trong các trường hợp “civil reply” hay
“civil tongue”), chúng ta phải dùng chữ khác, “lịch sự” hay, trầm trọng
hơn, “văn minh”. Như vậy, dùng chữ “xã hội dân sự”, chúng ta, một mặt,
giữ được tính chất nhất quán trong hệ thống từ vựng tiếng Việt; mặt
khác, do tính chất liên văn bản (intertextual), giúp người đọc dễ hiểu
hơn.
Thứ hai, chữ “công dân” thường có hàm ý chỉ từng cá nhân trong khi khái
niệm “civil society” bao hàm các hoạt động vừa có tính cách cá nhân vừa
có tính chất đoàn thể, vừa có tính tự phát vừa có tính thiết chế. Chữ
“dân sự” có cả hai kích thước này.
Thứ ba, nội dung chính của khái niệm “civil society” không nhấn mạnh vào
tính chủ thể của công dân mà tập trung chủ yếu vào quan hệ giữa các
công dân, một quan hệ có tính chất tự nguyện, phi chính trị (để phân
biệt với các hoạt động liên quan đến nhà nước), phi lợi nhuận (để phân
biệt với các hoạt động vụ lợi, liên quan đến việc kinh doanh) và phi
huyết thống (để phân biệt với các hoạt động liên quan đến gia đình và
dòng họ). Chữ “dân sự” mang hàm nghĩa quan hệ ấy trong khi chữ “công
dân” thì không. Không những vậy, chữ “công dân”, vốn chỉ đơn vị người
(thoạt đầu, xưa, trong thành, sau đó, thành phố, và cuối cùng, thời hiện
đại, trong một quốc gia) dưới góc độ luật pháp, gắn liền với những bổn
phận và quyền lợi được ghi trong hiến pháp và luật pháp, dễ gợi liên
tưởng đến quan hệ với nhà nước, thuộc phạm trù nhà nước, điều mà khái
niệm “xã hội dân sự” - theo cách hiểu hiện nay - hoàn toàn loại trừ.
Thứ tư, trong lãnh vực khoa học xã hội, ý nghĩa của một thuật ngữ ít khi
gắn liền với từ nguyên hoặc các từ tố tạo nên nó. Thuật ngữ, tự bản
chất, là một khái niệm. Mà khái niệm nào cũng mang tính ý thức hệ: đó là
một cách phạm trù hóa và hệ thống hóa một thực tại theo một khung lý
thuyết nhất định. Khái niệm cũng mang tính lịch sử: Không có một nỗ lực
phạm trù hóa và hệ thống hóa nào là đơn nhất và cô lập, không có quan hệ
với các nỗ lực phạm trù hóa và hệ thống hóa của người khác, cùng thời
hay trước đó. Cuối cùng, cũng giống mọi từ vựng khác, thuật ngữ nào cũng
có tính liên văn bản qua những quan hệ chằng chịt với các thuật ngữ
khác: trong mỗi thuật ngữ, do đó, bao giờ cũng có âm vang và phản quang
của các thuật ngữ khác. Chính vì vậy, nội dung của các thuật ngữ thường
thay đổi theo từng văn hóa và từng thời đại, đặc biệt, từng nhà tư tưởng
lớn. Mỗi nhà tư tưởng, khi đưa ra một lý thuyết mới, thường làm lệch
hẳn nội dung các thuật ngữ vốn có. Ngay cả một khái niệm phổ thông và
đơn giản như “dân chủ”, chúng ta cũng khó tìm được sự thống nhất giữa
các lý thuyết gia về chính trị học qua các thời đại và các ý thức hệ
khác nhau: Tất cả những cái được các lý thuyết gia xã hội chủ nghĩa gọi
là “dân chủ” đều bị những người theo khuynh hướng tự do xem là độc tài,
hơn nữa, toàn trị.
Khái niệm xã hội dân sự ở Tây phương, cũng vậy. Chữ “xã hội công dân”
(citizen society) chỉ thích hợp để dịch chữ koinonia politikhe /
societas civilistheo cách hiểu của các nhà hiền triết thời cổ đại Hy Lạp
và La Mã: Đó là một tập hợp của các công dân nam trưởng thành và tự do
(tức không tính những người vị thành niên, ngụ cư, nữ phái và nô lệ),
những người được xem là bình đẳng trước pháp luật. Tuy nhiên, kể từ thế
kỷ 17, và đặc biệt, từ đầu thế kỷ 19, khi ý niệm societas civilis/civil
society không còn bao gồm nhà nước và các hoạt động chính trị, nơi tư
cách công dân được khẳng định một cách mạnh mẽ và cụ thể nhất, chữ “xã
hội công dân” lại không còn thích hợp nữa. Đến các lý thuyết gia đương
đại, đặc biệt từ lúc chế độ Cộng sản sụp đổ ở Nga và Đông Âu vào đầu
thập niên 1990, khái niệm “civil society” lại càng thay đổi nhanh chóng.
Và càng thay đổi, nó lại càng xa ý niệm “công dân” và càng gần ý niệm
“dân sự”.
Bốn lý do trên, thật ra, chỉ có ý nghĩa tương đối. Khó có thể nói cách
dịch nào là đúng nhất. Mỗi từ, trong từng ngôn ngữ, không những chỉ có
ngữ nghĩa riêng mà còn có các hàm nghĩa (connotation), vốn có tính lịch
sử và tính liên văn bản, gắn liền với văn hóa trong đó từ ấy được sử
dụng. Vấn đề ở đây chỉ là sự lựa chọn, trước là sự lựa chọn của cá nhân
người viết, sau, qua một thời gian thử nghiệm và sàng lọc - có khi khá
dài, là sự lựa chọn của tập thể: Khi ấy, chúng ta sẽ có một từ ổn định.
