Chủ Nhật, 21 tháng 4, 2013

Thụy Khuê - PHAN KHÔI (1887-1959)

Thụy Khuê

(Chương 21 của cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và Vấn đề Nguyễn Ái Quốc)

I ● Sự chôn vùi Phan Khôi


 Sau Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, từ thập niên 1930 Phan Khôi tiếp tục xây dựng nền móng mới cho Việt học, bằng phương pháp độc đáo: phân tích, phê bình và phản biện, cổ võ phải viết lịch sử cho đúng, kể cả các chi tiết nhỏ. Phải viết tiếng Việt cho đúng từng câu, từng chữ, từng chữ cái, từng chấm, phẩy. Phải dùng từ Việt và từ Hán Việt cho thích hợp. Phải hiểu Khổng học cho đúng. Sự tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ và triết học Tây phương đi từ Thánh Kinh. Nữ quyền bắt đầu với Võ Tắc Thiên. Phan Khôi luôn luôn tìm đến nguồn cội để giải thích vấn đề. Là một nhà báo, nhưng không phải nhà báo bình thường. Là một học giả, nhưng không phải học giả cổ điển chỉ biết nghiên cứu. Phan Khôi là khuôn mặt học giả phản biện duy nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX. Nhưng sự nghiệp văn học của Phan Khôi bị chôn vùi trong gần nửa thế kỷ (1).


♦ Tạ Trọng Hiệp: Phan Khôi, người xa lạ
Tạ Trọng Hiệp là người đầu tiên ở hải ngoại, đặt vấn đề nghiên cứu lại Phan Khôi trong buổi trả lời phỏng vấn RFI năm 1996 (2):
 "Tôi gọi Phan Khôi là Người xa lạ, vì từ những năm 56, 57 trở đi, qua hiện tượng đấu tranh của nhóm NVGP, thì sau đó có một cuộc đàn áp ghê gớm của nhà cầm quyền Hà Nội. Và từ đó đến nay, đã có rất nhiều thay đổi về tình hình trong nước (...) đã gần như không còn chỉ thị cấm kỵ gì nữa. Nhưng hình như với riêng một số người -chứ không phải toàn bộ- cứng đầu nhất trong NVGP, trong đó có Phan Khôi, thì những cấm kỵ ấy vẫn còn, còn dưới nhiều hình thức lắm. Thứ nhất là không nói đến Phan Khôi. Không nói đến Phan Khôi, làm như là không có hiện tượng Phan Khôi. Phan Khôi không xuất hiện ở trên trái đất này.

Nhưng tìm nhiều thì thấy có một vài trường hợp không thể tránh khỏi, nên miễn cưỡng, họ phải làm ra một tiểu sử về Phan Khôi. Trong một cuốn sách ra cũng lâu lắm rồi, từ năm 1972, tập 2 bộ Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam, ở mục số 50, có một trang rưỡi dành cho Phan Khôi. Nội dung bài viết và phong cách câu văn làm ta sống lại những năm chung quanh vụ đàn áp NVGP, mà đỉnh cao là về sau, xuất hiện dưới hình thức một cuốn gọi là "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận", in năm 1959 (...) Người nào có cuốn ấy thì thấy trong đó có ba, bốn bài gì đó, tập trung nện cụ Phan Khôi bằng đủ mọi cách, bằng những bịa đặt rất là bẩn thỉu, để chứng minh rằng ngay từ khi còn thiếu niên, Phan Khôi đã là người không ra gì. Và người viết không phải là người lơ tơ mơ đâu, đây là những người nổi tiếng có cá tính bướng bỉnh và có tinh thần phê phán rất ghê gớm như Nguyễn Công Hoan. Nếu tôi là con cháu Nguyễn Công Hoan, thì có lẽ lúc này tôi sẽ tìm những nơi nào có cuốn sách đó, đốt đi, để xóa một giai đoạn không tốt cho Nguyễn Công Hoan (3).

Còn riêng cá nhân tôi, Tạ Trọng Hiệp, thì tôi lại chủ trương ngược lại: Nhân dịp ta ra 1 hay 2 đặc san về Phan Khôi, thì cũng nên in lại vài bài, kiểu bài của Nguyễn Công Hoan hay là của một vài người khác đã viết về Phan Khôi, để ta nhớ lại, nhất là để giáo dục thanh niên ngày hôm nay, là đã có những thời gian mà trình độ văn hóa và đạo đức trong nước nó sa đọa đến một cái mức thấp mà không ai có thể ngờ được. Đây có tính cách giáo dục, mở đường cho tương lai. Ngày hôm nay thì những cấm kỵ, phần lớn đã được bỏ rồi. Nhưng mà người ta vừa bỏ cấm kỵ, vừa muốn cho chúng mình nghĩ rằng trong quá khứ có một vài sự hiểu lầm chứ chẳng bao giờ sa đọa đến nỗi bẩn thỉu như thế. Đấy là chuyện nó cắt nghĩa tại sao tôi muốn gọi cụ Phan Khôi là người xa lạ. (...) Tôi tiếp tục cái ý Phan Khôi, người xa lạ là người ta hình như cố tình xóa dấu vết về Phan Khôi". 

Tạ Trọng Hiệp đưa ra bằng chứng về luận điểm này:

1/ Sự cố tình xoá tên Phan Khôi 


"Một bằng chứng rất gần đây là Phan Khôi trong những năm 30 có một số bài tranh biện với cụ Trần Trọng Kim (...) Những bài của cụ Kim đáp lại Phan Khôi được nhà xuất bản Tân Việt, khi in cuốn Nho Giáo lần thứ 3, cho vào phần Phụ Lục.(...) Bây giờ, muốn xóa dấu vết Phan Khôi cho tốt, là ta bỏ phắt cái Phụ Lục đi. Và quả nhiên, năm 1991, khi tái bản Nho Giáo ở Sài Gòn, người ta bỏ hẳn phần Phụ Lục ấy. Ta có thể đọc hết cuốn Nho Giáo mà vẫn không biết là Phan Khôi đã giới thiệu, đã có công rất lớn để giúp cho cuốn Nho Giáo của Trần Trọng Kim được giới có học, tạm gọi là trí thức hồi đó, tìm đọc. Và nhờ những biện luận của Phan Khôi mà có một số điểm sai lầm trong Nho Giáo được sửa lại. Như vậy là riêng về một tác phẩm mà Phan Khôi có công, và cái công đó đã hoàn toàn bị xoá bỏ, khi người ta tước cái phần phụ lục ấy đi".

2/ Về nhà văn Sở Cuồng Lê Dư, em rể Phan Khôi


"Ông Vũ Ngọc Phan, tác giả bất hủ của bộ Nhà Văn Hiện Đại mà tôi cũng như mọi người mang ơn rất nhiều trong thời còn trẻ (...) Những năm cuối đời, có đủ thì giờ, ông viết hồi ký rất tường tận. Đặc biệt ông dành riêng gần 100 trang để tả lại cái buổi ban đầu lưu luyến ấy, ông được gặp người yêu của ông và sau ông cưới làm vợ. Đó là cô Hằng Phương, người có quan hệ gia đình với Phan Khôi.

Tại sao tôi nhớ đến Vũ Ngọc Phan khi nói về Phan Khôi? Tôi muốn đưa ra một minh họa, đố ai chối cãi, rằng người ta cố ý, hay là quá sợ, người ta không dám nói đến Phan Khôi: Ông Vũ Ngọc Phan, nhà anh hùng văn hóa này, ông anh hùng đến nỗi kể về cô gái đẹp như tiên, ông tả Hằng Phương tóc dài mượt. Cái gì cũng đẹp cả. Thế thì bố cô Hằng Phương là ai? Đọc hết cả tập hồi ký của Vũ Ngọc Phan nhan đề Những Năm Tháng Ấy (...) cả thẩy 423 trang (...) vẫn không biết ông ấy tên là gì! Ông bố của Hằng Phương là nhà văn Sở Cuồng, tên thật là Lê Dư!

Lê Dư, hồi trẻ, có một giai đoạn bồng bột, nghe theo tiếng gọi của nhiệt huyết yêu nước, xuất ngoại Đông Du.(...) Vì đói quá, ông chuồn về Việt Nam. Và lại gặp lúc mật thám Pháp đang tìm cách dụ những người trí thức chống đối, về làm việc với nó, vì nó đang muốn mở ra một lối thoát cho trí thức nho học duy tân: Các anh đi con đường chống chúng tôi thì chết; nhưng nếu các anh đừng chống  chúng tôi, mà lại có một hoạt động văn hóa, có lợi cho cả các anh lẫn chúng tôi, thì các anh sống được. Tức là bằng sự mở tờ Nam Phong. Một người có tư tưởng ôn hòa như Phạm Quỳnh đứng chủ trương. Cụ Lê Dư về được bổ nhiệm làm chủ bút, giữ phần Hán văn của Nam Phong (4). Thì chỉ vì những năm đó mà về sau Lê Dư bị mang một nhãn hiệu -sau khi Cộng Sản lên cầm quyền- gần như là một người phản cách mạng. Cho nên Lê Dư cũng bị một số phận -tuy không nặng bằng Phan Khôi, nhưng cũng gần như thế.(...)- là trong bộ sách quý báu mà tôi hay dùng, Lược Truyện Các Tác Gia Việt Nam, tập II, ở mục số 19, có một tiểu sử Lê Dư, mà người cán bộ viết sách đó, lúc đó đang sống ở Hà Nội, có con gái cụ Lê Dư là bà Hằng Phương, con rể cụ Lê Dư là ông Vũ Ngọc Phan, con gái út cụ Lê Dư là vợ tướng Nguyễn Sơn, còn đang sống lúc bấy giờ ở giữa Hà Nội, mà họ dám viết tiểu sử Lê Dư bằng hai câu đầu như thế này: Không biết năm sinh và năm mất ở đâu. Lúc đó, cụ Lê Dư đang sống phây phây ở giữa Hà Nội (...) Vợ ông Lê Dư là em ruột Phan Khôi (...) tôi rất bất mãn khi ghi chép tiểu sử người ta, mà cứ giấu cái này, giấu cái kia. Nhất là cuốn hồi ký của Vũ Ngọc Phan, là người tôi mến trọng ngày xưa bao nhiêu, thì sau khi đọc cuốn hồi ký, tôi mất đi nhiều thiện cảm với ông ấy, chỉ vì cái chuyện hèn nhát của ông ấy: Tên bố vợ không dám nói, chỉ nói ông cụ làm ở Bác Cổ (...) Suốt mấy chục trang nói về ông bố của người mà mình sắp đến xin cưới con gái, không dám nói đến tên ông cụ là Lê Dư!

3/ Về cụ Phan Trân, cha Phan Khôi


"Điểm thứ ba, khi nói về tên ông ngoại của vợ mình là cụ Phan Trân. Trong suốt cả cuốn hồi ký, mỗi lần nhắc đến cụ thì cứ gọi cụ là cụ Phan Trần.(...) Ai có cuốn sách Những Năm Tháng Ấy của Vũ Ngọc Phan: Tên cụ là Phan TRÂN chứ không phải Phan TRẦN. Và qua sự chắp nối với một vài điều đọc ở chỗ khác, thì dần dần tôi thử phác họa Phan Khôi là con cái nhà ai, sinh năm nào? Ở đâu? Đấy, cái này đã bắt tôi bỏ ra nhiều thời gian tìm kiếm, nó là khía cạnh khiến tôi đi đến một quyết định là nếu viết bài, thì tôi đề tựa: Phan Khôi Người xa lạ? Với một dấu hỏi rất lớn vì quả thật là gốc gác, lý lịch và dấu vết về đời cụ Phan Khôi ngày nay gần như bị xoá hết cả rồi" (5).

Tạ Trọng Hiệp qua đời ba tháng sau khi nói những lời "thịnh nộ" này. Đó là năm 1996.


Năm 2010, Lê Hoài Nguyên (6) cho biết tình trạng chung như sau: "Tại miền Bắc cuốn "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận" là tài liệu duy nhất tập hợp các bài tổng kết phê phán chính thống về NVGP. Một số người nghiên cứu do không có tư liệu, thường dựa viết theo cuốn này khi phải nói về giai đoạn 1954-1960 (...) Hầu như toàn bộ các thế hệ sau không biết mặt mũi các ấn phẩm NVGP là thế nào, người ta chỉ lặp lại các luận điệu chính thống mỗi khi nói về nó. (...) Ở một số cuốn hồi kí khi đến giai đoạn này người ta chỉ lướt qua một vài dòng, kể cả hồi kí của Đào Duy Anh, Vũ Đình Hoè, Gia đình Phan Khôi, Vũ Ngọc Phan, Tố Hữu... Nghĩa là việc nói lại một cách rành mạch về NVGP vẫn còn là một việc cấm kỵ hoặc ít ra là khó nói!" 

Và ông kết luận: "Trong một xã hội đã kéo dài hơn nửa thế kỷ về sự mê muội dân trí, về sự độc tài về chính trị, sự lừa dối, sự đầu độc để có sự đồng thuận về vụ NVGP và các nhân vật của nó thật khó như đáy bể mò kim… Nhưng trong đêm tối không phải không có những người đã nhìn thấy ánh sáng của chân lý. Sẽ có nhiều người phản đối tôi. Nhưng chẳng lẽ cứ im lặng mãi. Mỗi người chỉ là một góc của thế giới, và người ta bị thôi miên nữa, người ta cả tin. Tôi nghĩ đau khổ nhất của con người là đánh mất lý trí, là không hiểu, không  thấy được thế giới thật đang ở bên mình. Họ đã sống và tàn sát đồng loại và tự biện minh bằng một cái mục đích hão huyền vô nhân tính. Vào những năm đầu đổi mới, tôi đã viết trong bài thơ Thế giới đang tồn tại: "Bi kịch thay cho những dân tộc chỉ tin vào những thần tượng, những tín điều"" (7).

