Vũ Ánh
Ðây không phải là một câu chuyện mới mẻ gì. Nó chỉ là câu chuyện cũ về
điều mà nhiều người dân miền Bắc cho tới nay vẫn tin là “bác bôn ba hải
ngoại để tìm đường cứu nước.”
Nhưng nếu họ được phép “thong thả” đọc cuốn biên niên thời sự “Bên Thắng
Cuộc” của Huy Ðức thì họ sẽ thấy từ trang 255 cho đến trang 265, những
người phụ tá thân cận của ông Hồ tiết lộ trong những cuộc phỏng vấn của
tác giả hay trong những tài liệu mà không phải ai cũng tiếp cận được sẽ
thấy nó chứa đựng nhiều điều khác hẳn với suy nghĩ của họ. Nội dung của
những lời lẽ của những nhân chứng nói trên đã phơi bầy ra một thực tế mà
từ trước đến nay không ai trong số những tác giả ở Việt Nam dám đề cập
tới: đó là việc ông Hồ không tìm ra ra được con một con đường nào để cứu
nước cả. Áp lực rất nặng nề về viện trợ của Bắc Kinh và Liên Xô khiến
ông ta chỉ còn cách nhắm mắt bước vào một ngõ cụt là thực hiện những gì
mà các “đàn anh, đàn thầy” mình áp đặt. Tác giả “Bên Thắng Cuộc” trích
dẫn lời của Hoàng Tùng, chánh văn phòng Trung ương để chứng minh con hẻm
đó như thế nào, xin trích:
“Cho dù Stalin và Mao tiếp tục thúc ép, tại Ðại Hội II diễn ra vào
năm 1951, thay vì chủ trương cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường
Chinh (Ðặng Xuân Khu) đã đưa ra thuyết 'ba giai đoạn' theo đó trước hết
phải giảm tô, giảm tức rồi mới đi đến cải cách ruộng đất. Theo lời ông
Hoàng Tùng: thuyết ba giai đoạn của Trường Chinh đưa ra tại Ðại Hội II
là có ý kiến của ông Hồ, nhưng Trường Chinh phân tích rất hay. Năm 1946,
khi họp Xứ ủy, tôi đã được nghe ông (Trường Chinh) nói rằng, những cải
cách nhỏ đều có ý nghĩa cách mạng, nhiều cải cách nhỏ cộng lại thành
cuộc cách mạng lớn. Nhưng sau Ðại Hội, theo ông Hoàng Tùng, Mao và
Stalin đã gọi ông Hồ sang nhất định bắt phải làm (theo đường lối của
họ). Mao Trạch Ðông nói thẳng: nếu các đồng chí (họ Hồ) không cải cách
ruộng đất, chúng tôi sẽ không viện trợ nữa. Ðể có viện trợ từ Liên Xô và
Trung Quốc, Hồ Chí Minh đã phải chấp nhận cuộc đấu tranh giai cấp ở một
nước Ðông phương, điều mà trước đó ông đã từng cho là không thích hợp.”
Những điều mà ông Hoàng Tùng nói ra từ trước đến nay vẫn được coi là
“tuyệt mật.” Thời kỳ “đổi mới” của ông Nguyễn Văn Linh, một vài viên
chức cấp trung và thấp có nói mé trên một vài tờ Tin Sáng cuối cùng
trước khi tờ báo này bị đóng cửa về điều gọi là “sức ép của các đàn anh”
sau khi một phần của những số báo này lọt được vào trong tù qua những
lần các bạn tù của tôi được thăm nuôi. Người nhà họ khéo léo ngụy trang
những bài báo nói trên trong những bao bì gói quà tiếp tế. Theo Huy Ðức,
chính vì Stalin và Mao quá giáo điều cho nên ông Hồ phản ứng mạnh đối
với kế hoạch cải cách ruộng đất theo kiểu của họ mà thôi, chứ thực tế
thuyết “ba giai đoạn” của Trường Chinh đã thể hiện một cách rõ ràng bước
đi của một nhà nước công nông đúng theo như các lãnh đạo đệ tam quốc tế
chủ trương. Cũng vẫn theo tác giả, sau khi chính phủ Ðoàn kết Dân tộc
tan vỡ và nhất là thời kỳ chính phủ Việt Minh rời bỏ Hà Nội lên chiến
khu Việt Bắc, các chính sách mang mầu sắc giai cấp đã bắt đầu được hình
thành.