Trong lãnh vực khoa học xã hội, chọn thuật ngữ là điều quan trọng. Nhưng
quan trọng hơn là việc xác định nội dung của thuật ngữ ấy. Không phải
xác định một cách chung chung. Mà phải cụ thể: với ai, khi nào và ở đâu.
Chỉ cần bước qua khỏi dãy Pyrénées, mọi sự đã khác hẳn. Huống gì chuyện xã hội dân sự.
***
(Đây là bài thứ nhất trong loạt bài về “Xã hội dân sự”. Kỳ tới: “Xã hội dân sự như một phạm trù nhận thức”)
***
Chú thích:
Đăng trên tờ Development and Change số 33 năm 2002 (trang 569-586).
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2013/01/xa-hoi-dan-su-hay-xa-hoi-cong-dan.html#more
======================================================================
Xã hội dân sự như một phạm trù nhận thức
Xã hội dân sự như một phạm trù nhận thức
Nguyễn Hưng Quốc (VOA) - Trong bài tiểu luận “Civil Society as Idea and Civil Society as Process: The Case of Ghana” (1),
Lindsay Whitfield nhấn mạnh: Xã hội dân sự không phải là một thực thể
thống nhất với một cấu trúc rõ ràng và cố định, do đó, không thể là một
đối tượng cho các nghiên cứu có tính chất thực nghiệm. Ngược lại, nó chỉ
là một ý tưởng và là một tiến trình. Với tư cách một ý tưởng, xã hội
dân sự là một nỗ lực tìm kiếm một biểu tượng thống nhất cho một thực tại
vốn không thống nhất trong khi với tư cách một tiến trình, nó lại là
những sự tương tác vô cùng phức tạp của các cấu trúc xã hội, các vấn đề
chính trị, các mạng lưới nhân sự vốn có gốc rễ sâu xa trong lịch sử cộng
với các quan hệ chằng chịt ở tầm quốc tế trong hiện tại.
Với tư cách một tiến trình, xã hội dân sự là một hiện tượng khá mới,
nhưng với tư cách một ý tưởng, nó lại có một lịch sử rất dài, bắt nguồn
từ những suy nghĩ về chính trị của Plato (424/423 BC - 348/347 BC) và
Aristotle (384 BC - 322 BC) thời cổ đại Hy Lạp khi hai ông muốn tìm kiếm
những hình thức tổ chức xã hội như những hiệp hội của các công dân tự
do và trưởng thành nhằm phân biệt với trạng thái tự nhiên của đời sống
hoang dã và mọi rợ (barbarism). Có điều, với hai ông, cũng như những
người chịu ảnh hưởng của hai ông trong nhiều thế kỷ sau đó, cái gọi là
xã hội dân sự ấy bao trùm cả nhà nước, gắn chặt với nhà nước: Với Plato,
một cách lý tưởng, đó là nơi kết hợp giữa cái chân, cái thiện và cái mỹ
với kiến thức, quyền lực và nhà nước; đó là một cộng đồng đạo đức kết
hợp nhiều người thuộc nhiều thành phần và với những kỹ năng khác nhau,
được lãnh đạo bởi một vị vua hiền triết (philosopher-king); với
Aristotle, đó là một cộng đồng chính trị (politike koinonia) quy tập các
công dân dưới một hệ thống luật pháp chung và nhắm đến những cái thiện
chung, làm cho cuộc sống trở thành tốt đẹp (“good life”; trong khi gia
đình và làng xã chỉ dừng lại ở mục tiêu căn bản là tồn tại, “a mere
life”).
Các nhà tư tưởng thời trung cổ thu hẹp cái được Plato và Aristotle
gọi là “thiện” hay “tốt” (good) vào phạm trù tôn giáo. Với Augustine
(354-430), những luật lệ nhằm bảo đảm cái tốt trong xã hội không được
đặt trên nền tảng lý trí mà trên thần quyền: một xã hội dân sự văn minh,
do đó, phải là một “thành phố của Thượng đế” (the city of God). Kết hợp
tư tưởng của Aristotle và giáo lý của Thiên Chúa giáo, Thomas Aquinas
(1225-1274) phục hồi lại giá trị của lý trí như là nền tảng để phân biệt
cái tốt nhưng ông vẫn cho xã hội dân sự cần phải lệ thuộc vào giáo hội.
Nói một cách tóm tắt, suốt cả thời cổ đại lẫn thời trung cổ, cái gọi
là xã hội dân sự (civil society) được hiểu như một xã hội văn minh
(civilized society) nói chung: Đó là một sự đối lập với trạng thái tự
nhiên nhưng lại chưa chưa thoát ly khỏi nhà nước và giáo hội. Nó khác
rất xa cách hiểu của chúng ta bây giờ.