Đây là bài viết công khai đầu tiên của một người trong ngành công an, đã từng có trách nhiệm trong hơn 20 năm về hồ sơ NVGP. Một bài viết can đảm. Không những có những thông tin đúng đắn, những nhận định ngay thẳng, mà còn đòi hỏi sự sòng phẳng với quá khứ về mặt văn học và lịch sử. 

 Hoạ sĩ Trần Duy, trong bài Tưởng niệm về Phan Khôi, viết nhân dịp kỷ niệm 120 năm sinh Phan Khôi 6/10/1887-6/10/2007 (8) viết: "Ông Phan Khôi không còn nữa, nỗi oan khuất của đời ông vẫn chưa có người giải!(...) nỗi oan của Phan Khôi, cái mà ông quý nhất, gìn giữ nhất là phẩm giá, thì đã bị bôi nhọ, bị chà đạp. Ai là người minh giải?" (9).

♦ Đánh Phan Khôi, các văn bản ô nhục 

1/ Rồng Nam phun bạc 

Trong cuốn Lược truyện các tác gia Việt nam, quyển II, in năm 1972, của Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu, mục từ số 50, có đoạn như sau: "Phan Khôi đã được Mác-ty (Marty) gọi ra làm việc cạnh nó và viết báo Nam Phong. Trong phòng kín, Phan đã bí mật tố giác một số nhân sĩ yêu nước và bí mật hiến mưu dập tắt phong trào cách mạng"... Trong tạp chí Nam Phong, Phan đã viết những bài văn và bài thơ lừa dối, kêu gọi "dân An Nam" dốc túi ra lấy tiền để đánh đổ "Đức tặc" giúp đỡ nước "bảo hộ" Pha-lang-xa đã không quản trùng dương muôn dặm đem "văn minh" sang gieo rắc ở cái đất An-nam "hèn yếu hủ lậu này"... Phan đã tuyên truyền rầm rộ cho giặc dưới cái nhãn hiệu phỉnh nịnh là "Rồng Nam phun bạc".

Những việc làm của Phan Khôi "đã đẹp lòng bọn mật thám Mác-ty nhưng chỉ đem lại cho sĩ phu hồi đó sự căm giận khinh bỉ. Phan Khôi là một nhà Nho không những không có sĩ khí văn phong gì, mà đã tụt xuống bại vong quốc nô vô sỉ" (Xem bài Một nhà nho "tiết tháo": Phan Khôi của Phùng Bảo Thạch, đăng trong tập "Bọn Nhân Văn - Giai Phẩm trước toà án dư luận" Nhà xuất bản Sự Thật, 1969, trang 76, 78). (...) Nhóm phá hoại Nhân Văn - Giai Phẩm đã bị vạch mặt và bị dư luận phê phán nghiêm khắc. Cuộc đời nhơ nhớp, phản bội cách mạng của Phan Khôi lần này được phơi bày ra ánh sáng. Hai năm sau, 1960, Phan Khôi chết ở Hà Nội" (10).

Đó là Phan Khôi, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, 1972, hoàn toàn trích dẫn bài viết của Phùng Bảo Thạch. Ngày nay, Từ điển Bách khoa, mục từ Pháp Việt đề huề, cũng vẫn chép lại câu của Phùng Bảo Thạch: Báo Nam Phong của Phạm Quỳnh đưa ra khẩu hiệu "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc".

Trong số những bài đánh Phan Khôi, bài của Phùng Bảo Thạch tồi tệ nhất, nhưng lại có ảnh hưởng sâu rộng và dài lâu nhất, tại sao? Vì bài này được in trong cuốn "Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận" và đến 2010, theo Lê Hoài Nguyên, người ta vẫn còn dựa vào cuốn này khi phải viết về giai đoạn 1954-1960. Phùng Bảo Thạch là một trong ba người sáng lập báo Đông Tây (1929-1932) (11) mà Phan Khôi cộng tác năm 1930-1931, tức là "bạn đồng hành" của Phan Khôi thời trẻ, cho nên là người "có thầm quyền hơn cả" khi viết về Phan Khôi.

Chúng tôi tìm đọc Nam Phong, thấy bìa sau phần chữ Hán có hình một con rồng phun lên hai chữ Nam Phong; còn trong những bài tiếng Việt mà Phan Khôi viết trên Nam Phong, thì tuyệt nhiên không thấy khẩu hiệu "Rồng Nam phun bạc" và cũng không thấy bài văn, bài thơ nào kêu gọi "dân An Nam" dốc túi ra lấy tiền để đánh đổ "Đức tặc". Tìm đọc những bài Phan Khôi viết trên báo khác, thì thấy một bài hài đàm có tên Rồng Nam, viết năm 1929 trên báo Thần Chung, trong đó Phan Khôi nói phiếm đại ý: cái tên nào có chữ Nam, hay bị xui. Không biết tay Lang-Sa nào xỏ lá, Siam thì nó gọi là Siamois; Cambodge là Cambodgien, chỉ có Annam thành Annamite. Vần ite sau chót chỉ dân bán khai. Vậy mà cũng không hẳn xui đâu, vì Phan nhớ lại hồi thế chiến "chánh phủ mở cuộc quốc trái ở nơi mấy cái cáo thị dán cùng đường, thì có con rồng, dưới lại đề chữ: "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc". Đức bị đánh đổ không chưa biết, chớ rồng Nam lúc đó phun bạc thiệt nhiều" (12).

Thì ra người ta đã lấy "cái cáo thị dán cùng đường, có con rồng, dưới lại đề chữ: "Rồng Nam phun bạc đánh đổ Đức tặc", đổ cho Phan Khôi và nhóm Nam Phong, để có cớ lôi Phan Khôi xuống bùn. Trong cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, có ba học giả bị  kết án nặng nhất, nhưng Nguyễn Văn Vĩnh -mục từ 24- chỉ bị coi là thân Pháp. Phạm Quỳnh -mục từ 48- dù bị thủ tiêu, cũng chỉ bị coi là "tay sai đắc lực của đế quốc Pháp trong lãnh vực văn hoá và một tên Việt gian lợi hại chống cách mạng".

Phan Khôi bị bôi nhọ một cách bỉ ổi hơn cả.

Như vậy, sự bôi nhọ Phan Khôi được chuẩn bị một cách hệ thống, chắc chắn phải do lệnh từ trên cao nhất của lãnh đạo. Hồ Chí Minh lúc ấy là chủ tịch kiêm tổng bí thư. Trường Chinh đã từ chức từ tháng 10/1956 và Tố Hữu không đủ thẩm quyền để đánh Phan Khôi. Chiến dịch này dùng những học giả, nhà văn, nhà báo lão thành như Hồng Quảng, Nguyễn Đổng Chi, Nguyễn Công Hoan, Phùng Bảo Thạch, Trần Văn Giáp...

Hồng Quảng là tên giả của một trong những học giả hàng đầu, là người chủ chốt. Bài Tính chất Phan Khôi hay ngựa quen đường cũ ký tên Hồng Quảng đăng trên Văn Nghệ số 11 tháng 4/1958, là bài chỉ đạo: Trầm tĩnh, lịch sự tối thiểu, không mày tao, chi tớ, có lúc còn gọi Phan Khôi là tiên sinh, dù trong nghiã mỉa mai, nhưng dần dần tiệm tiến "chứng minh" Phan Khôi là kẻ "phản quốc". Lập luận chính: "Phan Khôi chỉ học mót của Hồ Thích chứ không có tư tưởng gì cả". Hồng Quảng là "thủ trưởng" vụ đánh Phan Khôi, nhưng viết bài mà không dám ký tên thật luôn luôn là một hành động phức tạp: ở những kẻ có "tên tuổi", đây là hành động "kẻ cả", tỏ mình là "bề trên", không nhúng tay vào những việc bẩn. Nhưng đồng thời cũng chứng tỏ tác giả không tin vào điều mình viết, thậm chí còn xấu hổ nữa, nên không dám ký tên thật. Là ai chăng nữa, thì việc ký tên giả luôn luôn chứng tỏ người viết là kẻ tráo trở hai mặt, ném đá giấu tay. Tên giả thường chỉ xuất hiện trong một "vụ việc" nào đó, rồi hết. Khác với việc nhà văn dùng nhiều bút hiệu để phân biệt lối viết và cách trình bày tư tưởng khác nhau của mình trên mặt báo.

Sự chỉ đạo của Hồng Quảng được Nguyễn Đổng Chi gián tiếp nói ra: "Khi viết bài này, bạn Hồng Quảng ở tạp chí Văn nghệ (số 11) đã vạch cho ta thấy Phan Khôi “không phải độc lập sáng tạo” mà chỉ học mót lại những cái Hồ Thích đã nói từ lâu. Đúng thế. Phan Khôi là một tên học trò vụng về của Hồ Thích, mà Hồ Thích thì là một tên lính xung phong của thực nghiệm chủ nghĩa hay thực dụng chủ nghĩa của giai cấp tư sản phản động của đế quốc Mỹ do bọn Đi-uy (Dewey), Ram (James) và Mát (Mach) v.v… sáng tạo" (13).

Một chi tiết nhỏ trong lời của Nguyễn Đổng Chi: Hồng Quảng đã "vạch cho ta" chứng nhận tính cách chỉ đạo của Hồng Quảng và bài của Nguyễn Đổng Chi chỉ lập lại hai ý chính của Hồng Quảng: "Phan Khôi học mót của Hồ Thích" và "Phan Khôi có bộ óc dương nô" -nô lệ Tây Phương- của Hồng Quảng, để buộc Phan vào tội "vong bản, phản dân tộc". Ngày nay, nếu có phương tiện, cũng nên xác định xem Hồng Quảng, kẻ chỉ đạo việc đánh Phan Khôi trong giới học giả là ai, để hoàn lại cho người viết, cái trách nhiệm văn bản của mình. Bởi người cầm bút luôn luôn phải chịu trách nhiệm về những điều mình viết.

2/ Phan Khôi có "học mót" của Hồ Thích không?

Theo các "học giả" nói trên, thì những chủ đề Phan Khôi đưa ra trên báo, từ thời Phụ Nữ Tân Văn (1929) đến Sông Hương (1936) đều là "học mót" của Hồ Thích cả. Vậy chúng ta thử xem Phan Khôi viết gì về người thày quý hoá này? 

1/ Trong bài "Lý với thế: Hồ Thích với Quốc dân đảng", năm 1929, Phan Khôi viết: "Trong thời cuộc nước Tàu độ mười lăm năm trở lại đây, phải kể Hồ Thích là một người quan hệ lắm, quan hệ cả về mặt văn hóa và về mặt chánh trị. Thế mà mới ba năm gần đây, Hồ trở nên một người không hợp với thời cuộc, trái với dư luận, ấy là tại va gặp cái thế của Quốc Dân Đảng.

Độ Dân Quốc gây dựng được năm bảy năm chi đó, Hồ Thích bắt đầu xướng ra cái thuyết dùng bạch thoại thế cho văn ngôn, làm cho văn thể nước Tàu biến đổi ngay và từ đó tư tưởng người Tàu cũng phát đạt mau. 

Hồ là một tay Hán học uyên thâm mà lại đậu Tấn sĩ văn khoa nước Mỹ, bấy giờ va chỉ viết báo mà cổ động sự cải cách văn thể chớ đích thân va thì còn ở bên nước Mỹ chưa về. Lúc đó bọn thanh niên nước Tàu trông va về lắm, trông va về để làm người lãnh tụ dìu dắt bọn thanh niên lên trong đường cải cách.

Khi va về, trường Đại học Bắc Kinh liền rước làm thầy giáo (professeur) dạy khoa triết học. Ở đó vài năm, va làm được một cuốn "Trung Quốc triết học sử đại cương" là sách rất có giá trị trong học giới Tàu ngày nay" (14).

Phan Khôi gọi Hồ Thích bằng va. Trích đoạn này có 7 chữ va. Va là có ý coi thường. Không ai gọi thầy mình là va cả. Phan Khôi gọi Trần Quý Cáp là thầy tôi; Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là đại sư; gọi Lương Khải Siêu, Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh (kém Phan 5 tuổi), là tiên sanh.

Bài viết có giọng của một người đàn anh (Phan hơn Hồ 4 tuổi) khen người đàn em, tuy trẻ tuổi mà đã nổi đình đám lắm, nhưng cũng chê Hồ không ít. Phan viết về một bữa tiệc ở Thượng Hải: "Hồ, chừng như cho mình là nhà triết học ngôn luận phải khác chúng mới được, bèn đứng lên nói một cách sỗ sàng. Đại lược va nói rằng thành phố phải độc lập về đường chánh trị (...) Va nói như vậy có gì lạ đâu, chẳng qua theo cái phép đô thị tự trị thì phải như vậy. Mới rồi các ông hội đồng quản hạt ta nói về việc tự trị của thành phố Vũng Tàu cũng nói như vậy mà có ai cãi? Cho nên khi Hồ nói xong thì có ý tự đắc".

 Không ai "nhận định" về "người thầy tư tưởng" của mình bằng một bài viết như thế.

2/ Tóm lại, việc Phan Khôi viết văn tự nhiên và rành mạch, không phải do ông học mót của Hồ Thích việc dùng bạch thoại. Trong bài trả lời phỏng vấn Phan Thị Nga (15) Phan Khôi cho biết: nhờ nghiên cứu cái logique trong tiếng Pháp, nên từ khi viết cho Đông Pháp thời báo, tức là từ 1925 trở đi, ông viết theo lối này.