Ðây chính là thời điểm bố tôi cùng nhiều người bạn của ông phải “dinh
tê” có nghĩa là phải bỏ kháng chiến để trở về vùng “tề” hay còn có một
từ ngữ khác là “về thành.” Huy Ðức trích dẫn một trong những sắc lệnh
của Hồ Chí Minh đầu tiên về cải cách ruộng đất:
“Ngày 14 tháng 7, 1949, Hồ Chí Minh ký sắc lệnh buộc các chủ điền
phải giảm tô cho các tá điền từ 25 đến 35%, lấy ruộng đất của điền chủ
người Pháp và người Việt bị ghép tội Việt gian để chia cho nông dân.
Ngày 22 tháng 5, 1950, ông ta lại ký sắc lệnh khác xóa bỏ hợp đồng vay
nợ giữa chủ điền và tá điền trước năm 1945, nếu là món nợ sau năm 1945
thì chỉ trả vốn mà không phải trả lãi. Ngày 20 tháng 4, 1953 ông Hồ lại
ký sắc lệnh “Giảm tô” bằng cách giảm thêm giá thuê đất 25% để tổng số
tổn phí của tá điền không quá 1/3 hoa lợi.”
Thế nhưng xương sống của những sắc lệnh của ông Hồ từ 1949 đến 1953 là
bạo lực chính trị để bắt buộc người dân miền Bắc phải theo chính là
chính sách đấu tố ruộng đất. Ðể thăm dò phản ứng và để thị uy, ông Hồ ra
lệnh cho ông Trường Chinh thực hiện với 6 xã thí điểm ở huyện Ðại Từ
thuộc tỉnh Thái Nguyên và sau đó chính thức thực hiện vào năm 1953. Về
tổng quát, những điều mà tác giả “Bên Thắng Cuộc” đưa ra không phải là
những điều mới mẻ, nhưng một vài chi tiết là những bằng chứng mới cho
thấy ông Hồ và những phụ tá thân cận của ông biết rằng những áp lực của
Bắc Kinh và Ðiện Kremlin ép họ phải thực hiện ngay chính sách cải cách
ruộng đất bằng đấu tố sẽ gây ra những hậu quả tai hại, điều mà ông Hồ
vẫn cho rằng “đó là điều không phải.” Tại Hội nghị Trung Ương 5 họp từ
ngày 14 đến ngày 23 tháng 11, 1953, Hồ Chí Minh đã đọc một bài diễn văn,
trong đó ông nhấn mạnh: “Vấn đề mấu chốt là cải cách ruộng đất” và “để
đẩy mạnh kháng chiến (chống Pháp), chúng ta phải ra sức thực hiện cải
cách ruộng đất.”
Lời lẽ của Hồ Chí Minh mặc nhiên là một lời xác nhận và là một lệnh cho
những cấp dưới của ông phải tiến hành ngay việc đấu tố ruộng đất làm như
đó là một quyết định của chính ông ta chứ không phải là quyết định từ
Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa. Và để che giấu sự việc ông và tập đoàn lãnh đạo
Việt Minh bị ngoại bang dùng viện trợ (để kháng chiến) để buộc mình
phải làm, ông Hồ còn tự phê, xin trích:
“Chúng ta đã nặng về đoàn kết địa chủ để kháng chiến mà không xem
trọng đầy đủ vấn đề nông dân và vấn đề ruộng đất. Nông dân ta chiếm 95%
dân số mà chỉ có 3/10 ruộng đất, quanh năm khó nhọc và suốt đời nghèo
nàn. Giai cấp địa chủ không đầy 5% nhân số mà chiếm hết 7/10 ruộng đất,
ngồi mát ăn bát vàng. Tình trạng ấy thật là không công bằng. Nước ta bị
xâm lược, dân ta lạc hậu và bần cùng cũng vì đó.”
