Đặng Tiến - CHUYỆN KỂ NĂM 2000
at 10/06/2013 06:22:00 AM
Đặng Tiến -
Lời Tòa soạn.- Nhân dịp cuốn sách "Contes pour les siècles venir", bản dịch tiếng Pháp của cuốn Chuyện Kể Năm 2000 của tác giả Bùi Ngọc Tấn vừa được xuất bản tại Paris, nhà phê bình văn học Đặng Tiến gửi cho DĐTK bài viết về tác phẩm này của ông khi nó vừa ra đời năm 2000 tại Việt Nam và liền sau đó bị tịch thu. Mời quý độc giả theo dõi. - DĐTK
Biến
cố văn học Việt Nam năm 2000 là cuốn Tiểu thuyết gồm
hai tập Chuyện Kể Năm 2000 của
Bùi Ngọc Tấn, do nhà xuất bản Thanh Niên vừa mới ấn
hành thì hai tuần sau bị chính quyền tịch thu thiêu huỷ.
Nhưng
đã có 300 bản được lưu hành. Và ngay sau đó thì cả
hai tập, gồm hơn 400 trang, được truyền đi trên mạng
lưới điện tử trên toàn thế giới, được nhiều người
đọc, và được nhà xuất bản Thời Mới (Canada) kết
hợp với các báo Hợp Lưu (Hoa Kỳ) và Diễn Đàn Forum
(Pháp) in lại. Dường như nhà xuất bản Văn Nghệ tại
Hoa Kỳ cũng tái bản. Nghe nói còn nhiều bản in khác.
Tác
phẩm và tác giả
Chuyện
kể năm 2000
của Bùi Ngọc Tấn là một tác phẩm văn học hay, có
hiệu lực phê phán và tố cáo xã hội toàn trị. Ngoài
ra, còn có giá trị văn chương nghệ thuật, đáng được
phân tích trân trọng và đề cao.
Cuốn
sách bị thu hồi là điều dễ hiểu vì tác giả mô tả
cảnh tù đày trong nhiều trại giam miền Bắc từ 1968 đến
1973 và những đọa đày, bất công, phi lý của toàn xã
hội miền Bắc những năm sau đó. Tác phẩm sắc nét hiện
thực phê phán, và tố cáo không khoan nhượng. Điều đáng
ngạc nhiên là làm sao nhà xuất bản Thanh Niên, của đoàn
Thanh Niên Cộng Sản, lại ấn hành một tác phẩm như
vậy, đã đưa lọt qua bao nhiêu vòng duyệt xét của nhiều
tầng lớp kiểm duyệt. Đây là một điểm son của nhà
xuất bản Thanh Niên, gợi ý cho nhiều nhà xuất bản
khác. Đất nước đã anh hùng thì thiếu gì người dũng
cảm.
Một
khi sách đã in ra rồi thì khó bề thu hồi lại được
với không gian xi-be hiện đại. Tịch thu sách chỉ là
quảng cáo cho thông điệp và uy tín của tác giả. Dù là
tác phẩm không hay. Huống chi Chuyện
kể năm 2000
lại là một tiểu thuyết giá trị về nhiều mặt. Vì
vậy nhờ lệnh thu hồi của nhà nước, chỉ trong vòng
một vài tuần lễ mà Bùi Ngọc Tấn danh nổi như cồn.
Tác phẩm thì được nhiều người tìm đọc, khắp bốn
bể năm châu. Tuy nhiên tác giả cùng với nhà thơ Đoàn
thị Lam Luyến – người biên tập – vẫn tham dự Đại
Hội của Hội Nhà Văn tại Hà Nội, giữa tháng tư năm
2000, và được các bạn văn nghệ đặc biệt quan tâm
thăm hỏi.
Bùi
Ngọc Tấn, sinh năm 1934, quê huyện Thuỷ Nguyên, Hải
Phòng, viết văn từ 1954, làm phóng viên cho báo Tiền
Phong, Hà Nội rồi báo Hải Phòng Kiến Thiết, sau đó mất
việc vì lập trường chính trị, đi làm cán bộ Thuỷ
Sản tại Hải Phòng đến khi bị bắt tháng 11 năm 1968
với tội danh "phản
cách mạng, tuyên truyền chống chế độ"
(I, tr. 86), ít lâu sau nhà văn Vũ Thư Hiên, bạn ông, trong
cùng một vụ án (về sau) được gọi là "xét
lại chống đảng".