Cách hiểu của chúng ta hiện nay về xã hội dân sự chủ yếu xuất phát từ
các phát kiến của các nhà tư tưởng thời Phục Hưng. Thomas Hobbes
(1588-1679) và John Locke (1632-1704) đều cho, thứ nhất, giống quan niệm
của Aristotle ngày trước, xã hội dân sự đồng nghĩa với khái niệm văn
minh, ở đó mọi công dân sống với nhau một cách hài hòa trong một hệ
thống pháp lý chung; thứ hai, khác với Aristotle, xã hội dân sự được
hình thành không phải vì bản năng hòa đồng mà là kết quả của một thứ khế
ước xã hội; và thứ ba, khác với Aristotle cũng như hầu hết các nhà tư
tưởng thời cổ đại và trung đại, xã hội dân sự không còn đồng nhất với
nhà nước: Với họ, nhà nước là cơ quan bảo vệ xã hội dân sự. Giữa hai
người, Locke đi xa hơn Hobbes khi xem quyền lực của nhà nước có khi là
một đe dọa đối với quyền tự do của xã hội dân sự, do đó, nó cần được
giới hạn; và biện pháp giới hạn tốt nhất là phân quyền: trước hết là
tách thần quyền ra khỏi thế quyền; và trong thế quyền, tách lập pháp ra
khỏi hành pháp, tách bộ phận làm luật ra khỏi bộ phận thi hành luật.
Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770-1831) là người đi xa nhất trong
việc xác lập vị trí độc lập của xã hội dân sự khi ông phân biệt gia
đình, xã hội dân sự và nhà nước như ba lãnh vực thuộc ba giai đoạn khác
nhau trong quá trình phát triển biện chứng của lịch sử. Gia đình là giai
đoạn tự nhiên, có khuynh hướng xóa bỏ các khác biệt giữa các thành viên
vì nó được cấu trúc trên tình yêu, lòng vị tha và sự quan tâm đến số
phận chung; trong trường hợp có mâu thuẫn, các thành viên dễ dàng hy
sinh lợi ích của bản thân cho gia đình. Xã hội dân sự được xem là một
phản đề của gia đình: Nếu yếu tính của gia đình là sự đồng nhất và thống
nhất, yếu tính của xã hội dân sự là sự đa dạng và dị biệt; nếu gia đình
dựa trên sự nhường nhịn, xã hội dân sự dựa trên tinh thần cạnh tranh;
nếu gia đình nhắm đến một lợi ích chung, trong xã hội dân sự, mỗi người
theo đuổi một mục tiêu riêng; nếu gia đình có chức năng đoàn kết, dù là
đoàn kết rất hẹp dựa trên quan hệ huyết thống, xã hội dân sự lại có chức
năng phân hóa. Nhà nước xuất hiện như một hợp đề, giai đoạn cuối cùng
trong quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, nhằm hòa giải và hóa
giải hai mâu thuẫn trên.
Như vậy, trong cách nhìn của Hegel, xã hội dân sự nằm giữa gia đình
và nhà nước. Nếu loại trừ gia đình vì đó chỉ là một không gian riêng tư;
trong không gian công cộng, theo Hegel, xã hội dân sự là toàn bộ xã hội
trừ nhà nước. Chỉ trừ nhà nước. Nhưng như vậy, cũng có nghĩa là, theo
Hegel, xã hội dân sự bao gồm cả các hoạt động kinh tế.
Karl Marx (1818-1883) tiếp thu cách nhìn của Hegel xem xã hội dân sự
bao gồm cả lãnh vực kinh tế, thuộc lãnh vực quan hệ kinh tế; tuy nhiên,
từ góc độ kinh tế ấy, cộng với quan điểm giai cấp vốn là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng của ông, ông lại phủ nhận
cách lý giải của Hegel. Thứ nhất, ông cho nhà nước không phải là giai
đoạn phát triển cao nhất của lịch sử và nó cũng không nhắm tới mục đích
hòa giải hay hóa giải các mâu thuẫn trong xã hội: Thực chất, nó chỉ là
công cụ của giai cấp cầm quyền nhằm đàn áp và loại trừ các giai cấp
khác. Thứ hai, cái Hegel gọi là xã hội dân sự thực chất chỉ là xã hội
của giai cấp trưởng giả trong đó người này xem người kia chỉ như những
phương tiện nhằm đạt đến cứu cánh riêng của mình. Trước, giai cấp trưởng
giả dùng xã hội dân sự để chống lại chế độ phong kiến; sau, lại sử dụng
nó để bóc lột giai cấp vô sản. Như vậy, theo Marx, cả nhà nước lẫn xã
hội dân sự đều có tính giai cấp và đều cần phải loại bỏ (2).
Các đệ tử của Marx, sau khi lên nắm chính quyền, không những không
loại bỏ nhà nước mà còn tìm mọi cách để củng cố quyền lực tuyệt đối của
nhà nước. Một trong những cách đó là triệt tiêu vai trò của xã hội dân
sự. Người ta không những triệt tiêu xã hội dân sự với tư cách một tiến
trình mà còn triệt tiêu nó với cả tư cách một ý tưởng: Xã hội dân sự trở
thành một đề tài cấm kỵ (3).
Mà lạ. Ngay ở Tây phương, suốt khoảng nửa thế kỷ, đề tài xã hội dân
sự cũng bị bỏ quên. Các lý thuyết gia, ngay cả khi bàn đến dân chủ và
tiến trình dân chủ hóa, thường chỉ tập trung vào vấn đề phân quyền và
nhân quyền chứ hiếm khi đề cập đến ý niệm xã hội dân sự (4). Ý niệm này
chỉ được phục sinh từ khoảng cuối thập niên 1970, thoạt đầu, ở châu Mỹ
La Tinh và đặc biệt, ở Đông Âu, sau đó, phát triển mạnh mẽ trên khắp thế
giới vào cuối thế kỷ 20 (5).