 Ngoài ra, từ 1922 trở đi, Phan giao du và chịu ảnh hưởng của nhóm trẻ Nguyễn An Ninh kém Phan 13 tuổi, Dejean de la Bâtie dạy Phan tiếng Pháp, Bùi Thế Mỹ cùng quê... là những người bạn làm báo, học trường Tây. Nhưng nguyên nhân sâu xa, có thể là Phan đã học lối viết hài đàm của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Báo,  và ông đã áp dụng lối văn trong sáng này trong bản dịch Kinh Thánh từ năm 1920-1925 - chúng tôi sẽ phân tích văn bản Kinh Thánh ở phần dưới.

3/ Tại sao người ta lại chọn Hồ Thích để gán cho Phan Khôi? Vì lý do chính trị: Hồ Thích (1891-1962) được đào tạo ở Mỹ. 1910, đi du học rồi đậu tiến sĩ Ph.D. 1918, về nước. 1938, làm đại sứ cho Tưởng Giới Thạch tại Mỹ.

 Gán cho Phan Khôi "học mót" Hồ Thích, để đi đến kết luận: Phan Khôi phản quốc, trước làm bồi Tây, sau bồi Mỹ.

Việc triệt hạ Phan Khôi ở các học giả, nếu dùng chữ của Phan Khôi, thì đó là cách hạ độc thủ của "các bạn đồng chí, những người quân tử". 

Năm 1928, khi nói đến việc Hồ Thích bị bọn đồng chí trong Quốc Dân Đảng hạ thủ, Phan Khôi viết: "Thà chịu cái độc thủ của kẻ cường quyền, của bọn tiểu nhân; không thà chịu cái chó má của bạn đồng chí, của người quân tử!"

Ba mươi năm sau, 1958, Phan Khôi bị rơi vào đúng trường hợp của Hồ Thích.

(Còn tiếp)

Chú thích:
(1) Phan Khôi bị cấm ở miền Bắc từ 1958 đến 1975 và sau 75, trên toàn thể đất nước. Khi chúng tôi đến gặp ông tại nhà, Tạ Trong Hiệp chỉ vào tập ronéo cao vài thước, và nói: "Tôi đã xin được của Thanh Lãng, lúc đó còn là giáo sư đại học văn khoa Sài Gòn đã sưu tầm những bài viết trên báo xưa, bỏ tiền thuê người đánh máy, cho sinh viên học, trong đó có khoảng 5, 6 trăm trang của Phan Khôi viết trên Phụ Nữ Tân Văn. Thế nào chúng ta cũng phải đọc và giới thiệu Phan Khôi với giới trẻ ngày nay trong nước, vì họ chẳng biết gì về ông này cả! (...) Nếu tôi có can đảm viết, có thì giờ, và tôi không đau ốm quá, thì tôi sẽ viết về Phan Khôi, và sẽ đặt nhan đề là Phan Khôi: Người Xa Lạ". Năm 1995, sưu tập của Thanh Lãng được in lại dưới tiêu đề 13 năm tranh luận văn học (Văn Học, tp Hồ Chí Minh). 1996, cuốn Chương Dân thi thoại. 2001, cuốn Nhớ cha tôi của Phan Thị Mỹ Khanh; và 2003 Lại Nguyên Ân bắt đầu xuất bản loạt Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928, tất cả do cố gắng của nxb Đà Nẵng. 
 (2) Thu thanh 10/7/1996, phát trên RFI tháng 12/96 sau khi ông qua đời về bệnh ung thư ngày 25/10/1996 tại Paris.
 (3) Bài của Nguyễn Công Hoan không đưa vào Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận, Tạ Trọng Hiệp nhầm với bài Một nhà nho "tiết tháo": Phan Khôi của Phùng Bảo Thạch, được đưa vào, trang 75-81.
(4) Lúc đầu Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán Văn. Lê Dư cộng tác sau.  
(5) Tạ Trọng Hiệp trả lời phỏng vấn RFI, phát thanh những ngày 15, 22 và 29/12/1996. 
(6) Nhà thơ Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại Tá công an, trực thuộc A 25, đặc trách NVGP. 
(7) Lê Hoài Nguyên, Vụ Nhân Văn- Giai Phẩm từ góc nhìn một trào lưu tư tưởng dân chủ, một cuộc cách mạng văn học không thành, mạng nguyentrongtao tháng 8/2010.
(8) Bài của Trần Duy không được đọc trong buổi lễ. 
 (9) Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi đăng trên Talawas ngày 18/6/2008.
(10) Lược truyện các tác gia Việt nam, quyển II, của Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu, nxb Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1972, mục từ Phan Khôi, số 50, trang 141. 
(11) Cùng với Hoàng Tích Chu và Tạ Đình Bính, cha của Tạ Trọng Hiệp.
(12) Phan Khôi, Rồng Nam, Thần Chung số 38 (2/3/1929), sưu tập Lại Nguyên Ân. 
(13)Nguyễn Đổng Chi, Quan điểm phản động, phản khoa học của Phan Khôi phải chăng là học mót của Hồ Thích? Tập san nghiên cứu Văn Sử Địa, Hà Nội, số 41, tháng 6/1958, tài liệu Talawas.
(14) Lý với thế: Hồ Thích với Quốc dân đảng, Đông Pháp thời báo, Sài Gòn, số 807 (18/12/1928), Phan Khôi tác phẩm đăng báo 1928, sưu tập Lại Nguyên Ân, trang 123-124. 
 (15) Phan Thị Nga (vợ Hoài Thanh), Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, Hà Nội Báo, số 10 (11/3/1936). In lại trong 13 năm tranh luận văn học, tập I, Văn Học tp Hồ Chí Minh, 1995, trang 255-159.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/04/thuy-khue-phan-khoi-1887-1959.html
======================================================================
Thụy Khuê - Phan Khôi (1887 - 1959)
Thụy Khuê

(Tiếp theo)

♦ Số phận Phan Khôi và những học trò đi trốn hoặc bị bắt 

Các thanh niên Quảng Nam được gửi ra Hà Nội học Đông Kinh Nghiã Thục tới nơi thì trường đã bị đóng cửa, bèn chạy về Nam Định, học tiếng Pháp với Nguyễn Bá Học. Phan Khôi bị bắt giải về Quảng Nam. Nguyễn Bá Trác trốn ở trong Nam một năm rồi chạy qua Thái Lan, Nhật và Tàu. Sở Cuồng Lê Dư có lẽ đã đi Nhật từ trước, sau sang Tàu...


1/ Bản án số 9, ngày 3/8 năm Duy Tân thứ hai, tức là ngày 29/8/1908, có đoạn như sau: "Trương Huy, Lê Dư càn quấy diễn thuyết mỗi nơi chỉ trích, phỉ báng quan lại; Mai Dị, Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi không xin phép, tự tiện đi Bắc Kỳ, dịch phục cải trang (mặc âu phục) (...) Xét tình đó, thì tự Phan Châu Trinh và Huỳnh Thúc Kháng xướng xuất, mà bọn này là phụ họa đấy thôi. (...) Lê Dư, Mai Dị, Nguyễn Bá Trác, Phan Khôi, Đặng Huyên, Lê Vỹ, Mai Luyện, Nguyễn Nhự, Võ Kiền, Lê Lượng và Lê Cơ, xin đều xử trượng 100, đồ 3 năm. Tựu trung Nguyễn Bá Trác tại đào, xin nên gia đẳng xử trượng 100, đày 2000 dặm, chờ bắt được, chiếu án thi hành".(1).

2/ Phan Châu Trinh viết: "Ông cử nhân Nguyễn Bá Trác và Phan Khôi, Nguyễn Mai, cùng bạn học hơn 10 người ra Hà Nội học tập Pháp văn; sau vụ dân biến, đều đánh điện sức về hết. Bạn đồng học năm, sáu người tuân lệnh về làng; tức thì bị bắt làm án. Ông cử nhân ấy sợ trốn ra ngoại quốc, nghe nói cha ông ta bị bắt giam, bức bách đủ cách, nhà ông trước cũng khá giàu, nay thì đã nghèo xơ xác, mà cái lệnh bắt bớ đến nay (1911) cũng chưa đình, như vậy thì không khác gì đẩy người ta ra ngoại quốc vậy.

Bà con của thân sĩ Quảng Nam và những người vô tội bị bắt giam đánh khảo, nhiều không kể siết, án tù khổ sai từ 2 tháng đến 3 năm ước hơn trăm" (2).

3/ Về việc chạy trốn, Nguyễn Bá Trác viết:
"Ngày tháng giêng năm 1908, tôi cùng mấy người bạn ra chơi Bắc Kỳ, định ở lại Nam Định mà học. Đến tháng 3 nhân việc ngăn trở (3) phải đáp tàu về Đà Nẵng (Tourane). Khi về đến nơi không tiện lên bờ, bèn chạy thẳng vào Quy Nhơn. Đến đấy đổ bộ đi xuyên sơn vào Phú Yên, lẩn lút trong chừng 8, 9 tháng. Ngày 24 tháng chạp năm ấy, mới đáp mành vào Nam Kỳ. Từ cửa bể Xuân Đài mà ra khơi. Đến ngày 7 tháng giêng năm 1909, tới Mỹ Tho, lần vào Bến Tre, đến làng Tân Hướng tìm chỗ ngồi bảo trẻ. Ngày tháng tư năm ấy, nhân theo bạn lên Sài Gòn mua sách vở. Đêm nằm nhà trọ nghe người một bên nói chuyện đi Xiêm, nghe lỏm được kỳ tầu và cách đi, bèn xuống tầu mà châm chước với một người thủy thủ. Được người ấy chịu lời rồi đêm mồng ba tháng tư xuống tầu mà làm khách xuất dương từ đấy" (4).

Hạn mạn du ký là một áng văn hay, một tư liệu quý về số phận những thanh niên theo Phan Châu Trinh, Phan Bội Châu, như Lê Dư, Nguyễn Bá Trác, trong vụ khủng bố 1908 phải chạy trốn: sang Nhật. Nhật đuổi. Sang Tàu.

 Cuối cùng, nhớ nước, phải quay về đầu thú.

4/ Kết toán các sự kiện về Phan Khôi: Phan Khôi ra Hà Nội giữa tháng 2, tháng 3 bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến, Phan Khôi cùng các bạn theo thầy Nguyễn Bá Học về Nam Định. Học được ba tháng thì bị bắt, khoảng tháng 6/1908 ở Nam Định. Theo bản án triều Duy Tân ngày 29/8/1908, Phan Khôi bị đánh 100 gậy và bị tù 3 năm, vì tội "tự tiện đi Bắc Kỳ không xin phép, và mặc đồ Tây". Sau khi ra tù Phan Khôi còn bị quản thúc khá lâu: "Ra tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội nào cho mình vượt khỏi cổng làng. Điều ấy, tự tôi lấy làm uất ức đã đành, mà tiên quân tôi, người lại còn lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu mau thoát cái lốt tù" (5).

Về sự kiện này, Nguyễn Công Hoan đã xuyên tạc Phan Khôi bằng những dòng như sau: "Trong những người bị bắt, người thì bị tử hình, người thì bị chung thân khổ sai, hoặc hai mươi năm, mười năm, không rõ Phan Khôi đã khai báo như thế nào, hắn chỉ bị giam một thời gian ngắn".(6).

Ở tù ra, Phan Khôi vẫn tiếp tục bí mật hoạt động cách mạng một thời gian nữa. Nhưng lần này Phan Trân đổi ý, khuyên răn con, thậm chí van lơn con đừng làm cách mạng nữa, vì nhà con một. Đó cũng là một trong những lý do khiến Phan Khôi không tham gia khởi nghiã Duy Tân, 1916, nên không bị bắt. 

♦ Nguời thầy đầu tiên Trần Quý Cáp
Phan Khôi học Trần Quý Cáp 10 năm, từ 1896 đến 1906. Trần Quý Cáp (1870-1908), tiến sĩ khoa Giáp Thìn, 1904, Huỳnh Thúc Kháng đậu hoàng giáp cùng khoa, và Phan Châu Trinh đậu phó bảng, 1901, là ba nhà lãnh đạo Duy Tân. Trong ba người, Trần Quý Cáp hay chữ và nguy hiểm hơn cả, bởi ông trực tiếp dậy học, hướng dẫn tư tưởng thanh thiếu niên. Học trò Trần Quý Cáp có đến nhiều ngàn người. Phan Khôi, sau khi mẹ mất, được cha gửi đi trọ học trường Trần Quý Cáp, thôn Thái La, làng Bất Nhị, trong 10 năm, từ 9 đến 19 tuổi. Phan tả lại cảnh trường như sau: "Ở trong một xóm cuối làng, dân cư lơ thơ, nhà ở xen với những đám ruộng thổ, một nếp nhà tranh đôi khi ở trong rừng mía rậm, ấy là nhà của thầy tôi và cũng là trường học đó. (...) Thầy tôi là trang quân tử thanh bần, thiên hạ đều biết, quân trộm cướp cũng đã thấy mà chê rồi, nên dù ở đó cũng chẳng ngại chi. Còn một lẽ nữa là cái cảnh tĩnh mịch đìu hiu lại rất lợi cho sự học. Cái nhà ba gian hai chái, sườn bằng gỗ, rộng lòng căn. Trong nhà trừ ba gian bàn thờ và một cái buồng ở góc, còn thì liệt ván cả. Một bộ ván cao ở giữa là chỗ thầy ngồi; còn bao nhiêu ván thấp, cho học trò".(7).

Khoảng 1889-1896, học trò đông nhất, hàng ngày đến "nghe sách" có đến trăm rưởi, hai trăm. Người không đến nghe, chỉ nộp bài, cũng tám chục, một trăm. Mỗi kỳ khảo hạch, thầy phải chấm ba trăm quyển. Học trò đến từ các nơi, có khi cả Phú Yên, Bình Định nghe tiếng trường lớn cũng ra học. Phan Khôi viết: 
"Thầy bước lên thì ngồi đó (8) quay mặt ra phía ghế xuân ý  (9) coi rất nghiêm, vì bao giờ cũng khăn đen áo rộng.
Sách giảng hàng ngày là kinh, truyện, sử, mà cứ ngày chẵn ngày lẻ đổi khác nhau. Như ngày chẵn: Kinh thi, truyện Luận ngữ, sử Hán, thì ngày lẻ: Kinh dịch, truyện Mạnh tử, sử Đường. Rồi theo đó cứ luân lưu mà giảng tiếp.