Ông Hồ nói tới mục đích của cải cách ruộng đất, đó là “tiêu diệt chế độ
phong kiến, chiếm hữu ruộng đất, giải phóng nông dân, thực hiện người
cày có ruộng, bồi dưỡng nông dân, phát triển sản xuất, đẩy mạnh kháng
chiến.” Phương châm mà ông ta đưa ra là: “Làm cho nông dân tự giác, tự
nguyện đấu tranh giành lại quyền lợi của mình, dùng lực lượng nông dân
để giải phóng nông dân,” với phương thức để thực hiện: “phóng tay phát
động quần chúng nông dân và lãnh đạo quần chúng nông dân đấu tranh, phải
dựa hẳn vào quần chúng nông dân, đi đúng đường lối quần chúng, tuyệt
đối chớ dùng cách ép buộc, mệnh lệnh, bao biện.” Cái lối kể chuyện lại,
trích dẫn nhưng câu chữ của họ Hồ, nghe qua có thể làm cho độc giả chán
nản, bảo: “Ồ, câu chuyện này ai mà chẳng biết.” Nhưng với những người
cần tìm ra những bằng chứng để thiết lập một cáo trạng đối với mặt trận
Việt Minh trong việc lợi dụng lòng yêu nước của người Việt Nam, lợi dụng
kháng chiến để áp đặt lên đầu lên cổ dân chúng cái ách Cộng sản thì
những câu chữ của ông ta là những thông tin cần thiết.
Thế giới cộng sản là thế giới còn có rất nhiều khoảng tối chưa được soi
sáng. Những người ở ngoài thế giới u minh này chỉ hiểu được một phần rất
nhỏ những khoảng tối ấy. Cho nên họ rất cần những người từng ở trong
cái chăn của chế độ còn giữ được lương tri viết lên một phần sự thật về
những con rận vẫn còn ẩn núp trong bóng tối. Từ 38 năm qua, trong cộng
đồng người Việt Nam ở hải ngoại, nhất là trong những cộng đồng người
Việt Nam tại Mỹ, người ta hay có thói quen tự cô lập mình và tự tạo ra
những điều cấm kỵ đối với quê hương cũ của mình. Cho nên, nhiều người
vẫn mù mờ đối những vấn đề tại Việt Nam, ngay cả vấn đề lịch sử của cuộc
chiến quốc cộng trước đây. Từ chỗ đặt ra những điều cấm kỵ, những nhà
lãnh đạo và những chính trị gia cộng đồng tiến tới việc “phịa” ra những
nguyên tắc đi ngược lại tự do tư tưởng: viết phải có lập trường, nghiên
cứu cũng phải có lập trường chống Cộng, thậm chí họ tiến tới việc vi
phạm vào nhân quyền khi đặt vấn đề tư cách chính trị của nhiều tác giả.
Cầm tới một cuốn sách, không cần biết những dữ kiện trong phần nội dung
có khả tín hay không mà chỉ cần hỏi: “Ông này là ai, từ đâu đến, VNCH
hay Việt Cộng?” Ðó là lý do người ta hiểu tại sao trong gần 4 thập niên,
các tác phẩm nào gây được tiếng vang trong cộng đồng người Việt là một
con số nhỏ nhoi vì những tác giả “phe ta” chỉ viết cho phe ta đọc. Do
chỉ viết cho “phe ta” đọc cho nên nhiều tác giả phải tránh những cái hố
cấm kỵ và không tác giả nào lại dại dột phơi bầy ra những mảng tối chưa
được soi sáng của phe mình !