Tại sao?
Theo Frederik Powell, nếu trước đây, từ Cách mạng Pháp năm 1789 đến
ngày bức tường Berlin bị sụp đổ vào năm 1989, sinh hoạt chính trị thế
giới bị thống trị bởi chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa thế quyền và chủ
nghĩa xã hội, thì hiện nay, nó lại bị chi phối bởi ý niệm xã hội dân sự,
biểu tượng của một bước phát triển mới của dân chủ, như một thứ chính
trị của hiện tại (the politics of the present), gắn liền với chủ nghĩa
hậu hiện đại, nơi những niềm tin vào các đại tự sự (grand narratives) đã
bị sụp đổ (6).
Gyorgy Jenei và Éva Kuti gắn liền sự phục sinh của xã hội dân sự với
làn sóng dân chủ lần thứ ba vào thập niên 1970, lúc quan niệm về dân chủ
có sự chuyển hướng quan trọng: thay vì nhấn mạnh vào kiểu dân chủ đại
biểu (representative democracy), người ta chú ý nhiều hơn đến kiểu dân
chủ tham dự (participatory democracy) (7).
Mary Kaldor giải thích bằng một lý do chính: Toàn cầu hóa. Chính xu
hướng toàn cầu hóa đã làm phát sinh một thứ chính trị phi đảng phái
(non-party politics), như những phong trào xã hội mới làm thay đổi hẳn
cả tư duy lẫn sinh hoạt của mọi người (8). Karel B. Muller giải
thích một cách chi tiết hơn, bằng bốn lý do chính: Một, nó nảy sinh từ
cuộc đấu tranh chống lại chế độ cộng sản toàn trị ở các quốc gia Đông
Âu. Hai, nó hình thành từ nhu cầu xây dựng dân chủ tại các quốc gia này
sau khi chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ. Ba, nó trở thành một nhu cầu khẩn
thiết khi các chế độ hậu-cộng sản bị khủng hoảng. Và cuối cùng, nó là
một phản ứng trước những thay đổi lớn lao và nhanh chóng do làn sóng
toàn cầu hóa mang lại (9).
Vahid Amani Zoeram, Jayum Anak Jawan và Lee Yok Fee bổ sung thêm một lý
do khác: sự phát triển của các phong trào xã hội liên quan đến nữ quyền
hoặc môi trường cũng góp phần làm nảy nở và lan tỏa ý niệm xã hội dân sự
(10).
Càng phát triển và càng được sử dụng rộng rãi, nội dung khái niệm xã hội
dân sự càng trở nên mơ hồ và hàm hồ. Hàm hồ đến độ bất định: Nó có thể
được dùng để chỉ vô số hiện tượng khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau
khiến một số nhà nghiên cứu phải lên tiếng báo động là nó đang mất dần ý
nghĩa (11). Tuy nhiên, Lee Hock Guan nhấn mạnh: tất cả những mâu thuẫn
ấy chỉ làm cho khái niệm xã hội dân sự càng thêm quyến rũ đối với giới
nghiên cứu cũng như các nhà hoạt động xã hội (12). Mà nghĩ cho cùng, đó
chỉ là điều bình thường: Bất cứ khái niệm phổ biến nào cũng dẫn đến tình
trạng tương tự.
Lee Hock Guan tìm ra trong mớ bòng bong những ý kiến khác nhau trong
diễn ngôn về khái niệm xã hội dân sự hai nhóm chính: một nhóm có quan
điểm xung đột (conflict view) xuất phát từ Đông Âu và một nhóm được mệnh
danh là “vốn xã hội” (social capital) chủ yếu xuất phát từ Mỹ.
Các lý thuyết gia theo quan điểm xung đột là những người, trong thập
niên 1970, sống dưới chế độ cộng sản toàn trị, chủ yếu ở Ba Lan, Hungary
và Tiệp Khắc, nơi không có một tổ chức dân sự tự trị nào được phép hoạt
động. Cũng như mọi trí thức trong hoàn cảnh tương tự, họ chỉ có thể đọc
Karl Marx, và từ Karl Marx, đọc thêm Hegel. Ở Hegel, họ học được tầm
quan trọng của xã hội dân sự, như một trung gian giữa gia đình và nhà
nước, nơi mọi cá nhân có thể tự do tập hợp lại với nhau để theo đuổi các
nhu cầu và sở thích riêng. Họ cũng học được, từ Hegel, vai trò của nhà
nước như một cơ quan điều hợp các xã hội dân sự; và với chức năng ấy,
nhà nước trở thành đại diện cho các lợi ích phổ quát và ý chí chung của
toàn dân. Từ những bài học từ Hegel cũng như từ kinh nghiệm trực tiếp
dưới một chế độ toàn trị, họ phát hiện ra xã hội dân sự có thể đóng vai
trò như một giải pháp thứ ba dẫn nước họ đến dân chủ ngoài hai giải pháp
quen thuộc trong lịch sử và đã được nhiều người đề cập: Một giải pháp
từ trên xuống với những cải cách của giới lãnh đạo và một giải pháp từ
dưới lên với những cuộc nổi loạn của dân chúng. Chính những ý tưởng ấy
làm cho người ta càng căm ghét chế độ toàn trị; và càng căm ghét chế độ
toàn trị, người ta càng đề cao xã hội dân sự, xem xã hội dân sự không
phải như một hình thức độc lập mà còn, hơn nữa, một sự đối lập với nhà
nước. Nói theo ngôn ngữ của Václav Havel, nó là một thứ “quyền lực của
những kẻ không có quyền lực” (power of the powerless) (13). Cuối cùng,
chính ý niệm về xã hội dân sự ấy đã gợi hứng cho các trí thức Tiệp Khắc
thành lập nhóm “Hiến chương 77” vào năm 1977 và mấy năm sau, các công
nhân Ba Lan thành lập Công đoàn Đoàn Kết (Solidarity) dẫn đến sự phá sản
của toàn bộ chế độ toàn trị ở Đông Âu vào cuối thập niên 1980 và đầu
thập niên 1990.