Thầy ngồi yên rồi, dưới nầy một trò nào chẳng hạn, chiếu theo ngay mà mở ba cuốn sách, nhằm chỗ tiếp với hôm trước, theo thứ tự đè chồng lên nhau và đem đặt lên ghế xuân ý, trước mặt thầy.

 Đọc đi! Thầy truyền. (...) Rồi một người tốt giọng bắt đầu đọc. Đọc  chậm rãi mà ngân ngợi. Được vài ba tờ, tới chỗ thầy bảo dứt thì dứt. Đến phiên thầy cắt nghiã."

Về "lương bổng" của thầy: "Thầy đối với chúng tôi như chẳng thèm kể đến công dậy dỗ. Mỗi một năm hai lễ tết, đoan dương (10) và chánh đán (11) trò nào đi bao nhiêu thì đi, thầy chẳng hề nói ít nhiều (...) Vì vậy nên một trường lớn như trường thầy tôi mà mỗi lễ tết, thầy thâu vào không đầy trăm bạc".(12).

Năm 1906, Trần Quý Cáp được bổ chức giáo thọ phủ Thăng Bình. Ban đầu ông không nhận, nhưng vì cảnh mẹ già, nghèo túng, và các bạn khuyên, ông nhận. Việc làm của ông tại phủ Thăng Bình đã đưa đến kết luận của Charles trong bản báo cáo đã trích dẫn ở trên. Huỳnh Thúc Kháng viết: "Khi tới trường, tiên sinh mời thầy chữ Tây về dậy chữ quốc ngữ và chữ Tây, làm cho phong khí tỉnh nhà được mở mới, như Diên Phong, Phú Lâm, Phước Bình. (...). Vì thế Tiên sinh thành ra tấm bia cho phái cựu học nhắm vào" (13). Rồi Trần Quý Cáp viết bài Sĩ phu tự trị luận công kích đám "trung đẳng sĩ phu". 

Tháng 3/1908, bùng nổ vụ Trung Kỳ dân biến. "Tiên sinh tuy đã vào miền Nam, nhưng vì cớ lãnh tụ phái tân học, lại đề xướng dân quyền tự do, cũng như cụ Tây Hồ vậy, làm cho nhà đương đạo Khánh Hoà chú mục, kiểm soát thư từ ra vào thấy có đôi câu cho là chủ động, kết án "Mạc tu hữu" (14). Tiên sinh lên đoạn đầu đài, thật là thê thảm! Trong lịch sử huyết lệ, Tiên sinh là người thứ nhất!"

 Huỳnh Thúc Kháng ghi rõ ngày 17/5 Mậu Thân, tức ngày 15/6/1908, Trần Quý Cáp bị xử tử tại Nha Trang. 

Trần Quý Cáp là người hay chữ nhất trong ba vị lãnh tụ Duy Tân. Về văn bản, Huỳnh Thúc Kháng cho biết: "Về thi văn của Tiên sinh không lưu bản cảo, chỉ có đồng nhân cùng tôi còn nhớ đôi bài lượm lặt chép thành tập, gửi nơi Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác".

 Phan Bội Châu viết: "Nhớ khi ông ra tới trường chém, dao đã kề cổ, còn thung dung xin với quan giám trảm, cho đặt án đốt hương, áo mão nghiêm trang, bái tạ quốc dân ngũ bái, rồi khảng khái tựu hình, sắc mặt in như khi nhóm trò giảng sách."(15).

Trần Quý Cáp bị xử chém. Cái chết thảm khốc của người thầy đã in dấu sâu đậm trong đời Phan Khôi và ảnh hưởng sâu xa đến đường lối văn hoá và sự tranh đấu bất bạo động của Phan Khôi sau này.

III ● Con đường văn hoá

♦ Ảnh hưởng Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh

Người đầu tiên Phan Khôi chịu ảnh hưởng trong nghề báo là Nguyễn Văn Vĩnh. Bởi lối viết vừa đàm vừa luận của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đăng Cổ Tùng Bá (1908) sau này thấy sống lại trong lối hài đàm của Phan Khôi. 

Nhưng Nam Phong là nơi khởi sinh nghiệp bút, với mục bình thơ Nam Âm thi thoại. Bài đầu ít nhiều chịu ảnh hưởng bài Thơ Ta thơ Tây (có lẽ là bài lý thuyết thơ sớm nhất của Việt Nam) của Phạm Quỳnh viết năm 1917. Nam Âm thi thoại bình thơ theo lối Tầu, nhưng đã có những nhận thức mới về ngữ học, đặc cách Phan Khôi: trực bút, cô đọng, dùng chữ độc sáng, bất ngờ. Khi Đông Châu Nguyễn Hữu Tiến viết thay, mục này không còn thú vị nữa. 

Từ 1917, Phạm Quỳnh đã viết phê bình văn học, nhưng cách phê bình của ông -tóm lược tác phẩm, nói qua cái hay và cái dở- nay đã lỗi thời; ngược lại, tiểu luận, triết học, ngữ học, biên khảo và dịch thuật của Phạm Quỳnh có giá trị bất biến.

Phan Khôi viết phê bình văn học sau Phạm Quỳnh.

Bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV số 84 ra ngày 28/5/1931, là một sáng tạo độc đáo: Đọc Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh, ông chú ý đến ý nghiã trong cái cười của người Việt: tự nhận mình là con Rồng cháu Tiên, nhưng vô ý thức, gì cũng cười, cười cả sự tật nguyền của người khác, "cái cười vô nghiã lý, vô ý thức, cái cười vừa ngu dại, vừa độc ác" ấy "đã thấm vào máu dân tộc nầy". Đây là bài phê bình văn học theo lối xã hội học sớm nhất của văn chương Việt Nam. Bài này đã làm Tản Đà nổi giận, viết loạt bài Bài trừ cái nạn Phan Khôi ở Nam Kỳ,(16), buộc tội Phan phỉ báng dân tộc và đòi "giết" Phan Khôi trên văn đàn. 

Dù Phan Khôi chỉ cộng tác với Nam Phong trong hơn một năm, có bài in trên báo từ tháng 2/1918 đến tháng 5/1919, nhưng chịu ảnh hưởng Phạm Quỳnh khá rõ. Phan tiếc đã bỏ Nam Phong - có lẽ ngoài những lý do khác, còn có vấn đề hai cá tính độc đáo không thể ngồi chung, Phạm Quỳnh nhỏ hơn Phan Khôi năm tuổi, mà làm xếp, không dễ. Sau này, dù hai người có tranh luận, nhưng vẫn tương kính nhau. Thời kỳ Nam Phong, Phan Khôi đã học được tinh thần phê bình, óc lý luận của Phạm Quỳnh. 

 Một đời tự học
 Phan Khôi học chữ Hán với ông nội, cha và 10 năm với Trần Quý Cáp, rồi tự học quốc ngữ và tiếng Pháp từ 1906; dịch Kinh Thánh trong 5 năm 1920-1925: những "trường rèn luyện" ấy đã tạo nên nhà báo và học giả uyên thâm hai nền văn hoá Đông Tây. Phan Thị Nga, dưới dạng phỏng vấn Phan Khôi và viết lại, ghi trên Hà Nội Báo về việc ông học tiếng Pháp như sau:
- "Ông xuống Nam Định học với ông Nguyễn Bá Học, gặp thầy hay, ông thấy sức học mình tấn tới, nhưng rủi mới học được ba tháng ông lại bị bắt giải về Quảng. Người ta kết án ông (ông Phan Thành Tài người Quảng Nam (Bảo An tây) trước làm phán toà sau về dạy học can vào việc vua Duy Tân, bị xử tử). Ba năm trong lao, ông tìm cách đưa sách vào học như Lecture courante, Manuel v.v... Đọc sách chỗ nào không hiểu ông lại lật tự vị ra tra. Hồi ấy, ông nghe nói có thày Ưng Điển dạy giỏi, ông viết thư nhờ thày Điển ra bài cho. Làm đâu được vài bài vừa bị ông án Trần Văn Thống khám xét thâu hết sách Tây ta, bút, giấy và nói một câu nghe rất ý vị: "Các anh còn học làm gì nữa vì có ai cho các anh thi nữa mà học!" 

Mãn tù ông ra Huế xin học trường dòng (...) ông vô học đứng chót đội sổ trong hai tháng, qua tháng thứ ba đến kỳ hạch ông trở nên đứng đầu. Gặp đại tang, ông thôi học, về quê mở lớp dạy chữ Nho và quốc ngữ. Hai năm sau có nghị định bỏ thi, ông thôi dạy, bảo học trò: "Dạy các anh cho giỏi chữ Nho tôi vẫn dạy được, nhưng bây giờ các anh học giỏi ra chẳng làm gì được hãy học chữ Tây đi".

Thôi dạy, ông lại cắp sách đến trường học thầy Lê Hiển, ông cùng học với học trò của ông. Qua năm sau, ông Nguyễn Bá Trác giới thiệu ông vào làm Nam Phong. Ông bước vào nghề báo từ lúc ấy (1918) viết được một năm, ông xuống Hải Phòng làm thơ ký cho Bạch Thái Bưởi. Đơn từ bằng chữ Tây ngăn ngắn ông có thể xem được và viết được.

Thôi làm thơ ký, ông lại vào Nam viết cho Lục Tỉnh Tân Văn. Làm được ít lâu, ông viết một bài kịch liệt quá, người ta buộc ông thôi, ông lại ra Bắc làm cho hội Tin Lành. Ông chuyên dịch Kinh Thánh chữ Nho ra quốc ngữ. (...). Ông sóng Kinh thánh Tây với Kinh thánh Tàu rồi dịch, chấm câu rất rành mạch. Làm được một năm ông lại thôi, vào Nam kiếm việc".(17).

Từ 1911 đến 1917, Phan Khôi tìm cách thoát ly khỏi cảnh bị quản thúc ở làng: "Ra tù từ năm 1911, cho đến năm 1917, chẳng có cơ hội nào cho mình vượt khỏi cổng làng. Điều ấy, tôi tự lấy làm uất ức đã đành, mà tiên quân tôi, người lại còn lo cho tôi hơn nữa. Muốn ra đi, cái chí của tôi ở chỗ khác; nhưng thầy tôi thì chỉ mong làm sao cho tôi có đường xoay xở hầu mau thoát khỏi cái lốt tù. Vậy mà năm 1918 ra Hà Nội làm Nam Phong tạp chí nửa chừng lại bỏ mà về" (18).

Trong thời gian này, Phan Khôi vẫn liên lạc với những hoạt động yêu nước. Phan Thành Tài, thầy dậy Pháp văn của ông tham dự vào cuộc khởi nghiã Duy Tân năm 1916, bị tử hình. Phan Khôi cũng được Thái Phiên rủ vào, nhưng ông từ chối. Vì cái chết của Trần Quý Cáp, nên Phan Khôi lựa chọn con đường văn hoá? Vì ông không tin ở khả năng những người cầm đầu? Hay vì sự cấm đoán nghiêm ngặt của cha? Nguyễn Công Hoan sẽ vin vào cớ Phan Khôi từ chối Thái Phiên để xuyên tạc ông làm chỉ điểm cho Tây từ năm 1916. 

Năm 1918, được Nguyễn Bá Trác mời vào Nam Phong. Đó là cơ hội tốt để vào nghề cầm bút. Nhưng chỉ được một năm, Phan Khôi bỏ Nam Phong vào Nam và tại Sài Gòn, ông lại gặp khó khăn với tờ Lục Tỉnh Tân Văn:
 "Năm 1919 vào Sàigòn, trước làm cho Quốc Dân Diễn Đàn, sau làm cho Lục Tỉnh Tân Văn, không bao lâu bị giải chức. Những lúc ấy, về ở nhà, tôi đôi khi cũng nghĩ đến sự mình mà ân hận: Té ta tôi chẳng những là thằng người không biết chiều đời mà còn là thằng con không biết chiều cha.

Ở Sàigòn về nhà đầu mùa thu năm 1919, nằm khoèo cho đến mùa xuân năm sau, tôi thấy chán sự đeo đuổi theo đời, nhưng còn thấy chán hơn nữa là cái cảnh phẳng lỳ với vợ với con. Ấy thế mà mỗi khi bẩm mạng cùng thầy tôi xin lại đi nữa, thì người một hai ngăn trở không cho, lấy cớ rằng vận hạn của tôi còn xấu lắm, dẫu có đi cũng chưa làm gì được. Tôi biết làm sao có được tự do như (...) đây. Xin phép mà không được là phải chịu. Suốt một mùa đông tôi ngày nào cũng phải nốc rượu và thường thường ban đêm trốn đi đánh cờ đánh kiệu ở nhà hàng xóm".(19).

Những dòng tâm sự trên đây nói rõ nỗi khổ tâm của ông, trên đường lập thân. Tháng 3/1920, một cơ hội nữa giúp Phan Khôi thoát ly gia đình lần thứ nhì: Người em họ là Phan Hạnh chết tại Thanh Hoá, Phan được người chú ủy thác ra Thanh lo mọi việc. Phan đưa hành lý của người đã khuất ra Hà Nội, định xuống Hải Phòng lấy tàu về Trung. Nhưng tại Hải Phòng, tình cờ kiếm được việc làm thư ký cho Bạch Thái Bưởi, lương tháng 50 đồng. Được 8 tháng, 1/5/1920- 31/12/1920, Phan Khôi xin nghỉ vì điều kiện làm việc quá vất vả. Trong bài Bạch Thái Công Ty thơ ký viên, ông có những lời chỉ trích sự bóc lột và khôn khéo của Bạch Thái Bưởi, nhưng vẫn ngụ ý khâm phục. Sau này trong một bài viết khác, ông xác định Bạch Thái Bưởi và Nguyễn Văn Vĩnh là hai nhân vật kỳ tài. 
  