Được phóng thích năm 1973, ông về lại Hải Phòng sống
lây lất bên lề xã hội, làm đủ thứ nghề để mưu
sinh, và không có tác phẩm in ấn trong hai mươi năm. Mãi
đến 1993 mới có bài về Nguyên Hồng đăng trên báo Cửa
Biển tại Hải Phòng. Năm 1995, được in cuốn Một
Thời Để Mất,
hồi ký về Nguyên Hồng, 180 trang. Và sau đó là Những
Người Rách Việc,
1996, gồm 8 truyện ngắn, 176 trang. Đây là chưa kể đến
hàng loạt tác phẩm thuộc nhiều thể loại, dưới dạng
bản thảo, bị công an tịch thu không trả lại.
Lao pháp, cơ sở của chế độ
Chuyện
kể năm 2000
chủ yếu thuật lại một đoạn đời của nhân vật
chính Nguyễn văn Tuấn qua năm năm tù đày, không xét xử,
qua nhiều xà lim tiền trạm trước khi chuyển đến các
trại tập trung cải tạo miền thượng du Việt Bắc
(1968-1973). Và vài năm sau đó, khi ông về sống lây lất
tại Hải Phòng quê nhà.
Nếu
xét về cốt truyện, tỷ lệ số trang, tuyến nhân vật,
thì chủ yếu tác phẩm mô tả cảnh đoạ đày của tù
nhân – nhất là tù chính trị không có án. Nhưng tham
vọng người viết có lẽ không dừng lại ở đó. Tác
dụng của chữ nghĩa – nội dung sâu xa của tác phẩm –
đã phơi bày toàn bộ chính sách của một chế độ toàn
trị, sử dụng nhà giam để quản lý xã hội, áp đặt
chế độ chuyên chế, tập trung quyền sinh sát trong tay
một thiểu số của guồng máy.
Bắt
giam người không xét xử có nghĩa là muốn bắt ai thì
bắt, giam bao lâu, ở đâu, buộc làm gì cũng được. Chế
độ ấy gieo hãi hùng trong toàn bộ xã hội, ngay cả trên
đầu cán bộ cao cấp. Mỗi con người là một pháp nhân
bán hợp pháp, một công dân bán chính thức. Nó chưa được
làm một "phó thường dân" – vì không có "thường
dân" chỉ có những phạm nhân tiềm thể
(détenu
potentiel), tù nhân "nội trú" hay "ngoại trú"
(I, tr. 251), những "con tin" của guồng máy, không
chút tin cậy gì ở luật pháp. Vì chỉ có lao pháp thay
cho luật pháp. Không có công pháp, chỉ có công-an-pháp.
Nói khác đi, người đọc, qua Chuyện
Kể Năm 2000,
nhận thấy toàn bộ nền tảng cơ sở của một chế độ.
Nó "ưu việt" ở chỗ toàn hảo trong kỹ thuật
toàn trị. Đây là nội dung chính yếu của tác phẩm.
Những cảnh lao lý, đau thương đến mấy, cũng chỉ là
những "chi tiết" minh hoạ.
Quyền
lực và lạc thú
Nói
rằng xã hội không có luật pháp, có nghĩa là pháp lý
không bảo vệ con người, ở những quyền hạn tối
thiểu. Chứ luật lệ thì vẫn có, và nhiều lắm. Tuấn
khi ra tù, sau bao nhiêu nghề ngỗng lêu bêu, mới tìm được
việc làm ở xí nghiệp đánh cá, thì bị không biết bao
nhiêu phép tắc không cho đi làm, từ công an khu phố,
thành phố, sở Lao động, v.v...