Tôi nêu ra những yếu tố trên chỉ là có lý do để đưa ra một lời cảnh giác
với tư cách của một người thích đọc sách mà thôi: đừng có quá đơn giản
khi phủ nhận một tác phẩm nghiên cứu chỉ vì xuất xứ của tác giả. Hãy chú
ý đến những thông tin và mức khả tín của chúng trong tác phẩm để giúp
cho những nhận định riêng và độc lập của mình. Chẳng hạn như ở trang 262
trong “Bên Thắng Cuộc,” tác giả đưa ra một loạt những phương thức thực
hiện trong chính sách đấu tố ruộng đất vốn là những điều mà tác giả từ
phía người quốc gia đã nhắc tới nhiều, nhưng phần lớn đó là những kinh
nghiệm cá nhân. Huy Ðức thuộc thế hệ của những thanh niên miền Bắc mới
lớn sau chiến tranh Quốc Cộng đã có một cái nhìn tổng quát hơn về hậu
quả của chính sách cải cách ruộng đất. Trong vụ này, người ta mới chỉ
thấy ông Trường Chinh chính thức lên tiếng nhận sai lầm trong các hoạt
động cải cách ruộng đất khiến chúng biến thành các cuộc hành hình mang
tính giai cấp để chữa cháy cho ông Hồ. Cho tới nay, con số thực của
những người chết vì đấu tố vẫn chưa được cấp cao nhất trong đảng Cộng
sản chính thức xác nhận. Tuy nhiên, dường như tác giả “Bên Thắng Cuộc”
đã có thể rút ra những con số thiệt hại từ Nội San Cải Cách Ruộng Ðất
ngày 25 tháng 2, 1956, một nội san phổ biến hạn chế trong số những viên
chức, cán bộ Ủy Ban Cải Cách Ruộng Ðất để đưa ra thông tin, xin trích:
“Số người bị qui oan lên tới 123,266 chủ yếu vì các biện pháp truy
bức để 'đôn' tỷ lệ địa chủ lên 5% dân số như một định mức bắt buộc, dùng
nhục hình như đánh, trói, giam cầm khi chưa có tòa án xét xử, kích động
và hù dọa quần chúng để họ tố oan cho nạn nhân. Ở trên thì ‘phóng tay
phát động’, ở dưới những ‘đoàn’, những ‘đội’ cải cách tha hồ lộng quyền,
‘nhất đội, nhì giời’. Một quốc gia nghèo như Việt Nam mà các đội đã đưa
được 'định mức địa chủ' lên tới 5.68% dân số các địa phương tham gia.”
Tác giả không đưa ra ý kiến của mình về tỷ lệ 5.68% địa chủ trong một
quốc gia nông nghiệp nghèo đói như Việt Nam vào thập niên 40, 50. Nhưng
độc giả chắc chắn sẽ có những so sánh và người ta sẽ lạnh xương sống khi
nghĩ đến việc giết người có định mức mà tập đoàn Hồ Chí Minh chủ trương
và thực hiện. Cá nhân, những thông tin này giúp tôi hiểu lý do tại sao
làng tôi chỉ là một làng rất nghèo cách thành phố Hải Phòng không xa
lắm, bà nội tôi chỉ có 10 mẫu ruộng mà cũng bị đấu tố chết trong đợt
phóng tay phát động cuối cùng mà Huy Ðức đề cập tới trong “Bên Thắng
Cuộc.” Nhưng ngày nay chuyện bà nội tôi chết oan không còn là vấn đề cá
nhân gia đình tôi nữa mà là vấn đề của lịch sử đất nước. Lịch sử cần có
thêm những người viết lại, viết thêm về thảm kịch này, không phải là để
chửi rủa thù oán, mà là để cho những thế hệ mai sau và trước mắt thế hệ
trẻ hiện nay ở Việt Nam cũng như ở hải ngoại có thể rút ra được những
bài học.