♦ 1921- 1925, dịch Kinh Thánh
Sở dĩ Phan Khôi xin nghỉ việc, vì ông đã tìm được việc mới ở Hà Nội: dịch sách cho Hội Tin Lành của Mỹ, việc này vừa cao lương hơn vừa phù hợp với chí hướng của ông: trau dồi tiếng Pháp và tìm hiểu tư tưởng Tây Phương - Sau NVGP, người ta sẽ vin vào cớ này để buộc tội Phan Khôi làm việc cho Mỹ. Phan Khôi nghỉ việc với Bạch Thái Bưởi ngày 31/12/1920, và có viết thư bảo đảm báo trước một tháng. Như vậy có thể xác định: Phan Khôi đã nhận dịch Kinh Thánh vào khoảng tháng 11/1920. 

Phan Khôi viết: "Tôi đã từng dịch kinh điển đạo Cơ Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam. Hồi đó tôi làm việc ấy dưới quyền hai ông bà mục sư W. Cadman. Tuy họ coi tôi là người trọng yếu lắm trong việc dịch, nhưng dầu đến một câu trong đó họ cũng không để toàn quyền về tôi. Gặp câu nào nghĩa hơi khó một chút thì bà Cadman đem nhiều bổn sách ra mà đối chiếu -vì bà biết đến 13 thứ tiếng- để chọn lấy nghiã nào đúng nhứt. Phần chúng tôi dịch chỉ có bộ Tân ước và một phần ba Cựu ước thôi, song mất đến 5 năm mới thành".(20). 

Bà Phan Thị Nga ghi lại việc ông dịch kinh Thánh như sau: "Ông chuyên dịch Kinh Thánh chữ Nho ra chữ quốc ngữ, cứ theo nguyên văn bên chữ Hán mà dịch thì người mình xem Kinh không thể hiểu được, vì lối chấm câu chữ Hán không minh, ông sánh Kinh Thánh Tây với Kinh Thánh Tàu rồi dịch, chấm câu rất rành mạch." (21)

Trong bài "Giới thiệu và phê bình Thánh Kinh Báo", có một câu Phan Khôi xác định thời gian dịch Kinh Thánh: "Sau hết, tôi xin có lời cảm ơn ông bà Mục sư Cadman đã gởi tặng tập báo nầy cho tôi. Vì tôi làm chung việc dịch Kinh Thánh với ông trong 5 năm (1920-1925), biết ông là người yêu lẽ thật, nên thấy trái thì nói, tôi chẳng lấy làm ngại chút nào". (22).

Phước Nguyên, trong bài viết Quá trình phiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt(23) cho biết: Hội Công Giáo bắt đầu từ dịch Kinh Thánh từ 1872 và Hội Tin Lành dịch từ 1916. Ông tìm lại lịch sử những bản dịch xuất hiện từ 1892 đến 1919, và trong giai đoạn này, Kinh Thánh chỉ mới được dịch từng phần. Với sự đóng góp của Phan Khôi, bộ Kinh Thánh mới hoàn tất và được Hội Tin Lành in năm 1926. Phước Nguyên viết: "1923, Thánh Kinh Hội Anh Quốc xuất bản Kinh Thánh Tân Ước tại Hà Nội. Toàn bộ Kinh Thánh được thực hiện xong vào năm 1925, và xuất bản năm 1926 tại Thượng Hải. 

Bản dịch này do một nhóm học giả gồm có cụ Phan Khôi, ông bà giáo sĩ William C. Cadman, giáo sĩ John D. Olsen thực hiện với sự giúp đỡ của một số thành viên khác trong đó có cụ: Trần Văn Dõng, sinh viên trường Cao Đẳng Đông Dương, cụ Tú Phúc và vài học giả khác. Tuy nhiên người phiên dịch chính là cụ Phan Khôi.

Trong suốt 70 năm qua, bản Kinh Thánh nầy được tục bản nhiều lần tại Anh Quốc, Hong Kong, Hoa Kỳ, Đức, Đại Hàn và Việt Nam. Đây là bản Kinh Thánh được ấn hành và sử dụng rộng rãi nhất hiện nay. Mặc dù chúng ta không có số liệu thống kê chính thức nhưng ước tính mỗi lần tái bản Kinh Thánh từ 5000 đến 10.000 cuốn; trong suốt 70 năm qua, số Kinh Thánh phát hành đã được vài trăm ngàn cuốn. Có lẽ đây là cuốn sách Việt Ngữ được phát hành nhiều nhất từ trước đến nay".

Sau đó Phước Nguyên liệt kê việc dịch, hiệu đính và in kinh thánh từ 1925 đến ngày nay ra chữ quốc ngữ và chữ nôm, và ông cho biết:
"Năm 1995, toàn bộ Kinh Thánh của Giáo Hội Tin Lành đã được tái bản tại Đà Nẵng (Việt Nam). Bộ Kinh Thánh tái bản lần này là bản Kinh Thánh 1926. Việc tái bản này do Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thực hiện với sự hổ trợ của Thánh Kinh Hội Liên Hiệp (UBS). Đây là bản Kinh Thánh đầu tiên được phép in và phát hành dưới chế độ cộng sản Việt Nam" (24).

Bây giờ, thử so sánh đoạn Chúa giáng sinh, trong kinh Tân Ước qua hai bản Tin Lành và bản Công Giáo, để thấy cách dịch của Phan Khôi. 

Phúc âm Matthieu - L'Évangile selon Saint Matthieu, bản Tin Lành dịch: 
Phúc âm Mã-Thi
Chúa giáng sinh

Sự giáng sinh của Chúa Cứu Thế Giê-xu diễn tiến như sau: Cô Ma-ri đã đính hôn với Giô-sép, nhưng khi còn là trinh nữ, nàng chịu thai do Thánh Linh. "Giô-sép, vị hôn phu của Ma-ri là người ngay thẳng, quyết định kín đáo từ hôn, vì không nỡ để nàng bị sỉ nhục công khai.

Đang suy tính việc ấy, Giô-sép bỗng thấy một thiên sứ đến báo mộng: "Giô-sép, con cháu Đa-vít! Đừng ngại cưới Ma-ri làm vợ! Vì cô ấy chịu thai do Thánh Linh. Ma-ri sẽ sinh con trai, hãy đặt tên là Giê-xu vì Ngài sẽ cứu dân Ngài khỏi xiềng xích tội lỗi".(25).
Bản Công giáo dịch: 
Tin mừng theo thánh Mát-Thêu
Truyền tin cho ông Giu-se 

Sau đây là gốc tích Đức Giê-su Ki-tô: bà Ma-ri-a, mẹ Người, đã thành hôn với ông Giu-se. Nhưng trước khi hai ông bà về chung sống, bà đã có thai do quyền năng của Chúa Thánh Thần. Ông Giu-se, chồng bà, là người công chính và không muốn tố giác bà, nên mới định tâm bỏ bà cách kín đáo. Ông đang toan tính như vậy, thì kìa sứ thần Chúa hiện đến báo mộng cho ông rằng: "Này ông Giu-se, là con cháu Đa-vít, đừng ngại đón bà Ma-ri-a vợ ông về, vì người con bà cưu mang là do quyền năng Chúa Thánh Thần. Bà sẽ sinh con trai và ông phải đặt tên cho con trẻ là Giê-su, vì chính Người sẽ cứu dân Người khỏi tội lỗi của họ".(26).

So sánh hai đoạn văn này, chúng ta thấy ngay tài dịch của Phan Khôi: đoạn trên ngắn hơn đoạn dưới hơn một dòng, lại rõ nghiã và hay hơn. Ví dụ Évangile dịch là Phúc âm, Hán Việt, hay hơn Tin mừng, thuần Việt. Không kể sự vô lý ở đoạn dưới: chưa chung sống thì sao gọi là vợ chồng? Bản tiếng Pháp phổ thông cũng ghi: "Marie, sa mère, était fiancée à Joseph - Bà Marie, mẹ người, là vợ chưa cưới của Josep. Tóm lại: Bản Kinh Thánh phổ biến hiện nay của Hội Tin Lành, là do Phan Khôi, dịch giả chính đã dịch Tân ước và 1/3 Cựu Ước. Ông đã làm trong 5 năm, 1921-1925.

Thời kỳ dịch Kinh Thánh là thời kỳ chủ chốt, đã rèn luyện ngòi bút Phan Khôi. Nhờ sự tiếp xúc sâu sắc với Kinh Thánh, ông hiểu văn minh Tây phương, từ nguồn cội. Ngoài ra, dịch là trường dạy ngôn ngữ, khiến sau này ở địa vị "ngự sử văn đàn", không những Phan Khôi viết tiếng Việt đúng mà ông còn đòi hỏi những nhà văn khác phải viết tiếng Việt cho đúng.

(Còn tiếp)

Chú thích:

(1) Trích châu bản số 9, triều Duy Tân, Nguyễn Thế Anh, Cuộc kháng thuế miền Trung năm 1908 qua các châu bản triều Duy Tân, Văn Vĩ dịch, Bộ Văn Hoá Giáo Dục và Thanh Niên xb tại Sài gòn 1973, in lại trong Phong trào Duy Tân, Nguyễn Q. Thắng, Văn Hoá Thông Tin, 2006, trang 671-674.
(2) PCT, Trung kỳ dân biến thỉ mạt ký, bản dịch Nguyễn Q. Thắng và Lê Ấm, in trong PCT cuộc đời và tác phẩm, Văn Học, 1992, trang 321-322.

(3) Ý nói vụ Trung Kỳ dân biến.
(4) Trích Hạn mạn du ký - Bài ký của người đi chơi phiếm của Nguyễn Bá Trác, nguyên tác chữ Hán, bản dịch in trên Nam Phong, số 19 tháng 11/1919.
(5) Bạch Thái Công Ty thơ ký viên, Dân báo, Sàigòn, số 201, số Tết 1940, tài liệu Lại Nguyên Ân.
(6) Nguyễn Công Hoan, Hành động và tư tưởng phản động của Phan Khôi cho đến thời kỳ toàn quốc kháng chiến, Văn Nghệ số đặc biệt thứ hai chống NVGP, số 12, tháng 5/1958, trang 14.
(7) Đi học đi thi, bđd.
(8) Tức là thày ngồi trên ván cao kê giữa nhà. 
(9) Ghế để nghiên son bút son.
(10) Đoan ngọ. 
(11) Nguyên đán. 
(12) Đi học đi thi, bđd.
(13) Trích theo Tiểu sử Trần Quý Cáp của Huỳnh Thúc Kháng, tiểu sử này ghi viết ngày 20/2/Mậu Dần (21/3/1938), bản dịch của báo Minh Tân số 63, in năm 1959, in lại trong Trần Quý Cáp của Lam Giang, Đông A, Sài Gòn, 1971, trang 10-16. 
(14) Xử tội chẳng cần án. 
(15)  Phan Bội Châu, Văn khóc cụ nghè Trần Quý Cáp, in trong Thi văn quốc cấm, Thái Bạch soạn, Sài Gòn, 1968, trang 390.
(16) An Nam tạp chí, Hà Nội từ số 26 (1/1932)
(17) Phan Thị Nga, Lối tự học của những bậc đàn anh nước ta, Hà Nội báo, số 10, 11/3/1936, trích đoạn này dùng bản Thanh Lãng soạn, tài liệu đánh máy, của Tạ Trọng Hiệp. Bản in trong 13 tranh luận văn học bị cắt mấy câu. 
(18) Bạch Thái Công ty thơ ký viên- một tự truyện của Phan Khôi, Dân báo, Sài Gòn, số 201, số Tết, 1940, tài liệu của Lại Nguyên Ân.
(19) Bạch Thái Công ty thơ ký viên, bđd.
(20)  Bàn về việc dịch kinh Phật, Trung Lập 5/9/1931, Phan Khôi 1931, Lại Nguyên Ân sưu tầm, trang 352.
(21) Phan Thị Nga, bđd.  
(22) PNTV, số 74 (16/10/1930), Phan Khôi 1930, LNA, trang 568. 
(23) Phước Nguyên, Quá trình phiên dịch Kinh Thánh sang tiếng Việt, Báo Linh Lực, 1/1996, baolinhluc.org
(24) Phước Nguyên, bđd. 
(25) Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước do Thánh Kinh Hội quốc tế xuất bản, Văn Phẩm Nguồn Sống phát hành, 1994, trích Kinh Tân Ước, sách Phúc âm Mã-Thi, Chúa giáng sinh, trang 1.
(26) Kinh Thánh Tân Ước, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 2000, trang 68.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/04/thuy-khue-phan-khoi-1887-1959_20.html
=====================================================================
Thụy Khuê - Phan Khôi (1887 - 1959)
Thụy Khuê

(Tiếp theo và hết)

♦ Ba năm ở ẩn Cà Mau 1922-1925
Một dấu hỏi: Tại sao khoảng 1921-1922, Phan Khôi ở Hà Nội, có việc làm: dịch Kinh Thánh và viết báo Hữu Thanh (1) và Thực Nghiệp Dân Báo, lại bỏ vào Sài Gòn? Vậy Phan Khôi vào Sài Gòn là có "nhiệm vụ" gì, hay chỉ tình cờ? Nhất là vào Sài Gòn rồi phải trốn xuống Cà Mau. Về việc này, Phan Thị Nga viết: "Gặp hồi chưa có việc ông dùng thì giờ rỗi để học, ông ở tại đồn điền của một bạn ở Cà Mau, đồn điền ấy hẻo lánh quá, không có ai nói chuyện cho vui, ông vụt cầm bút viết bức thư thứ nhất, bức thư chữ Tây cho ông Dejean. Rất ngạc nhiên và khen bức thư của ông viết trôi chảy, ông Dejean bảo ông có thể dạy ông Phan trong 6 tháng, ông ta có thể viết được báo chữ Tây. Từ đó về sau ông Phan thường dịch các bài của ông Dejean viết ở các báo Tây.