Chế
độ toàn trị dựa trên vô số luật pháp để phát huy
quyền lực; người cầm quyền áp dụng luật pháp tuỳ
nghi tuỳ thích. Trong Thân
Phận Làm Người
(La
Condition Humaine)
một nhân vật của Malraux nhận xét : con người không
khát khao quyền lực mà chỉ đi tìm "lạc thú"
(le bon plaisir). Trong trại giam, ông quản giáo Thanh Vân tuỳ
hứng xử lý việc tù nhân được hay không được gặp
mặt gia đình thăm nuôi : "Từ
chỗ không được gặp mặt vợ, đến chỗ, được gặp
nhưng không được nhận quà, rồi nhận tí quà, rồi
cuối cùng được nhận tất cả. Thật là kỳ diệu"
(I, tr.19). Hoàn toàn tuỳ hứng. Trầm trọng hơn nữa là
ông Trần, giám đốc công an, định phóng thích Tuấn từ
1971, rồi đổi ý kiến, (I, tr.113) quyết định long trọng
cho Tuấn đi làm rồi ngầm ra lịnh cấp dưới cấm Tuấn
đi làm (II, tr.93 và 98) cũng là theo "lạc thú" –
dĩ nhiên là có động cơ, quyền lợi riêng, nhưng không
nhất thiết để thăng quan tiến chức như Tuấn "dự
đoán" ; có khi chỉ thực thi "lạc thú":
tôi đã hứa với anh điều này, nhưng nay tôi trở mặt,
làm điều kia, điều trái ngược. Vì đó là uy quyền, là
tự do của tôi, lạc thú của con mèo vờn vọc thân xác
con chuột. Thực hiện lời hứa là thường tình, làm
ngược lại lời hứa mới là "cách mạng".
Quyền
lực ban ơn để tạo uy. Ơn
uy là những lạc thú có khi bệnh họan. Xã hội nào cũng
có người bệnh hoạn, nhưng chỉ ở trong những xã hội
toàn trị bệnh hoạn mới đưa đến đỉnh cao của quyền
lực. Bi kịch ở chỗ : lạc thú người này gây ra
thảm cảnh người kia, tạo nên những tình huống hoàn
toàn phi lý và bi đát. Bi đát ở phần khổ ải đã đành,
còn bi đát ở chỗ phi công lý và phi luận lý. Như tảng
đá của Sisyphe.
Mạng
lưới toàn năng
Xã
hội toàn trị là một mạng lưới toàn năng. Hệ thống
trại giam toàn hảo ở nhiều điểm. Trước hết là không
thể trốn, vì không biết trốn đi đâu. Thời Pháp thuộc,
cán bộ Cộng Sản trốn tù về nhà dân, về cơ sở ẩn
náu suốt tháng quanh năm. Trại giam cộng sản hiệu lực
hơn : tù nhân, tên Sáng trốn năm lần đều không
thoát, vì không biết đi đâu. May lắm là về làng để
bị bắt lại trong lúc "ăn
cơm với mắm cáy cùng bố mẹ"
(I, tr.61).
Hoặc
giả như Già Đô, một Việt kiều cũ, khi được phóng
thích về thành phố, không gia đình, không nhà cửa, không
sống nổi, phải làm đơn xin vào tù trở lại, dĩ nhiên
là đơn không được cứu xét. Già Đô sống lây lất
trên những đống rác và chết trong một ngôi đình đổ
nát "Già
không chết trong tù, đúng như có lúc già mong ước"
(II, tr.89).
Thảm
khốc hơn nữa là Nguỵ Như Cần, tù chính trị, bị giam
cầm không án suốt ba mươi năm – người tù lâu nhất
nhì trong cả nước – quen sống với rừng sâu và muông
thú, hoàn toàn biệt lập với xã hội loài người, đến
khi được lệnh thả thì tự tử "treo
cổ lủng lẳng trong rừng, chết cứng từ bao giờ"
(II, tr.112). Một số cựu tù nhân khác như Min, Giang sống
lây lất bên lề xã hội, hành nghề trộm, cắp rồi bị
bắt trở lại.
Riêng
nhân vật chính, là nhà văn thuộc gia đình cộng sản,
được vợ con, bè bạn dũng cảm cưu mang, cũng phải
gian nan lắm mới kiếm được miếng cơm manh áo và nhất
là không thoát ly ra khỏi ám ảnh tù đày "Gặp
ai, ở đâu hắn cùng tưởng như gặp lại bạn tù cũ.