Quan điểm “vốn xã hội” nảy sinh từ lý thuyết của Alexis de Tocqueville
(1805-1859), một học giả người Pháp, tác giả cuốn Democracy in America,
được xuất bản lần đầu vào năm 1835. Trong cuốn ấy, de Tocqueville chia
xã hội Mỹ ra làm ba lãnh vực: nhà nước, xã hội dân sự và xã hội chính
trị. Cái gọi là xã hội chính trị ấy bao gồm hai hình thức chính: các tổ
chức chính trị (chính quyền địa phương, các đảng phái và các hội đoàn
công cộng) và các tổ chức dân sự (bao gồm các tổ chức được hình thành
trên cơ sở tự nguyện như nhà thờ, trường học và các hội đoàn chuyên
môn). Theo de Tocqueville, các tổ chức dân sự có chức năng làm mới ý
tưởng và cảm xúc của dân chúng, góp phần nâng cao nhận thức của dân
chúng, từ đó, trở thành một nền tảng tốt cho các tổ chức chính trị.
Robert D. Putnam (sinh năm 1941) đẩy mạnh việc nghiên cứu xã hội dân sự
theo hướng được de Tocqueville đề xuất: Ông cũng tập trung vào các tổ
chức dân sự, nơi, theo ông, vốn xã hội được nảy nở và phát triển; và đến
lượt nó, các vốn xã hội này lại trở thành nền tảng vững chắc cho dân
chủ bằng cách nuôi dưỡng và củng cố các mạng lưới xã hội, sự tin cậy
cũng như thói quen đối thoại và hợp tác giữa các công dân, những yếu tố
chính của văn hóa dân sự (civic culture). Putnam cho một nền dân chủ
lành mạnh chỉ có thể được xây dựng trên một nền văn hóa dân sự kiểu như
thế.
Mặc dù khác nhau như vậy, hai quan điểm xung đột và vốn xã hội bổ sung
cho nhau hơn là loại trừ nhau. Dưới chế độ toàn trị ở Đông Âu, xã hội
dân sự được xem như một hình thức phản kháng và đối lập để được dân chủ
hóa. Nhưng khi chế độ toàn trị đã sụp đổ, nó lại biến thành một cái vốn
xã hội để thiết lập và củng cố những nền dân chủ còn non trẻ và yếu ớt
của họ.
(Đây là bài thứ hai trong loạt bài về “Xã hội dân sự”. Kỳ tới: “Xã hội dân sự như một khu vực thứ ba”)
***
Chú thích:
1. Đăng trên Oxford Develoment Studies số 31 năm 2003, http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1360081032000111751#preview
2. Trong phần trình bày lịch sử phát triển của ý niệm xã hội dân sự ở
trên, tôi sử dụng nhiều tài liệu, trong đó, quan trọng nhất là cuốn
Civil Society: The Critical History of an Idea của John Ehrenberg do New
York University Press xuất bản tại New York năm 1999; cuốn Civil
Society của Michael Edwards (ấn bản lần thứ 2) do Polity xuất bản tại
Cambridge năm 2010; và một phần trong cuốn A Civil Republic, Beyond
Capitalism and Nationalismcủa Severyn T. Bruyn do Kumarian xuất bản tại
Bloomfield (Mỹ) năm 2005 (tr. 17-66).
3. O.I. Shkaratan & E.N. Gurenko, “From Statocracy to Evolution of Civil Society”, Soviet Sociology số 30 (1991), tr. 68-87.
5. Marlies Glasius, David Lewis, Hakan Seckinelgin (2004), Exploring
Civil Society: Political and Cultural Contexts, London: Routledge, tr.
170.
6. Frederik Powell (2007), The Politics of Civil Society: Neoliberalism or Social Left?, Bristol: The Policy Press, tr. 1-25.
7. Gyorgy Jenei & Éva Kuti, “The Third Sector and Civil Society” in
trong cuốnThe Third Sector in Europe: Prospects and Challenges do
Stephen Osborne biên tập, Routledge xuất bản tại Hoboken, tr. 11.
8. Marlies Glasius, David Lewis, Hakan Seckinelgin (2004), sđd, tr. 168.
9. Karel B. Muller, “The Civil Society-State Relationship in
Contemporary Discourse: A Complementary Account from Giddens’
Perspective” đăng trên tờ The British Journal of Politics &
International Relations số 8 ra tháng 5 năm 2006.
10. Vahid Amani Zoeram, Jayum Anak Jawan và Lee Yok Fee, “The
Epistemology of the Concept of Civil Society in the West and Iranian
Interpretations” đăng trên Canadian Social Science số 6 năm 2010.
11. Krishna Kumar (1993), “Civil Society: An Inquiry into the Usefulness
of an Historical Term”, British Journal of Sociology, số 44, 1993, tr.