Hồ Chí Minh qua đời năm 1969. Những thuộc hạ của ông ta đã xây một lăng
tẩm rất lớn tại quảng trường Ba Ðình. Thời kỳ Việt Nam còn đóng cửa với
thế giới bên ngoài, những khách ngoại quốc hay trong nước thăm Hà Nội
thường được yêu cầu vào viếng xác ướp của “Bác.” Khách được chụp hình
đăng trên báo Nhân Dân để làm bằng chứng về nghi thức ngoại giao. Nhưng
từ năm 2000 đến nay, cảnh này không còn diễn ra nữa, một phần cũng vì Hà
Nội hiểu rằng hợp đồng kinh tế và những dự án viện trợ, vay nợ, việc
chia chác quyền lực, đàn áp những nhà bất đồng chính kiến, cấu véo công
quĩ làm của riêng ngày nay quan trọng hơn việc dẫn khách viếng thăm xác
ướp của họ Hồ. Ngay cả đối với dân chúng miền Bắc, ngày nay ông Hồ cũng
không còn là hình ảnh thiêng liêng như trước đây dù lệnh bất khả xâm
phạm đối với cái tên của ông ta vẫn còn trên cửa miệng những người cầm
quyền. Một phụ tá rất quan trọng của ông Hồ là ông Hoàng Tùng cũng tiết
lộ những chi tiết về người “boss” của mình đã giúp cho những người thích
lên án có thể cáo buộc ông Hồ tội nhúng tay vào máu của ngay cả những
người ân của mình. Ở các trang 263 và 264, Huy Ðức đã chọc vào đúng “ổ
kiến lửa” ở Hà Nội, xin trích:
“Theo ông Hoàng Tùng, về sau chính Hồ Chí Minh đã phải than: ‘Mình
nói để mình đánh Pháp xong đã rồi sẽ cải cách ruộng đất theo cách của
Việt Nam, nhưng mà (họ) cứ ép cho bằng được. Biết bao trí thức địa chủ
đã theo Việt Minh, đóng góp tiền bạc từ những ngày khó khăn, giờ đây bị
‘hai ông anh lớn’ (Nga và Trung Cộng) phải chấn chỉnh lại, không địa
chủ, người có gốc ‘Tây’ đứng trong tổ chức. Giữa thập niên 50, 'địa chủ
không kháng chiến' thì đã 'dinh tê'. Cải cách đấu tố, theo ông Hoàng
Tùng ‘coi như đánh vào lực lượng mình.’ Ông Hoàng Tùng còn kể lể thêm:
'Khi ấy tôi thường họp Bộ Chính Trị nên cũng biết một số việc, trong đó
có việc thí điểm cải cách (ruộng đất) chọn bắn bà Nguyễn Thị Năm. Bà Năm
nổi tiếng ở Hà Nội với tên gọi là Cát Hanh Long. Bà có con trai là cán
bộ Việt Minh, một người là cán bộ cấp bậc trung đoàn trưởng làm việc ở
Cục Chính Trị của Văn Tiến Dũng. Từ năm 1945 đến 1953, bà Năm tham gia
công tác ở Hội Phụ Nữ. Trong 'tuần lễ vàng', gia đình bà hiến 100 lượng
vàng. Vẫn theo ông Hoàng Tùng ‘các anh Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng,
Hoàng Quốc Việt, Lê Ðức Thọ thường ăn cơm ở nhà bà và được bà Năm coi
như con. Họp Bộ Chính Trị ‘Bác’ nói: ‘Tôi đồng ý người có tội thì phải
xử, nhưng tôi cho là không phải đạo khi phát súng đầu tiên lại nổ vào
người đàn bà và người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng.’ Nhưng sau đó cố vấn
Trung Quốc Lã Quí Ba đề nghị mãi, ông Hồ nói: ‘Thôi tôi theo đa số chứ
tôi vẫn cho là không phải.’ Ông Hoàng Tùng nói: ‘Hồ Chí Minh bị nó
(Trung Cộng) coi là hữu khuynh. Khi ấy mà kháng cự thì nó cắt viện trợ.’