Lối học của ông Phan hồi ấy là gặp chữ chi khó là hỏi, hỏi rồi tra tự vị lại cho chắc chắn và biên vào sổ con, gặp bài gì thích thì dịch" (2).

Phan An, Phan Cừ viết: "Do một sự việc gì đó, ông bị Pháp tình nghi và đe doạ, nên phải chạy về Cà Mau ẩn náu nơi nhà người bạn làm chủ đồn điền" (3).

Phan Thị Mỹ Khanh viết: "Rồi nhân có một vụ việc gì đó xẩy ra ở thành phố, ông bị mật thám tình nghi, đe dọa, phải chạy xuống Cà Mau tạm trú tại nhà một người quen thân làm chủ đồn điền tại đây. Thời gian ở ẩn ăn không ngồi rồi khá lâu, mất đến gần 3 năm, nhưng cha tôi biết tận dụng nó để làm một việc có ích là tiếp tục học tiếng Pháp bằng cách trao đổi thư từ, bài tập qua đường bưu điện với một nhà báo người Pháp ở Saigòn, tên là Dejean..." (4).

Những thông tin trên đây đưa đến một số câu hỏi:
1- Nếu không có nhiệm vụ gì, tại sao đang có việc ở Hà Nội, Phan Khôi lại vào Sài Gòn?
2- Phan làm gì mà bị Pháp tình nghi, phải chạy xuống Cà Mau ở ẩn trong ba năm?
3- Phan vào Nam, phải chăng vì đã nhận được thông điệp của Phan Châu Trinh từ Pháp? Vào Nam để bắt liên lạc với Nguyễn An Ninh? Người đầu tiên trong nhóm Ngũ Long vừa từ Paris về nước năm 1922, đang sửa soạn phát hành báo La Cloche fêlée? Việc ở ẩn ba năm tại Cà Mau, trong bài chỉnh huấn ông sẽ giấu chính quyền cộng sản. 
4- Việc Phan Khôi học tiếng Pháp với Dejean de La Bâtie, chứng tỏ ông có liên lạc với nhóm Chuông Rè (5).

Trong thời gian ở ẩn tại Cà Mau 1922-1925, không những Phan Khôi học tiếng Pháp hàm thụ với Dejean de la Bâtie mà còn tiếp tục việc dịch Kinh Thánh. Sau này, có thể người ta đã chắp nối hai sự kiện: quen với Tây (Dejean de la Bâtie) và làm việc cho Mỹ (dịch Kinh Thánh cho Hội Tin Lành) để xuyên tạc Phan Khôi làm bồi Tây, bồi Mỹ.

 1925, viết sách về Phan Châu Trinh
Tài liệu 241 của sở mật thám Nam Kỳ, mật báo của P. Arnoux ngày 1/6/1926, gửi thống đốc Nam Kỳ và Phủ toàn quyền Hà Nội, ghi: 
"Tú tài Phan Khôi mà tôi đã báo Ngài cách đây mấy tháng như là một đồ đệ của Phan Châu Trinh, đã viết một tác phẩm mang tên đơn giản là "Phan Châu Trinh" tôi đã có trong tay tập sách đó với 94 trang đánh máy (...) Kèm theo tiểu sử của Phan Châu Trinh, tác phẩm này chứa đựng các bình luận về đời sống chính trị, tư tưởng, các dự án và công việc tuyên truyền ở Đông Dương, ở Pháp và ở nước ngoài, những quan điểm chính trị của con người được dân An Nam coi là nhà đại ái quốc. Nếu được in ra, chắc chắn sách này sẽ được hoan nghênh và kích động những người An Nam đọc chống đối chính phủ bảo hộ (...)

Phan Châu Trinh đã cho gọi tú tài Phan Khôi vào Nam Kỳ với ý đồ cho y viết tác phẩm này và nhiều tác phẩm chính trị khác. Nhưng tình hình sức khoẻ không cho ông ta thực hiện hoàn toàn ý đồ đó. Phan Khôi đang soạn thảo ra một tác phẩm theo dạng đó với những thông tin do các bạn cũ thân cận của Phan Châu Trinh cung cấp, trong đó có Huỳnh Thúc Kháng. Phan Khôi tính dựa vào nhà in "Bảo Tồn thư xã" đang chuẩn bị ra đời để xuất bản tác phẩm của y (...) Phan Khôi ở nhà họa sĩ Ky đường Martin des Pallières. Y quan hệ thường xuyên với Nguyễn Pho và Dejean de la Bâtie" (6).

Theo mật báo này, ý đồ tiếp tục sự nghiệp của Phan Châu Trinh khá rõ. Từ 1925 đến 1928, Phan Khôi viết cho Thần Chung, Đông Pháp, Văn Học ở Sài Gòn và gởi bài cho Đông Tây ở Hà Nội. Hiện nay chưa in sưu tập các bài Phan Khôi viết trong thời gian này. Đây là giai đoạn Pháp đã bình định nền cai trị, với những yếu tố quan trọng:
- Đám tang vĩ đại của Phan Châu Trinh, mà Phan Khôi đã tham gia tổ chức và viết bài Hiệu triệu quốc dân.

- Phan Bội Châu bị bắt, nhưng Pháp không áp dụng án tử hình, xử vắng mặt trước đó, chỉ đem về quản thúc tại Huế: về việc này, Nguyễn Thế Truyền đã góp phần quan trọng, cổ động trên báo La Paria và vận động Hội Nhân Quyền tại Pháp.

- Sự tung hoành của ngòi bút Nguyễn An Ninh và Phan Văn Trường trên các báo La cloche fêlée và L'Annam, tại Nam Kỳ.

- Sự vận động của Phạm Quỳnh qua các bài diễn thuyết tại các trường lớn, trong chuyến đi Pháp 1922 dẫn đến việc Pháp cải cách giáo dục: bỏ ý định Pháp hoá người Việt (thay chữ Hán bằng chữ Pháp). Lần đầu tiên mở cấp sơ học ở Trung và Bắc, năm 1924, dậy tiếng Việt cho học trò từ nhỏ - Sẽ nói rõ hơn trong chương Vụ án Nam Phong.

Dường như những yếu tố quan trọng này đã khiến Phan Khôi thấy sức mạnh của ngòi bút, ông chuẩn bị bước vào giai đoạn nòng cốt: Phụ Nữ Tân Văn. 

♦ 1928-1932: Thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn.
Từ năm 1928 đến 1932, ngòi bút Phan Khôi tả xung hữu đột trong tất cả các "mặt trận" tranh đấu xã hội và văn hoá. Hầu như ông chỉ ở trong Nam, thỉnh thoảng có viết bài cho báo Bắc, nhưng Nam Kỳ vẫn là đất chính. Lập luận đấu tranh dựa trên khí giới: phê bình.

1928: Phê bình Trần Huy Liệu trên báo Đông Pháp. Đặt vấn đề: Phải viết sử cho đúng. 

1929: Phê bình Khổng Giáo ở Thần Chung. Tranh đấu nữ quyền và Đòi hỏi phải viết tiếng Việt cho đúng trên Phụ Nữ Tân Văn.

1930: Tranh luận với Phạm Quỳnh và Trần Trọng Kim trên Phụ Nữ Tân Văn.

1931: Phê bình cuốn Cay đắng mùi đời của Hồ Biểu Chánh trong bài Cái cười của con rồng cháu tiên trên PNTV. Đây là bài phê bình văn học đầu tiên viết theo lối hiện đại.

1932: Công bố Một lối "thơ mới" trình chánh giữa làng thơ và bài Tình già, cả hai được coi là bản tuyên ngôn của Thơ Mới, trên Tập văn mùa xuân, báo Đông Tây, rồi PNTV. 

Tư tưởng và phong cách Phan Khôi được xác định trong thời kỳ Phụ Nữ Tân Văn, vừa cùng dòng chẩy với Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, trong việc dịch thuật, giới thiệu tư tưởng Tây phương và đặt nền móng quốc ngữ bằng cách phát triển từ vựng, nghiên cứu tiếng Việt. Lại vừa đối lập với hai vị học giả này, trong cách đưa tinh thần phản biện vào triết học, sử học, văn học và xã hội học.

♦ Phan Khôi và cộng sản
Khi lên án Phan Khôi, người ta thường dẫn chứng rằng ông đã nói hoặc viết câu này câu kia chống Đảng, chống Bác, là sai cả. Thực ra Phan Khôi chẳng coi cộng sản ra cái gì, ông chống cái dốt, cái độc tài, cái thần tượng hoá, và cái ngu dân, từ trước khi có Bác và Đảng viết hoa. Ngay từ năm 1930, khi cộng sản mới nhen nhúm ở Việt Nam, ông đã viết mấy bài về cái ngu và cái dốt của họ: như bài Quân cách mạng đời nay (7) nói về việc ông tướng cách mạng Trần Đại Lộc, dơ tay lên trán đỡ đạn; bài Quốc ngữ của bọn cọng sản (8) nói về việc cộng sản muốn sửa chữ: Pháp viết là Fáp, gì viết là zì, đ viết là d. Ý ông: Nếu chỉ muốn thay đổi quốc ngữ thì cũng chẳng sao, nhưng họ lại chủ trương đấu tranh giai cấp mới bậy. 

Bình sinh, ngòi bút Phan Khôi không sợ ai bao giờ: Năm 1906, ông viết đơn kiện triều đình vì thi cử gian lận. Năm 1928, ông viết bài Cái dốt của triều đình Huế (9) đại ý nói: Làm Hán Việt từ điển, mà không biết từ điển với tự điển khác nhau như thế nào (10).

Năm 1928, bàn về việc cấm sách, ông viết: Ở thế kỷ hai mươi, đâu đâu người ta cũng hô lớn nào tự do, nào tôn trọng quyền ngôn luận, quyền xuất bản, mà lại có cái chuyện cấm sách mới lạ. "Vậy thì chúng tôi viết đây để làm chi? (...) Một cuốn sách không cấm thì người ta coi như thường, không chú ý. Đến cấm đi một cái, thì hết thẩy ai nấy đều chú ý vào nó. Cấm đi, là muốn cho người ta đừng đọc, mà không ngờ lại làm cho người ta càng đọc! (...) có nhiều cuốn sách hiển thánh rồi. Việt nam vong quốc sử và Hải ngoại huyết thư đã hiển thánh hai mươi năm nay (...) Không có cái thú gì bằng cái thú trong lúc trời mưa, đóng cửa cho chặt lại, rồi... đọc sách cấm! Cái thế lực của sách cấm là như vậy, còn cấm sách nữa thôi?... (11).

Những lời này mà viết ngày nay thì bị coi là nói xấu Đảng, là phản động, chẳng tờ báo nào dám in. Nhưng sự thần tình của một tác giả lớn là tuy Phan nói phiếm về những việc dưới thời Pháp thuộc, cách đây 90 năm, mà lại rất trúng với việc thời nay. Trong thuật ngữ văn học, người ta gọi đó là một nhà văn có tính hiện đại.

Về chuyện cấm in, cấm sách, có một số bài của Phan Khôi, đăng trên báo Trung Lập, Sài Gòn, 1930, được Lại Nguyên Ân sưu tầm. Nhưng khi in thành sách, gia đình tự kiểm duyệt bỏ đi. Bản trên mạng lainguyenan.free.fr đầy đủ hơn.

Trong số những bài bị bỏ, có bài Khoái cho ông Mussolini (12) vì nội dung khen Mussolini nên bị loại, oan. Việc khen Mussolini, năm 1930, chẳng đáng xấu hổ, mà phải cắt, vì lúc ấy, bộ mặt trái của đảng Phát-xít chưa được thế giới biết đến. Phan khen cái gì? Phan khen Mussolini đã cấm tiệt thói ăn mày: khi nước Ý có nơi bị động đất, gần 2000 người chết, vậy mà Mussolini cấm không được lập hội này hội kia xin tiền. Gần đây nước Nhật vừa động đất, vừa sóng thần, vừa bể lò nguyên tử, mà họ có ngửa tay xin tiền ai đâu? Mussolini chẳng được cái nết gì, nhưng ít ra cũng được cái nết dạy dân không đi ăn mày. Mà cái nết ấy, dân ta, hiện nay đến cả lãnh tụ, cũng còn đang cần phải dạy. Phan Khôi hiện đại là ở chỗ đó.

Bài "Hơn hai trăm năm còn thúi" cũng bị cắt, vì ông kể chuyện ngày 11/5/1930, "có một nhà nọ đào móng đặng xây nhà, trong khi đào, phát lộ ra một cái quan tài xưa coi bề ngoài còn chắc. Người ta bèn mở ra xem thấy thi thể đã nát rồi, chỉ còn có bộ xương và quần áo. Quần áo cái dáng vẫn tươi tốt, nhưng khi động tới liền hoá ra tro. (...) Thế nhưng lạ một điều là lúc dỡ ra, hơi hám xông lên vẫn còn thú nực thúi nồng (...) Vậy mới biết giống người ta là giống thúi hơn hết thẩy mọi loài (...) Cái thúi hai trăm năm còn chưa mấy chút; có cái thúi đến muôn năm, là kẻ "di xú vạn niên" kia" (13).