375-395.
12. Lee Hock Guan (2004), Civil Society in Southeast Asia, Singapore: Institute of Southeast Asia Studies, tr. 2.
13. Có thể xem toàn văn bài tiểu luận này bằng tiếng Anh trên http://www.vaclavhavel.cz/showtrans.php?cat=clanky&val=72_aj_clanky.html&typ=HTML. Bản dịch tiếng Việt của Khải Minh trên http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6321&rb=08
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2013/01/xa-hoi-dan-su-nhu-mot-pham-tru-nhan-thuc.html#more
=====================================================================
Xã hội dân sự như một khu vực thứ ba
- Văn hoá (các hội đoàn tôn giáo, sắc tộc, cộng đồng nhằm bảo vệ các quyền, giá trị, niềm tin và biểu tượng của mình)
- Thông tin và giáo dục (nhằm sản xuất và phân phối tin tức, kiến thức và ý tưởng đến người khác)
- Liên quan đến quyền lợi hay sở thích (các nhóm bảo vệ hoặc tranh đấu cho sở thích hoặc quyền lợi của mình, như các nghiệp đoàn, các hội cựu chiến binh, các hội nghề nghiệp…)
- Phát triển (các tổ chức tìm kiếm, tập hợp và đào luyện nhân lực, đặc biệt, những người có tài năng để nâng cao chất lượng đời sống của cộng đồng)
- Các phong trào tập trung vào một vấn đề nào đó, ví dụ, để bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu thụ, quyền của phụ nữ, của các sắc tộc thiểu số, của người khuyết tật hay chống lại nạn kỳ thị trong xã hội hoặc nạn bạo hành trong gia đình, v.v.
- Các nhóm dân sự nhắm đến việc tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền, chống tham nhũng, chống chiến tranh, v.v. (4)
Xã hội dân sự như một khu vực thứ ba
Nguyễn Hưng Quốc (VOA) - Từ
chỗ được hiểu là xã hội loài người nói chung, như một hình thức đối lập
với trạng thái tự nhiên hoang dã, thời cổ đại và trung đại, xã hội dân
sự dần dần được hiểu là một không gian sinh hoạt của các công dân trong
mọi lãnh vực, từ kinh tế đến chính trị; sau đó, từ đầu thế kỷ 19, nó
loại trừ dần yếu tố chính trị; và cuối cùng, từ đầu thế kỷ 20, loại trừ
cả yếu tố thị trường kinh tế.
Như vậy, theo cách hiểu chung hiện nay, xã hội dân sự là xã hội trừ
chính trị và trừ thị trường. Lý do, như Alan Wolfe chứng minh (1),
cả chính trị lẫn thị trường đều là những lực lượng tàn phá. Trong chính
trị, con người không được đối xử như những con người thực sự và toàn
diện: Họ chỉ được nhìn như những kẻ cai trị và những người bị trị; ngay
trong chế độ dân chủ, họ cũng chỉ được nhìn chủ yếu như những công dân
và những cơ hội; họ nối kết với nhau vì những lợi ích tức thời hoặc dưới
áp lực của quyền lực. Có thể nói, trong chính trị, con người chỉ có một
kích thước duy nhất: quyền lực. Con người được phân chia theo quyền
hoặc hành xử theo những quyền lực mà mình có hoặc không có. Trong thị
trường cũng vậy: Con người được chia thành hai hạng: con buôn và khách
hàng; cả hai đều đuổi theo các quyền lợi riêng. Sự nối kết của họ chỉ có
tính chất tạm thời. Xã hội dân sự thì khác, ở đó, mọi người đến với
nhau một cách vô vị lợi, xuất phát từ một thôi thúc bên trong khiến họ
muốn hội nhập vào xã hội để tương tác với người khác. Và giúp đỡ người
khác, nếu cần.
Có thể nói xã hội dân sự mở ra một kích thước khác trong đời sống xã hội
để xã hội thực sự là một xã hội, một không gian sinh sống của con người
với tư cách con người tự do, liên đới và trách nhiệm, ở đó, họ vừa được
ra khỏi không gian hạn hẹp của gia đình vừa thoát ly khỏi sự khống chế
của quyền lực và quyền lợi. Ở đó, họ vừa là công dân vừa là con người
cùng lúc. Với tư cách công dân, họ có thể tranh đấu để bản thân mình
cũng như các công dân khác được sống như những con người thực sự. Với tư
cách con người, họ có thể đi đến giúp đỡ những quốc gia khác như điều
chúng ta thấy trong các tổ chức từ thiện quốc tế.
Với cách hiểu như thế, nhiều người xem xã hội dân sự như một khu vực thứ
ba (the Third Sector) trong xã hội. Cách gọi này được ra đời và trở
thành phổ biến vào năm 1973 khi Theodore Levitt xuất bản cuốn The Third
Sector: Tactics for a Responsive Society và Amitai Etzioni xuất bản cuốn
The Third Sector and Domestic Missions. Cả hai đều gây tiếng vang và có
ảnh hưởng lớn không những đến các ngành nghiên cứu chính trị học, xã
hội học mà còn đối với những nhà hoạt động xã hội cũng như những người
hoạch định chính sách ở các quốc gia Tây phương. Từ đó, các văn kiện
chính phủ cũng như sách giáo khoa ở nhiều nước thường chia sinh hoạt
quốc gia thành ba khu vực chính: khu vực công (public sector), khu vực
kinh tế tư nhân (private economy) và khu vực thứ ba với “những tổ chức do dân chúng thành lập trên căn bản tự nguyện và nhắm đến các mục tiêu xã hội và cộng đồng” (2).