Ðể có viện trợ, theo ông Hoàng Tùng ‘Mỗi ngày đội cải cách thường phải
tìm cho ra một người đến bắn thị uy, nói là để cho nông dân phấn khởi.
Tôi đi xem bắn một vụ, tôi thương quá, anh ấy chỉ có 7.5 mẫu ruộng.'
Chính Hồ Chí Minh và các ủy viên Bộ Chính Trị đều biết các đội đã dùng
nhục hình để qui sai địa chủ, nhưng việc chấn chỉnh chỉ dừng lại ở những
lời răn dạy.”
Vào tháng 10 năm 1956, Bộ Chính Trị thừa nhận:
“Do tư tưởng chỉ đạo tả khuynh, tác phong đại khái, quan liêu, độc
đoán trấn áp, cho nên việc đánh địch càng đi tới càng mất phương hướng,
đánh tràn lan, đánh vào địch, đánh cả vào hàng ngũ của ta, qui bức nhục
hình phổ biến. Coi tổ chức của đảng, coi tổ chức cũ của chính quyền và
của quần chúng là do địch lũng đoạn nên đã khủng bố tàn khốc những người
nông dân vô tội, đả kích mù quáng vào đảng viên và cán bộ cốt cán của
đảng, chính quyền và đoàn thể quần chúng. Hàng vạn đảng viên tốt bị
thanh trừng, hàng nghìn bị bắt, một số đảng viên có nhiều công lao bị xử
oan, phải chịu những nhục hình rất tàn khốc dã man, dùng quần chúng để
vạch tội đảng viên cũ... sai lầm nghiêm trọng và vô nguyên tắc vi phạm
những quyền tự do cá nhân của công dân. Trong số 8,829 đảng viên bị xử
trí ở Tả Ngạn thì 7,000 thuộc thành phần nông dân lao động và các thành
phần lao động khác.”
Cải cách ruộng đất là một đống bùn trộn lẫn với máu của nhiều nông dân
hiền lành, những người đã đóng góp xương máu để bảo vệ cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Ấy vậy mà chỉ vì Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa đòi hỏi mà
từ Hồ Chí Minh cho đến những tay chân thân cận nhất của ông đành lòng
nhắm mắt ra lệnh tắm máu họ bằng một cuộc tàn sát dã man nhất trong lịch
sử của cuộc đấu tranh giai cấp mà đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương.
Huy Ðức cho công bố những điểm gây ngạc nhiên được ông Hoàng Tùng tiết
lộ trong cuộc phỏng vấn dài dành cho tác giả, xin trích (trang 264):
“Ông Hoàng Tùng, ngay từ đầu cuộc nói chuyện đã gọi các ‘đồng chí
Trung Quốc’ là NÓ, (nói) tiếp: ‘Không chỉ có địa chủ bị bắn, nhà thờ,
nhà chùa đều bị nó phá sạch. Ðền thờ An Dương Vương thì nó dùng làm nơi
để phân bón. Ông Trường Chinh thì mặc cảm vì nhà cũng có 7 mẫu ruộng, do
ông chủ yếu làm nghề viết báo nên cho người ta cấy rẽ lấy tô, rất dễ bị
'quy' (cáo buộc, gán tội). Ông Hoàng Quốc Việt thì không sâu sắc, ông
Hồ Viết Thắng thì hăng hái quá. Bố ông Trần Quốc Hương, một ông thầu
khoán, dành dụm mua được 20 mẫu ruộng, cũng bị đội (cải cách) đem ra
đấu. Khi ông Hương nghe được tin chạy về tới nơi thì bố ông đã chết. Ông
Hương than: Thôi, ruộng đất thì không tiếc gì, nhưng không thể chịu
được cảnh con đấu cha, vợ đấu chồng. Cách mạng thì cũng phải có đạo đức
chứ ! Bố ông Nguyễn Khắc Viện là Nguyễn Khắc Niêm từng đỗ Ðệ Nhị Giáp
Tiến Sĩ. Tây đưa lên hàng thượng thư (bộ trưởng). Thời kháng chiến, Hồ
