Lê Xuân Khoa
Trong bài, “Chúng ta cần hoà hợp, không cần hoà giải” của ông Bát Thạch Kiều (Diễn Đàn, 3.5.2013), tác giả nêu lên hai điểm then chốt:(1) Đại đa số người Việt hiện nay dù ở đâu cũng không còn chịu trách nhiệm gì về cuộc chiến đã qua, thế thì còn cần gì nói đến hoà giải.
(2) Đất nước đang cần hoà hợp hơn bao giờ hết để mọi người đồng lòng phát triển kinh tế và giữ gìn lãnh thổ, (nhưng) không thể có hoà hợp nếu không có dân chủ.
Tôi chia sẻ ưu tư của tác giả nhưng có ý kiến khác như sau:
1.
Đúng là đại đa số người Việt hiện nay không chịu trách nhiệm gì về cuộc chiến đã qua nhưng họ đang phải chịu nhiều hậu quả tai hại, trực tiếp hay gián tiếp, do phe chiến thắng gây ra cho đất nước và dân tộc. Phe thắng trận, cụ thể là giới lãnh đạo và hậu duệ của họ, qua bộ máy cai trị độc tài và tham nhũng, đang áp dụng chính sách nô lệ hoá toàn dân và kết tội những người yêu nước là kẻ thù.
Thế hệ người Việt sau 1975, dù không có trách nhiệm về cuộc chiến, vẫn có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của tổ quốc và quyền tự do, hạnh phúc của người dân. Thế hệ trẻ ở hải ngoại lại không thể quên những đau khổ, nhục nhằn mà gia đình họ phải chịu sau ngày thống nhất, hay những thảm họa trên đường vượt thoát tìm tự do mà ít nhiều gì họ cũng là nạn nhân. Nhớ đến quá khứ đau thương ấy không phải để nuôi dưỡng thù hận mà chính vì cần có “sự công chính của lịch sử” để đem lại sự hoà hợp dân tộc, nhờ vậy Việt Nam mới có thể trở thành một quốc gia giàu, mạnh và dân chủ.
Tuy nhiên, mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi chính quyền thật tâm nhìn nhận những sai lầm đã qua và hoà giải với những người yêu nước bất đồng chính kiến và những nạn nhân của chính sách bất công, tham nhũng. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, chính quyền cũng phải “hoá giải hận thù” bằng lời nói và hành động hoà giải cụ thể, thay vì chỉ kêu gọi “hoà hợp một chiều” có tính cách chiêu hồi và khai thác “khúc ruột ngàn dặm”. Chỉ riêng chuyện “hoà giải với những người đã nằm xuống” qua việc cho phép hội Vietnamese American Foundation (VAF) tu sửa Nghĩa trang quân đội miền Nam ở Biên Hoà và cải táng hài cốt những người đã chết trong các trại tù cải tạo, đã phải mất 38 năm sau thống nhất mới thấy có kết quả sơ khởi (ở đây phải ghi nhận công lao của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã mạnh mẽ can thiệp với chính quyền trung ương và địa phương mấy năm trước).
Bởi vậy, không thể đặt vấn đề hoà hợp mà không đề cập đến vấn đề hoà giải: hoà giải giữa chính quyền với trí thức và nhân dân trong nước, giữa chính quyền và cộng đồng hải ngoại. Chính quyền phải đi bước trước, và kết quả của hoà giải là “win-win” chứ không phải “zero sum”. Nói cách khác, hoà giải phải có trước hoà hợp vì hoà hợp là kết quả đương nhiên của hoà giải.
2.
Vấn đề hoà hợp dân tộc không nhất thiết phải đặt ra vì người Việt Nam trong và ngoài nước không chống nhau. Chỉ có chính quyền là gây chia rẽ, mâu thuẫn trong các thành phần dân tộc. Các thành phần dân tộc phải ý thức rõ được điều ấy và tìm cách liên kết với nhau thì mới tạo được sức mạnh đối thoại hay đối kháng với chính quyền. Chỉ khi đó, chính quyền độc tài mới có thể thật lòng nói chuyện hoà giải và thực hiện tiến trình dân chủ hoá. Mẫu hình Myanmar sẽ có thể được dùng làm cơ sở thảo luận và áp dụng thích hợp ở Việt Nam.