Bài này chẳng hề nói động đến ai, chỉ nói chuyện... đào mả, tuyệt không chạm huý, mà người ta cũng sợ "nhạy cảm" phải cắt đi. Ý Phan Khôi: những kẻ nhất thời "vàng ngọc dát đầy, tiền hô hậu ủng" nhưng chả biết mai sau thế nào, có "di xú vạn niên" chăng? Ví như Tần Thủy Hoàng đốt sách? Thời ấy có mấy ai đọc sách, mấy ai biết chuyện? Nhưng bọn nhà văn thường nhớ dai và bênh nhau xuyên thế kỷ. Đụng đến sách vở, thì hậu quả khó lường.

Còn bài Thúi thây bị cắt là đúng lắm, vì Phan dám đụng tới thây ông Lê Ninh. Từ 1930, Phan đã chẳng coi ông thánh này ra gì: "An Nam ta hay mắng những người biết ăn mà không biết làm là "đồ thúi thây". Kỳ thiệt An Nam ta thuở nay có mấy ai mà thây bị thúi bao giờ. Duy thấy bây giờ cái thây ông Lê Ninh nước Nga bị thúi đó thôi. Việc đời hay tréo nhau là vậy, ông Lê Ninh lại là người ăn ít mà làm nhiều!

Không biết hồi họ ướp xác ông thế nào mà ngày nay đến nỗi thúi ra. Cứ theo tin mới đây thì xác ấy không thể để được nữa mà phải thiêu ra tro. Nếu vậy thì ra khoa học ngày nay lại dở hơn ngày xưa.

Ai có tri thức khá một chút, há không biết bên Ai Cập đời xưa có cái thuật ướp xác để lâu kêu là "momie" hay sao? (...) Xứ Nga lạnh hơn Ai Cập, sao xác ông Lê Ninh lại thúi? (...) Đến như xứ An Nam mình, thuộc về ôn đới, khí hậu điều hòa, có lẽ giữ xác được lâu mà không thúi chăng? Song ngặt vì An Nam ta lại không có cái xác nào đáng ướp hết; cái thây nào cũng đáng để cho thúi quách hết thẩy" (14).

Bạn đọc ngày nay phải phục Phan Khôi là tiên tri!

Những việc ông viết cách đây hơn 80 năm mà cứ như bây giờ. Văn học gọi đó là tính hiện đại.

♦ Phê Bình Lãnh đạo văn nghệ và Nắng Chiều 
Thời kỳ NVGP, Bài Phê bình lãnh đạo Văn Nghệ là tác phẩm tiêu biểu. Phan Khôi vẫn "ngựa quen đường cũ", xử sự như dưới thời phong kiến, nghĩa là nghĩ sao viết vậy. Ông kê khai toạc hết những nét chính trong đời sống văn nghệ: kiểm duyệt lời nói, chữ viết, cấm phê bình, chỉ đạo sáng tác, đàn áp nhà văn, thánh hóa lãnh tụ, bè phái văn nghệ.
1- "Tôi muốn nói sự thực"- Nhưng người ta bảo: "có những sự thực không nên nói".
2- "Tôi muốn phê bình"- Nhưng người ta bảo, "phê bình nội bộ thì được, không nên viết lên báo, bên địch chúng thấy chúng sẽ xuyên tạc".

3- Về việc "giáo dục sáng tác": "Nhược bằng bắt hết mọi người viết, phải viết theo lối với mình thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm thứ hoa cúc đều phải nở ra cúc vạn thọ hết".

"Đảng giáo dục Xuân Diệu làm cách mạng chứ có giáo dục Xuân Diệu làm thơ đâu!"

4- Về sự đàn áp nhà văn: "Hỏi độc tội một Trần Dần thôi là cái ngón chính trị tài tình lắm đấy, để cô lập Trần Dần và phân hóa những người trong Giai Phẩm, cái ngón ấy đã thành công".

5- Về việc tôn sùng lãnh tụ: "Tôi còn nhớ có vị bắt lỗi trong bài thơ Trần Dần có chữ Người viết hoa, lấy lẽ rằng chữ Người viết hoa chỉ để xưng Hồ chủ tịch, thế mà Trần Dần lại viết hoa chữ Người không phải để xưng Hồ chủ tịch. Tôi ngồi nghe mà tưởng như ở trong chiêm bao, chiêm bao thấy mình đứng ở một sân rồng nọ, ông Lê mỗ tố cáo ông Nguyễn mỗ trước ngai vàng: "Trong phép viết chỉ có chữ nào thuộc về Hoàng thượng mới phải đai, thế mà tên Nguyễn mỗ viết thư cho bạn dám xài những chữ không phải thuộc về Hoàng thượng. Nhân may cho tôi, tôi tỉnh ngay ra là mình đang ngồi ở trong phòng họp hội Văn nghệ".

6- Về tính gian lận trong việc chấm giải thưởng văn học 54-55: "Cả ba ông Xuân Diệu, Nguyễn Huy Tưởng, Hoài Thanh đều có tác phẩm dự thi mà đều ở trong ban chung khảo. Nếu ở trong ban chung khảo mà thôi còn khá, thử điều tra lại hồ sơ, thì ba ông còn ở ban sơ khảo nữa, sao lại có thể như thế? Trường thi phong kiến xưa, tuy có ám muội gì bên trong, chứ bên ngoài họ vẫn sạch tiếng. Một người nào có con em đi thi thì người ấy có được cắt cử cũng phải hồi tỵ, không được chấm trường. Bây giờ đến cả chính mình đi thi mà cũng không hồi tỵ, một lẽ là ở thời đại Hồ Chí Minh, con người đã đổi mới, đã liêm chính cả rồi, một lẽ trắng trợn vì thấy mọi cái miệng đã bị vú lấp".

Phê bình lãnh đạo văn nghệ trở thành kim chỉ nam cho các nhà văn trên con đường đòi tự do tư tưởng. Dưới cái tựa: Phê bình lãnh đạo văn nghệ, Phan Khôi phê bình cả lãnh tụ tối cao Hồ Chí Minh, điều không thể chấp nhận được trong xã hội cộng sản.

Còn một tác phẩm nữa, hầu như không ai biết, đã bị chôn vùi, đó là tập truyện ngắn Nắng chiều. Vào lúc "dầu sôi lửa bỏng", toàn bộ NVGP đã bị đóng cửa được một năm, đang chờ lệnh của Đảng, Phan Khôi đem tập Nắng chiều đến Hội Nhà Văn để in. Trong bài Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi, Đoàn Giỏi viết:
"Tháng 12/1957, Phan Khôi đưa đến nhà xuất bản Hội Nhà Văn một xấp bản thảo dầy, bên ngoài đề hai chữ "Nắng chiều" (15). Mượn giọng đả kích, để công bố cho hậu thế biết nội dung tác phẩm cuối cùng của Phan Khôi, Đoàn Giỏi đã bị trừng phạt như một thành viên NVGP.

Nắng chiều, gồm những bài bút ký và tạp văn viết trong kháng chiến, và mấy bài viết sau 1954: Cầm vịt, Tiếng Chim, Cây Cộng sản, Thái văn Thu, Chuyện ba ông vua Càn Long, Quang Trung và Chiêu Thống, Giới thiệu Nguyễn Trường Tộ.

Đoàn Giỏi đã giới thiệu từng văn bản một: Truyện Thái văn Thu chống lại bạo lực cách mạng và sự đàn áp NVGP. Chuyện ba ông vua... đả kích chế độ phong kiến ngày nay. Bài Nguyễn Trường Tộ so sánh chế độ hiện hành với những triều đại phong kiến trước. Riêng hai bài Cầm vịt và Tiếng chim, Phan Khôi "đánh vào vấn đề căn bản của chủ nghiã Mác-Lê Nin", để xác định: Xã hội không có đấu tranh giai cấp. Của ai người nấy ăn. Vấn đề đấu tranh giai cấp chỉ là kiểu rình phần ăn của kẻ khác. Đoàn Giỏi trích một đoạn trong bài Tiếng chim của Phan Khôi: "Một lần ở Cẩn Nhân, tôi ngồi nơi nhà sàn, thấy hai con quạ rình bắt con gà con, một con bắt được  bay ra đứng ở bờ ruộng, xé con gà ra ăn; còn con kia bị gà mẹ chống cự, bắt không được, cũng bay ra đứng cạnh con quạ thứ nhất, nó nhìn sững và đi đi lại lại, rồi cũng bay đi tuốt, nó không hề nói: "Mầy phải cho tao với!"

Đoàn Giỏi giải thích như sau: "Vấn đề thứ nhất Phan Khôi đặt ra là không có người bóc lột người. Vấn đề thứ hai là của ai người ấy ăn. Cho đến thứ quạ kia còn biết giành giật cái miếng không phải của nó là không ổn, và không hề nói: Mầy phải chia cho tao với".

Bài thứ nhì Cây Cộng sản được giới thiệu khá kỹ, Đoàn Giỏi viết: "... Cây Cộng sản, ngay câu đầu, Phan Khôi đã chỉ ngay vào Việt Bắc, quê hương cách mạng:
"Có một thứ thực vật nữa cũng như sen nhật bản, ở xứ ta trước kia không có mà bây giờ có rất nhiều. Đâu thì tôi chưa thấy chỉ thấy trong mấy tỉnh Việt Bắc không chỗ nào là không có". Đầu tiên Phan Khôi thấy nó rải rác mấy nơi ở tỉnh Phú Thọ, và nhiều nhất là ở Thái Nguyên và Tuyên Quang. Nó mọc trên thị trấn bị ta phá hoại "như rừng, ken kít nhau". Nơi gọi là Cỏ Bù-xít vì nó có mùi hôi như con bọ xít, nơi gọi là Cây Cứt lợn, nơi gọi là Cây chó đẻ. "Tên đều không nhã tí nào hết" thứ cây ấy những người có học không gọi bằng Cây Cứt lợn dại, mà gọi bằng Cây Cộng sản". (16)

Rồi Đoàn Giỏi kể tiếp về gốc gác cái tên này: Phan Khôi bịa ra là trước kia xứ ta không có cây này, người Pháp đem đến giồng ở các đồn điền cà phê, cao su, rồi chẳng bao lâu nó lan ra, không diệt được, tình trạng này bắt đầu từ những năm 1930-31, cùng lúc Đông Dương Cộng Sản Đảng bắt đầu hoạt động, "phong trào Cộng sản cũng lan tràn nhanh chóng như thứ cây ấy, cũng không trừ khử được như thứ cây ấy cho nên bọn Tây đồn điền đặt tên nó là "herbe communiste", đáng lẽ dịch là cỏ Cộng sản, nhưng nhiều người gọi là Cây Cộng sản. Nó còn một tên nữa rất lạ..."

Tên này là gì? Thì Phan Khôi lại bịa lời một ông già Thổ: "ông nói tên nó là "Cỏ cụ Hồ". Thứ cỏ này trước kia ở đây không có, từ ngày cụ Hồ về đây lãnh đạo cách mạng, thì thứ cỏ ấy mọc lên, không mấy lúc mà đầy cả đường xá đồi đống, người ta không biết tên nó là gì, thấy nó cùng một lúc với cụ Hồ về thì gọi nó như vậy". 

Tại sao Phan Khôi đem Cây Cứt lợn, cũng gọi là Chó đẻ, là Bọ xít "toàn những tên không nhã tý nào nào hết" để gọi nó là Cây Cộng sản và Cỏ cụ Hồ?" (17)

Câu hỏi "ngây thơ" của Đoàn Giỏi chứng tỏ sự "đồng loã" của ông với tác giả Nắng Chiều. Và Đoàn Giỏi đã phải trả giá. Đây là lần cuối cùng Phan Khôi dùng ngòi bút châm biếm của mình để chống lại sự độc tài và dốt nát, mà ông đã mục kích và đả kích từ năm 1930.

Cũng về tập bản thảo Nắng chiều, Chế Lan Viên lại một lần nữa hiện ra như một hung thần của trí thức và chữ nghiã qua sự mô tả của Đào Vũ: "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có đọc bản thảo kia", "Đồng chí Chế Lan Viên lúc ấy có phân tích nhiều mặt về những ám ý xấu xa, phản động trong những “tìm tòi” ấy của Phan Khôi; và tỏ ý rất công phẫn. Chúng tôi cũng đồng tình". Vẫn theo Đào Vũ, khi "Phan Khôi nói với chị Chế Lan Viên nên về khuyên bảo anh ấy đừng đi theo lãnh đạo", thì Đồng chí Chế Lan Viên "lên tận phòng của y cho một bữa nên thân. Những nào: Đừng cậy già mà nói láo, đây ba mươi năm nữa cũng già, đồ đốn mạt đồ hèn v.v…" (18).

♦ Những ngày tháng cuối
Gia đình Phan Khôi nhận hậu quả cuộc "đấu tranh giai cấp" khi ông đang ở Việt Bắc. Đào Vũ kể:
"Đồng chí cùng quê với Phan Khôi ôn lại chuyện nhân dân địa phương căm thù định đến tàn phá nhà Phan Khôi từ phong trào bình dân (1936) và cho biết, ý định ấy mãi đến sau cách mạng (sau 1945) mới thực hiện được: Những nương dâu phì nhiêu kia của Phan Khôi bà con nông dân đã giành lấy về tay chia nhau trồng trọt, tre nhà Phan Khôi, vì căm thù, bà con đốn không còn một gốc, nhà của Phan Khôi, bà con đập lấy gạch về xây bao nhiêu hầm khắp làng để che chở cho dân làng kháng chiến trường kỳ. - Giữa Phan Khôi và nông dân địa phương từ bao lâu, đã diễn ra một cuộc đấu tranh giai cấp gay gắt" (19).