Chí Minh cũng có gởi thư vận động ông Niêm. Khi có cải cách ruộng đất,
bị ‘đội’ bắt, ông Nguyễn Khắc Niêm đã tự tử chết. Mình (đảng Cộng sản)
không hiểu thâm ý Trung Quốc là muốn sửa ta. Ðầu tiên là họ sửa quân đội
nên lập ra chức chính ủy. Chính ủy là người (ảnh hưởng) bao trùm lên Tư
lệnh, ý họ muốn nhắm vào ông Võ Nguyên Giáp, một vị tướng xuất thân từ
giới trí thức và mới chỉ tham gia đảng Cộng sản năm 1940. Trung Quốc cho
rằng ông Giáp xuất thân không phải công nông mà nắm quân đội là không
ổn. Có người, mà tôi (Hoàng Tùng) ngờ là Lý Ban, người phó của Văn Tiến
Dũng đưa cho cố vấn Trung Quốc một danh sách những cán bộ xuất thân
không phải công nông định để gạt ra khỏi quân đội. Ông Giáp đưa danh
sách đó cho ông Hồ. Bác (lời ông Tùng) bảo đốt ngay, thay bằng ấy người
thì quân đội không còn cán bộ.”
Tóm lại, trong chính sách đấu tố ruộng đất, có tới gần 72% phú nông bị
“quy” sai là địa chủ. Cho nên, theo ông Hoàng Tùng, “Pháp Mỹ chỉ chịu
một phần. Chính cải cách ruộng đất, và việc đánh thuế công thương
nghiệp, cải tạo tư sản là nguyên nhân chính khiến hơn một triệu người
miền Bắc đã phải di cư vào Nam.” Nhưng hậu quả quan trọng trong chính
sách nhuốm máu nông dân nói trên không phải là chuyện di cư hay không di
cư mà quan trọng chính là: trong phong trào được gọi là cải cách ruộng
đất mà sao có quá nhiều máu đổ và người chết như vậy? Hồ Chí Minh là
người như thế nào khi ông ta biết rằng việc bắn bà Cát Hanh Long, một ân
nhân của cách mạng là sai mà ông ta không vẫn cứ cúi đầu trước cố vấn
Trung Cộng và tập đoàn đồ tể dưới quyền ông?
Hiển nhiên, “Bên Thắng Cuộc” mới chỉ đưa ra một phần, tuy là khá quan
trọng liên quan đến chiến dịch tắm máu nông dân miền Bắc, nhưng vẫn còn
cần phải mở lại những trang kế tiếp về phía những hậu duệ của những nạn
nhân trong cuộc đấu tố ruộng đất từ 1950 cho đến hết năm 1956. Khi các
cuộc nghiên cứu này có đầy đủ tiếng nói ôn tồn mang tính cương quyết của
sử học, bản cáo trạng đối với ông Hồ và tập đoàn của ông mới được kể
như tạm hoàn tất. Tôi tin rằng, một bản cáo trạng có nghiên cứu, không
mang lời lẽ cuồng nộ, lên án nặng nề, nhưng vô tư và công bằng sẽ hữu
hiệu trong việc đánh đổ “thần tượng Hồ Chí Minh” nơi những người Việt
Nam còn tin vào ông ta hơn là chỉ đả đảo, đạp mặt và giẫm lên cờ đỏ sao
vàng một cách an toàn và dễ dãi ở Hoa Kỳ.
Tuy muộn nhưng đã đến lúc người quốc gia chống Cộng hiện nay ở hải ngoại
nên thay đổi sách lược đấu tranh và cần các cuộc nghiên cứu mang tính
khoa học và sử học về cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc thay vì chỉ
trang bị cho mình biểu ngữ, loa điện, vỗ ngực xưng tên và la hét những
khẩu hiệu trên đường phố đã bắt đầu bị dư luận hoài nghi.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/02/vu-anh-ho-chi-minh-va-tap-oan-nhung-tay.html?utm_source=BP_recent
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001