Nếu chẳng may, chính quyền chọn quyết định dùng bạo lực để đàn áp nhân dân thì đó chính là hành động tự sát.
L.X.K.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
nguồn:http://www.boxitvn.net/bai/46787
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
(2) Đất nước đang cần hoà hợp hơn bao giờ hết để mọi người đồng lòng phát triển kinh tế và giữ gìn lãnh thổ, (nhưng) không thể có hoà hợp nếu không có dân chủ.
Tôi chia sẻ ưu tư của tác giả nhưng có ý kiến khác như sau:
1.
Đúng là đại đa số người Việt hiện nay không chịu trách nhiệm gì về cuộc chiến đã qua nhưng họ đang phải chịu nhiều hậu quả tai hại, trực tiếp hay gián tiếp, do phe chiến thắng gây ra cho đất nước và dân tộc. Phe thắng trận, cụ thể là giới lãnh đạo và hậu duệ của họ, qua bộ máy cai trị độc tài và tham nhũng, đang áp dụng chính sách nô lệ hoá toàn dân và kết tội những người yêu nước là kẻ thù.
Thế hệ người Việt sau 1975, dù không có trách nhiệm về cuộc chiến, vẫn có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập của tổ quốc và quyền tự do, hạnh phúc của người dân. Thế hệ trẻ ở hải ngoại lại không thể quên những đau khổ, nhục nhằn mà gia đình họ phải chịu sau ngày thống nhất, hay những thảm họa trên đường vượt thoát tìm tự do mà ít nhiều gì họ cũng là nạn nhân. Nhớ đến quá khứ đau thương ấy không phải để nuôi dưỡng thù hận mà chính vì cần có “sự công chính của lịch sử” để đem lại sự hoà hợp dân tộc, nhờ vậy Việt Nam mới có thể trở thành một quốc gia giàu, mạnh và dân chủ.
Tuy nhiên, mục đích ấy chỉ có thể đạt được khi chính quyền thật tâm nhìn nhận những sai lầm đã qua và hoà giải với những người yêu nước bất đồng chính kiến và những nạn nhân của chính sách bất công, tham nhũng. Đối với người Việt Nam ở nước ngoài, chính quyền cũng phải “hoá giải hận thù” bằng lời nói và hành động hoà giải cụ thể, thay vì chỉ kêu gọi “hoà hợp một chiều” có tính cách chiêu hồi và khai thác “khúc ruột ngàn dặm”. Chỉ riêng chuyện “hoà giải với những người đã nằm xuống” qua việc cho phép hội Vietnamese American Foundation (VAF) tu sửa Nghĩa trang quân đội miền Nam ở Biên Hoà và cải táng hài cốt những người đã chết trong các trại tù cải tạo, đã phải mất 38 năm sau thống nhất mới thấy có kết quả sơ khởi (ở đây phải ghi nhận công lao của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đã mạnh mẽ can thiệp với chính quyền trung ương và địa phương mấy năm trước).
Bởi vậy, không thể đặt vấn đề hoà hợp mà không đề cập đến vấn đề hoà giải: hoà giải giữa chính quyền với trí thức và nhân dân trong nước, giữa chính quyền và cộng đồng hải ngoại. Chính quyền phải đi bước trước, và kết quả của hoà giải là “win-win” chứ không phải “zero sum”. Nói cách khác, hoà giải phải có trước hoà hợp vì hoà hợp là kết quả đương nhiên của hoà giải.
2.
Vấn đề hoà hợp dân tộc không nhất thiết phải đặt ra vì người Việt Nam trong và ngoài nước không chống nhau. Chỉ có chính quyền là gây chia rẽ, mâu thuẫn trong các thành phần dân tộc. Các thành phần dân tộc phải ý thức rõ được điều ấy và tìm cách liên kết với nhau thì mới tạo được sức mạnh đối thoại hay đối kháng với chính quyền. Chỉ khi đó, chính quyền độc tài mới có thể thật lòng nói chuyện hoà giải và thực hiện tiến trình dân chủ hoá. Mẫu hình Myanmar sẽ có thể được dùng làm cơ sở thảo luận và áp dụng thích hợp ở Việt Nam.
Nếu chẳng may, chính quyền chọn quyết định dùng bạo lực để đàn áp nhân dân thì đó chính là hành động tự sát.
L.X.K.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
nguồn:http://www.boxitvn.net/bai/46787
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001