Những người đi trên đường không một ai cười :
Giống nhau. Xam xám. Đăm chiêu (...). Nhưng rồi hắn giật
mình : chẳng lẽ lại nhiều người đi tù đến thế.
Đất nước lắm người đi tù đến thế ??"
(I, tr.257).
Hỏi
thế là có ngày trở lại núi cũ, rừng xưa đấy...
* *
Tiểu
Thuyết hay Tự Truyện
Chuyện
Kể Năm 2000
được viết ở ngôi thứ ba, với chủ từ "hắn",
nhưng thực chất là một tự truyện. Tác giả có tác
phẩm từ 20 tuổi, đến 35 tuổi mới đi tù ; sau đó
lại có tác phẩm. Người đọc nhận ra ngay : hắn –
Nguyễn văn Tuấn là tôi – Bùi Ngọc Tấn. Dùng ngôi thứ
ba cho thuật sự nhẹ lời, khách quan hơn, để dễ bề
cay đắng. Biết đâu nhờ hư cấu mà dễ bề qua mắt
kiểm duyệt.
"Hắn"
nhân vật cùng năm sinh 1934 với tác giả, cùng ở đường
Điện Biên Phủ, Hải Phòng. Cùng đi kháng chiến chống
Pháp, về tiếp quản Hà Nội 1954, làm báo T (Tiền Phong),
viết sách, bị bắt, được thả cùng ngày. Cùng có những
người bạn chung, có khi kể tên thật như Dương Tường
(I, tr.193), Nguyên Hồng (I, tr. 137), Quang Dũng, có khi đọc
chệch đi một tý : Kiều Duy Vĩnh thành Kiều Xuân
Vĩnh, Lê Bầu thành Lê Bàn,... . Có khi chệch xa hơn :
Vũ Thư Hiên thành Nguyễn Vũ Phương "biên
tập viên điện ảnh"
(I, tr. 71) bị bắt cùng một thời điểm, cùng một tội
danh. Tên nhân vật Tuấn là tác giả Tấn thêm vào một
chữ u, trong u uất, u minh, u ngục ... Tên vợ là Ngọc,
đồng nghĩa với tên Bích ngoài đời.
Chúng
ta không cần phải là bới móc đời tư tác giả để
kiểm chứng người thật, việc thật trong tác phẩm, "Ai
đi phân chất một mùi hương"
(Xuân Diệu), nói chi đến việc đào bới phân tro để
tìm "hồn
của bông hường".
Nhưng cũng nên nêu lên một khía cạnh : Bùi Ngọc Tấn kể
chuyện người thật việc thật mà không dùng thể loại
trực tiếp là tự truyện, lại sử dụng tiểu thuyết là
một hình thức hư cấu. Lý thú ở chỗ : sự thật
hay hư cấu ... cũng vậy thôi ! Tôi, anh, mày, hắn ...
đều là một "chúng ta" nặng nề thân xác, đương
đầu thường xuyên với một guồng máy với "Người
vô hình toàn năng đang im lặng buộc tội"
(II, tr. 113). Ngoài ra, đại từ "hắn" như một
công cụ thi pháp, một kinh nghiệm mà Bùi Ngọc Tấn đã
thừa kế từ Nam Cao, cũng như một vài phong cách khác.
Nhưng lịch sử đã đưa Bùi Ngọc Tấn trôi giạt đi
"học tập" xa hơn Nam Cao. Chữ hắn trong Chuyện
Kể Năm 2000
mang tính chất bi kịch, phẫn nộ lẫn phản kháng chưa
có ở Nam Cao. Nên có thể nói : đây là chủ thể
"hắn-hiện-đại-hoá".
Hơn
nữa, vương quốc Việt Nam là một "cõi
nhân gian bé xíu".
Anh bắt bớ ai, thậm chí sắp nhốt ai, là thiên hạ đều
biết. Người bị bắt, vì chính trị tự dưng thành một
biểu tượng, huống hồ là "một
phóng viên có tiếng, quen biết rộng, khi bắt đã tạo
thành dư luận ầm ĩ. Nếu thả, lại càng ầm ĩ hơn"
(II, tr. 90).