Đặc điểm nổi bật nhất của khu vực thứ ba là vai trò trung gian. Nhưng là
trung gian của những gì? Trước, ở thế kỷ 19, với Hegel, đó là trung
gian giữa gia đình và nhà nước; ở đầu thế kỷ 20, với Antonio Gramsci
(1891-1937), giữa không gian công cộng (bao gồm nhà nước và thị trường)
và không gian riêng tư của gia đình và bạn bè. Tuy nhiên, sau này, hầu
như tất cả mọi người đều hiểu đó là sự trung gian giữa nhà nước và thị
trường, giữa nguy cơ trở thành áp chế của nhà nước và tính chất vô cảm
của thị trường (3).
Còn được gọi dưới nhiều tên khác nhau như “khu vực phi lợi nhuận” - nonprofit sector - hoặc “khu vực phi chính phủ”
- nongovernmental sector (NGOs)- hoặc “khu vực tự nguyện” - voluntary
sector, khu vực thứ ba bao gồm nhiều tổ chức với những kích thước, mục
tiêu và tính chất khác nhau, như các trung tâm từ thiện, các quỹ xã hội
(foundation), các hội đoàn, nghiệp đoàn thuộc các lãnh vực chính:
- Kinh tế (các mạng lưới hoặc hội đoàn thương mại hoặc sản xuất)
- Văn hoá (các hội đoàn tôn giáo, sắc tộc, cộng đồng nhằm bảo vệ các quyền, giá trị, niềm tin và biểu tượng của mình)
- Thông tin và giáo dục (nhằm sản xuất và phân phối tin tức, kiến thức và ý tưởng đến người khác)
- Liên quan đến quyền lợi hay sở thích (các nhóm bảo vệ hoặc tranh đấu cho sở thích hoặc quyền lợi của mình, như các nghiệp đoàn, các hội cựu chiến binh, các hội nghề nghiệp…)
- Phát triển (các tổ chức tìm kiếm, tập hợp và đào luyện nhân lực, đặc biệt, những người có tài năng để nâng cao chất lượng đời sống của cộng đồng)
- Các phong trào tập trung vào một vấn đề nào đó, ví dụ, để bảo vệ môi trường, bảo vệ người tiêu thụ, quyền của phụ nữ, của các sắc tộc thiểu số, của người khuyết tật hay chống lại nạn kỳ thị trong xã hội hoặc nạn bạo hành trong gia đình, v.v.
- Các nhóm dân sự nhắm đến việc tranh đấu cho dân chủ, nhân quyền, chống tham nhũng, chống chiến tranh, v.v. (4)
Danh sách ở trên dĩ nhiên không đầy đủ. Không thể đầy đủ. Khác với hai
khu vực còn lại - khu vực nhà nước và khu vực thị trường - vốn là những
thực thể gắn liền với những thiết chế rõ ràng, khu vực thứ ba, như một
khu vực trung gian, vừa đa dạng vừa không ngừng biến dịch không những
theo thời gian mà còn theo không gian. Dù vậy, theo Salamon và Anheier,
tất cả các tổ chức thuộc khu vực thứ ba đều phải đáp ứng được năm tiêu
chí chính:
1. Phải là một tổ chức chính thức;
2. Phải riêng tư, nghĩa là không thuộc về chính phủ;
3. Phải thực sự phi lợi nhuận, nghĩa là số lợi tức thu nhập được,
bất kể từ nguồn nào, nếu có, chỉ được dùng để đầu tư và phát triển thêm
chứ không được chia cho người sáng lập hay các thành viên;
4. Phải tự quản (nghĩa là độc lập với nhà nước và thị trường); và
5. Mọi sự tham gia đều có tính chất tự nguyện. (5)
Xin lưu ý là các tiêu chí trên chỉ được áp dụng một cách chặt chẽ ở Mỹ
và những quốc gia chịu ảnh hưởng của Mỹ. Ở một số quốc gia ở châu Âu,
người ta tin khu vực thứ ba không phải là một không gian biệt lập mà
thực chất chỉ là một sự lai ghép (hybrid), đan kẽ giữa hai khu vực công
và tư, bởi vậy, họ chấp nhận là thuộc khu vực thứ ba một số tổ chức có
quan hệ chặt chẽ với nhà nước (chuyên về phúc lợi xã hội) cũng như với
các tổ chức thương mại (như các tổ hợp hay các quỹ tương tế có mục đích
phục vụ xã hội) (6). Từ kinh nghiệm ở Nga trong giai đoạn chuyển
tiếp từ thời cộng sản sang hậu-cộng sản, T.H. Rigby cho tính chất tự trị
của xã hội dân sự là một ý niệm rất tương đối (7). Quan niệm này được hầu hết các nhà nghiên cứu về xã hội dân sự ở châu Á đồng ý (8).