Sau Nhân Văn, Phan Khôi bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Trần Duy viết: "Cũng từ dạo ấy, tôi thấy sức khoẻ của ông Phan Khôi sa sút. Có lúc thấy ông đi không vững. Có lúc thấy ông khó thở. Ông nói với tôi ông bị sốt thường xuyên, xin được đi khám bệnh nhưng không ai ký giấy giới thiệu.

Một buổi chiều tôi đến 51 Trần Hưng Đạo thì gặp cảnh: Một quan chức có quyền lực quát đuổi vợ chồng ông ra khỏi số nhà 51 Trần Hưng Đạo.

Người này quát lớn:
"Tống cổ thằng già khốn nạn này ra khỏi đây!"

Vợ ông, bà Huệ ôm chăn màn, sách vở; ông Phan Khôi lảo đảo theo sau. Ra cổng gặp tôi, ông chào và nói:
"Thôi, anh về đi… Buồn không cần thiết!" (20)

Bị đuổi khỏi 51 Trần Hưng Đạo, Phan Khôi dọn về số 10 Nguyễn Thượng Hiền rồi 73 Phố Thuốc Bắc. Lâm Bích Thủy, con gái nhà thơ Yến Lan, viết về căn nhà cuối cùng này: 
"Gia đình tôi ở phía dưới, giữa 5 gia đình khác, kề vách là gia đình cụ Khôi. Phía ngoài căn nhà cụ là chân cầu thang của hộ bà Cán, đến bể nước công cộng. Căn dành cho gia đình cụ là một cái buồng khép kín, rộng chừng 9 m2, bằng 3/4 gian nhà tôi, có thể đấy là nơi thờ cúng của chủ trước. Giữa nhà tôi và nhà cụ là một cửa sổ nhỏ, to bằng bàn cớ tướng. Tôi thường ngồi cạnh cửa sổ nhà cụ giặt giũ.

Ban đầu mới dọn về, tôi thấy ba tôi và các chú nhà thơ hay vào phòng cụ Khôi uống trà, bàn chuyện thời sự, bình luận những bài thơ vừa đăng báo; bọn trẻ chúng tôi chạy vô chạy ra nhà cụ để chơi với các anh các chị con cụ, mọi người đều thân thiện, cởi mở. Thế rồi, dần dần tôi thấy có một điều gì đó, lung lắm. Các cô các chú không xởi lởi như trước nữa. Trong cư xử tỏ ra dè dặt, dò xét. Nhà cụ Khôi cứ vắng dần bóng người lớn, vắng dần tiếng trẻ. Không khí trong ngôi nhà nặng nề, xét nét, xa lạ. Tôi hỏi má tôi "tại sao vậy?". Bà nói nhỏ sợ người khác nghe: " Ông Khôi đang bị coi là người cầm đầu nhóm Nhân văn - Giai phẩm, con không nên vào nhà cụ, có người đang theo dõi nhà mình đấy…". Tôi không hiểu Nhân văn - Giai phẩm là tội gì, nặng đến mức nào mà ai cũng sợ liên lụy đến như thế. Tuy không nói ra nhưng ai cũng muốn chứng minh rằng mình không hề có quan hệ thân mật với gia đình cụ Khôi. Họ tránh nhà cụ như thể nhà có bệnh dịch lây lan. (...) Dường như gia đình cụ hiểu được điều băn khoăn của mọi người nên tế nhị lấy báo dán kín cửa sổ lại. Lâu lâu tôi thấy cụ ngang qua nhà, vẫn dáng người cao, nhưng gầy yếu hơn trong bộ đồ tây màu vàng nhạt, tóc còn lơ thơ vài cọng bạc trắng, ẩn sau chiếc mũ phớt màu nâu. Trên tay cụ giờ có thêm chiếc ba-toong, gặp ai cụ không nhìn, mắt hướng thẳng phía trước như chưa hề biết họ. 

Như trước đây, tôi vẫn ngồi giặt bên bể nước, cạnh cửa sổ nhà cụ. Tôi liếc nhìn cụ qua cửa sổ. Cụ ngồi trên giường, giờ cụ trầm ngâm, buồn buồn, mắt nhìn đâu đâu, tôi thương cụ quá chừng. Có lần tôi nghe cụ ngâm bằng giọng Quảng Nam: "Làm chi cũng chẳng làm chi / Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao / Làm sao cũng chẳng làm sao / Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi…" (21)

♦ Cái chết của Phan Khôi
Phan Cừ, Phan An viết: "Ông nằm quay mặt vào tường lặng lẽ trút hơi thở cuối cùng, trong sự túc trực chăm sóc của bà vợ Nguyễn Thị Huệ (...) Cỗ xe song mã màu đen quàn thi hài ông, đi sau là vợ con, cháu cùng một vài bạn hữu tiễn ông lần cuối đến nghiã trang Hợp Thiện ở phía đông thành phố Hà Nội. Trong chiến tranh, phần mộ của ông bị thất lạc" (22).

Phan Thị Thái viết: "Mộ cha tôi được ghi dấu bằng tấm bia nhỏ mang tên: Chương Dân (...) Khoảng một năm trước khi mất, thầy tôi rất buồn. Mỗi dịp nghỉ hè về thăm thầy, tôi thường thấy người ngồi bàn viết lách hoặc đọc sách.
Có khi nằm đọc rồi ngủ quên nhưng hai tay vẫn giữ chặt quyển sách dày cộm, hầu hết là sách chữ Hán. Hầu như thầy tôi không có thì giờ rảnh. Sáng sáng đi vài ba đường quyền, ăn uống điểm tâm rồi ngồi vào bàn làm việc cho đến tối. Chỉ có một tuần trước khi mất, vì quá đuối sức, người đành phải lìa chiếc bàn và quyển sách. Gia tài lớn mà thầy tôi để lại cho chúng tôi là sách và tất nhiều các bài viết, các bài nghiên cứu về tiếng Việt và chữ Hán. Chúng tôi đã gìn giữ tất cả trước tác của thầy tôi trong nhiều năm và sau đó đã chuyển giao cho Viện Hán Nôm để các đồng nghiệp của ông tiếp tục công việc nghiên cứu, dịch thuật" (23).

Lâm Bích Thủy viết: "Chở linh cữu cụ là một chiếc xe có hai con ngựa kéo bị che hai bên mắt, khoảng bảy hoặc tám người, kể cả người đánh xe ngựa và ba tôi − nhà thơ Yến Lan. Nhưng điều để lại sau đám tang là sự dè bỉu và mỉa mai đối với ba tôi mà người thời bấy giờ gọi là "thằng". Sáng hôm sau, ngoài phố, họ kháo nhau bằng những câu: "Nghe nói ngoài gia đình còn có thằng cha nhà thơ nào đó cả gan đưa đám lão Phan Khôi". Giải thích điều này ba tôi nói: "Đó là đạo lý của người Việt Nam − Nghĩa tử là nghĩa tận" (24).

Theo Lại Nguyên Ân, nghiã trang Hợp Thiện bị chiếm đất dần để xây nhà. Năm 1970, nghiã trang này được chuyển lên Bất Bạt. Những ngôi mộ bị dời đi, có đánh số, nhưng sau gia đình không tìm lại được. Tất yếu của định mệnh? Hay là vẫn cố tình xoá dấu Phan Khôi? 

Được biết những năm gần đây đã có ngôi mộ của Phan Khôi ở Điện Bàn, chúng tôi hỏi nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân về việc này, qua điện thư ngày 27/7/2012, ông cho biết: 
"Chuyện mộ Phan Khôi, thì con trai ông là Phan An Sa kể cho tôi: Năm 1959 ông mất, được chôn cất tại nghiã trang Hợp Thiện, Hà Nội. Theo anh Sa thì mộ ở phía đông khu nghiã trang. Khu nghiã trang này, từ những năm 1960 bị lấn từng phần làm một số cơ quan, xí nghiệp như nhà máy mỳ kẹo Hải Châu, kho của mấy công ty thương mại quốc doanh, rồi phần giữa nghiã trang cũng sớm bị dùng làm bãi chiếu bóng Mai Động, vv... Đến đầu những năm 1970 chính quyền Tp. Hà Nội cho chuyển toàn bộ các ngôi mộ còn lại ở Nghiã trang Hợp Thiện lên nghiã trang Yên Kỳ ở huyện Ba Vì (khi đó thuộc tỉnh Hà Tây), lấy đất xây thêm một nhà máy dệt.

Theo tôi hỏi một số viên chức làm ở Cty quản lý nghiã trang Hà Nội, thì các ngôi mộ chuyển lên chỉ được đánh số chứ không gắn bia mộ họ tên, phần họ tên ở bia mộ cũ được ghi vào sổ lưu lại Cty quản lý nghiã trang, gia đình nào cần tìm phải tới xem sổ lưu ấy để xác nhận lại vị trí mộ ở nơi mới Yên Kỳ.

Tuy vậy, các con ông PK tìm đến vị trí mộ ở Hợp Thiện theo trí nhớ thì không thấy, đào cũng không thấy, hình như cũng không có hồi âm gì từ thông tin về số mộ đưa lên Yên Kỳ, cuối cùng đành bốc một ít đất ở nơi mà họ nhớ là nơi chôn lần đầu, đem về trong quê ở Quảng Nam chôn vào trong ngôi mộ trống, tất nhiên có khắc bia họ tên lên đấy".   

Điều mà Phan Khôi làm cho bà Cố cách đây hơn nửa thế kỷ, tức là kiện cái chế độ phong kiến, để mộ của bà cố được trở về chôn ở mảnh đất gia tiên, hiện chưa ai làm cho ông. Phan Khôi có mười con, bao nhiêu cháu? Nếu ngày nay có một sự xám hối nào đó về phía chính quyền, hẳn không phải là những lễ kỷ niệm, với những bài ca tụng vô bổ, mà là việc tìm lại hài cốt Phan Khôi trong đám mộ ở Yên Kỳ, xác định ADN, để dựng lại ngôi mộ Phan Khôi, cho xứng đáng với địa vị của một trong những nhà văn, nhà trí thức và tư tưởng hàng đầu của Việt Nam trong thế kỷ XX.

Chú thích:
(1) Hữu Thanh là báo của Ngô Đức Kế, một trong những người lãnh đạo phong trong trào Đông Du và Duy Tân, vừa từ Côn Đảo trở về. 
(2) Phan Thị Nga, bđd.
(3)  Phan Khôi niên biểu, Chương dân thi thoại, Đà Nẵng, 1996, trang 157.
(4) Nhớ cha tôi, Đà Nẵng, 2001, trang 39. 
(5) Xin nhắc lại: Dejean de La Bâtie, người Pháp lai, là đồng chí của Nguyễn An Ninh, từng làm chủ nhiệm báo La Cloche fêlée (Chuông rè). Phan Văn Hùm trong Ngồi tù khám lớn (Bảo Tồn, Sài Gòn, 1929. Phan Tùng Mai (con Phan Văn Hùm) tái bản, Sài Gòn, 1957) cho biết: lần vào tù năm 1928, Dejean được giam cùng với người Pháp, còn Nguyễn An Ninh, thì các cai tù Pháp rất nể trọng, gọi là Monsieur.
(6) Tài liệu của Lê Thị Kinh, in lại trong Nhớ cha tôi, trang 279-280.
(7) Trung Lập số 6151 (20/5/1930). 
(8) Trung Lập, số 6235 (1/9/1930). Phan Khôi thường viết: cọng sản. Cả hai chữ cộng và cọng đều dùng được. 
(9) Đông Pháp, số 717 (8/5/1928). 
(10) Phan Khôi giải thích: Tự là chữ, mà từ là lời. Trong tự điển mỗi mục từ chỉ có một chữ. Trong từ điển mỗi mục từ có thể có nhiều chữ ghép lại. Nhưng không phải chữ ghép nào cũng được coi là từ để đem vào từ điển được. Ví dụ, thiên mã thì gọi là từ được, vì đó là một cách nói đặc biệt (expression), gần như một điển cố, chỉ việc vua Võ Đế nhà Hán có con ngựa hay lắm, vua đặt tên là thiên mã, tức là ngựa nhà trời. Còn tẫn mã (ngựa cái) hay dịch mã (ngựa trạm) thì không thể đem vào từ điển được, vì nếu cứ lấy những chữ ghép tràn như vậy, thì phải bao nhiêu từ điển cho đủ! 
(11) Phan Khôi, Cấm sách, sách cấm, Đông Pháp thời báo, số 763 (1/9/1928).
(12)  Khoái cho ông Mussolini, Trung Lập, số 6207 (28/7/1930).
(13)  Hơn hai trăm năm còn thúi, Trung Lập, số 6152 (21/5/1930). 
(14) Thúi thây, Trung Lập, số 6216 (7/8/1930).
(15) Đoàn Giỏi, Tư tưởng phản động trong sáng tác của Phan Khôi, Văn Nghệ số 15, tháng 8/1958, in lại trong Trăm hoa đua nở trên đất Bắc của Hoàng Văn Chí.
(16) Đoàn Giỏi, bđd.
(17) Đoàn Giỏi, bđd. 
(18) Đào Vũ, Tính cách vô lại và bộ mặt chính trị nhơ nhớp của Phan Khôi ngày nay, Văn nghệ, số 12, tháng 5/1958 – Số đặc biệt thứ hai chống NVGP.
(19) Đào Vũ, bđd. 
(20) Trần Duy, Tưởng niệm về Phan Khôi, Talawas 18/6/2008.
(21) Lâm Bích Thuỷ, Thủy chung tình bạn sau linh cữu, tài liệu Talawas.
(22) Phan Cừ, Phan An, bđd. 
(23) Phan Thị Thái, Nhớ cha tôi, học giả Phan Khôi. 19/12/1996, Kiến Thức Ngày Nay.
(24) Lâm Bích Thuỷ, bđd.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/04/thuy-khue-phan-khoi-1887-1959_21.html
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001