Điều quan trọng nhất ở khu vực thứ ba không phải là ở cấu trúc mà là ở
quan hệ hay ở tinh thần của nó. Olaf Corry phân biệt hai cách tiếp cận
khái niệm khu vực thứ ba: Một cách được gọi là bản thể luận (ontological
approach) tập trung vào việc nhận diện khu vực thứ ba là gì; một cách
được gọi là nhận thức luận (epistemological approach) tập trung vào việc
phân tích các tổ chức thuộc khu vực thứ ba này vận hành như thế nào,
được hiểu và phát huy ý nghĩa như thế nào. Từ góc độ bản thể luận, khu
vực thứ ba là một thực thể; từ góc độ nhận thức luận, nó là một tiến
trình. Từ góc độ bản thể luận, nó là một cơ chế; từ góc độ nhận thức
luận, nó là một vùng tương tác, đối thoại, thậm chí tranh chấp giữa các
hệ thống và các lực lượng khác nhau (9).
Nhìn từ góc độ bản thể luận, khu vực thứ ba đúng là một… khu vực, nghĩa
là một cái gì hữu hình với những ranh giới cụ thể. Nhưng nhìn từ góc độ
nhận thức luận, chúng ta dễ dàng thấy ngay cái được gọi là khu vực thứ
ba ấy không hoàn toàn đồng nhất với khái niệm xã hội dân sự. Đó là lý do
tại sao Antonin Wagner cho đó là hai khái niệm khác nhau dù rất gần gũi
và có quan hệ tương tác chặt chẽ với nhau (10). Trong bài “Third Sector and Civil Society”
trên trang nhà của Social Economy and Civil Society, người ta cũng nhấn
mạnh: “Đây là hai khái niệm không đồng nghĩa mặc dù cả hai chia sẻ
nhiều khía cạnh trùng lấp lên nhau.” (11) Augustus Richard Norton
quan niệm xã hội dân sự là một cái gì lớn và rộng hơn một tập hợp các
hình thức đoàn thể khác nhau: Nó bao gồm cả những tinh thần và tính chất
mà thiếu chúng, xã hội chúng ta hiện nay sẽ không khác gì các chế độ
phong kiến ngày xưa. Trong đó, quan trọng nhất là tinh thần công dân và,
trong tinh thần công dân, quan trọng nhất là thái độ bao dung, sẵn sàng
chấp nhận những khác biệt và cũng sẵn sàng chấp nhận sự thật là không
phải vấn đề gì cũng có một câu trả lời duy nhất đúng đắn (12).
Có thể nói khu vực thứ ba chỉ là xác trong khi xã hội dân sự mới thực sự
là linh hồn. Không có linh hồn nào thực sự tồn tại ngoài thể xác (ít
nhất qua những gì loài người có thể kinh nghiệm được) nhưng thể xác thì
có thể không có linh hồn: Có những hình thức thuộc khu vực thứ ba không
phải là xã hội dân sự nhưng xã hội dân sự nào cũng đòi hỏi được thể hiện
qua các hoạt động tự nguyện, phi lợi nhuận và phi chính phủ (với những
mức độ khác nhau). Cũng có thể nói, yếu tính của khu vực thứ ba là tình
nghĩa và tinh thần trách nhiệm với đồng nghiệp, đồng bào hoặc đồng loại,
còn yếu tính của xã hội dân sự lại là lý tưởng về tự do, bình đẳng và
dân chủ. Khu vực thứ ba thuộc về hiện tại; xã hội dân sự hướng tới tương
lai.
Trong cái gọi là tương lai ấy, lý tưởng quan trọng nhất là dân chủ.
(Đây là bài thứ ba trong loạt bài về “Xã hội dân sự”. Kỳ tới: “Xã hội dân sự như một tiến trình dân chủ hóa”)
***
Chú thích:
1. Alan Wolfe (1989), Whose Keeper? Social Science and Moral Obligation, Berkeley: University of California Press, tr. 12.
2. Olaf Corry, “Defining and Theorizing the Third Sector”, in
trong cuốn Third Sector Research do Rupert Taylor biên tập (2010),
University of Witwatersrand xuất bản tại Gauteng (Nam Phi), tr. 13.
3. Olaf Corry, trong bài dẫn trên, nhận xét: đáng lẽ gọi là khu vực thứ tư vì phải kể đến gia đình và gia tộc, tr. 11.
4. www.march.es/ceacs/publicaciones/working/archivos/1997_101.pdf -
5. Lester Salamon & Helmuk Anheier, “In search of the
non-profit sector I: The question of definitions”, Voluntas số 3, 1992,
tr. 125-151.
6. Adalbert Evers & Jean-Luois Laville (2004), The Third Sector in Europe, Cheltenham: Elgar Publishing Limited, tr. 13.
7. T.H. Rigby, “The USSR: End of a Long Dark Night?”, in trong
cuốn The Development of Civil Society in Communist Systems do Robert F.
Miller biên tập (1992), Sydney: Allen and Unwin, tr. 11-14.
8. Xem cuốn Civil Society in Southeast Asia do Lee Hock Guan biên
tập (2004), Institute of Southeast Asian Studies xuất bản tại Singapore
hay cuốn Civil Society in China do Timothy Brook & B. Michael
Frolic biên tập (1997) M.E. Sharpe xuất bản tại New York.
9. Olaf Corry, bài đã dẫn, tr. 12.
10. Antonin Wagner, “Third sector and/or Civil society: a
critical discourse about scholarship relating to intermediate
organisations”, Voluntary Sector Review, số 3, 2012, tr. 299-328.
12. Civil Society, A Reader in History, Theory and Global
Politics do John A. Hall & Frank Trentmann biên tập (2005), Palgrave
xuất bản, tr. 278.
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2013/01/xa-hoi-dan-su-nhu-mot-khu-vuc-thu-ba.html#more
=====================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001