Bùi
Ngọc Tấn không cần viết tự truyện hay hồi ký, bạn
đọc cũng nhận ra đâu là chuyện thật. Sử dụng ngôi
thứ ba, dùng "hắn" thay "tôi" không những
là một thủ thuật văn học, mà còn là một phản ánh và
một phản ứng xã hội, một xã hội cực kỳ "ưu
việt", trong đó người Việt Nam có cách riêng để
hiểu Rimbaud "Je est un autre" (Tôi là kẻ khác).
Dùng hắn thay tôi là tha hoá chủ thể phát ngôn. Tha hoá
còn có thể được hiểu nôm na : hoá
ra mình được... tha !.
Bùi Ngọc Tấn tham chiếu một nhân vật tiểu thuyết của
Huy-gô, tội đồ Jean Valjean, cái tên vang dội ngay vào
Giăng văn Giăng, kẻ móc túi trong Chuyện
Kể Năm 2000
. Uy- mua (humour) ở đây là tình cờ hay hữu ý?
Ngục
Tù và Trăng Mật
Sau
khi Tuấn bị bắt, các bạn ông bị theo dõi sát nút. Có
người như Bình sắm sẵn "ba
lô con cóc bộ đội cũ"
(I, tr.249). "Hai
vợ chồng cứ thế âm thầm chuẩn bị cho việc đi tù
của Bình. Và chính thời gian đó họ sống như trong tuần
trăng mật".
Sẵn sàng ba lô là chuyện thật, tôi đã từng nghe người
khác kể trước đây. Còn "tuần
trăng mật"
thì không biết thật đến đâu : bị công an gắn máy
ghi âm ngay đầu giường, hai vợ chồng không dám làm
tình. "Một
thời gian dài, anh hoàn toàn bị liệt"
(I, tr. 248). Nhưng sau đó "Bình
đã xác định lại : không thể để như người
impuissant. Như thế là không được. Là thua... Ta phải
giành lại phần tự do tối thiểu. Họ lại yêu nhau chăm
chỉ. Cả ban ngày lẫn ban đêm"
(I, tr. 250). Làm tình với vợ là một khẳng định tự
do, một thách đố chính trị, trong những điều kiện nào
đó, mà bằng giọng kể dí dỏm, Bùi Ngọc Tấn đã gợi
lại những nét cụ thể.
Chuyện
Kể Năm 2000 là
một bản giao hưởng chập chùng trên nhiều giai điệu.
Giữa cảnh trần ai khổ luỵ, thỉnh thoảng có những
trang tả tình đằm thắm qua ba hoàn cảnh và giai đoạn
yêu đương khác nhau : đôi lứa Tuấn-Ngọc yêu nhau
vội vã, khi chưa là vợ chồng, trong căn buồng nhỏ hẹp
tại Hà Nội. Sau đó là cảnh yêu đương một đêm trăng
tắm giếng ở nông thôn, vô cùng thi vị và gợi cảm (I,
tr.150) và cuối cùng, cảnh vợ chồng tái hợp "sáng
loà như một đám cháy ở chân trời (...) là những gì
còn đó nguyên vẹn mà không bạo lực nào có thể cướp
đi (... ) là yêu nhau. Là lại được yêu nhau"
(I, tr. 205). Cảnh này sẽ có độc giả cho là không hợp
tình hợp lý, vì kéo dài suốt mấy chục trang, gián đoạn
bằng những hồi tưởng về cảnh tù đày. Những trang ân
ái không nhiều, và viết không đều tay, nhưng đánh dấu
những cái mốc quan trọng trong đời sống.
Nhân
vật nữ trong tác phẩm hiện thân cho tình yêu, hiểu theo
nghĩa hy sinh, chịu đựng. Họ không có thái độ trực
tiếp phản kháng như nam giới. Nói chung trong văn học,
chúng ta có ít chứng từ về người tù phụ nữ. Nhưng
nhất định số phận của họ cũng gian lao không kém gì
nam giới.
Chuyện
Kể Năm 2000
là bức tranh toàn cảnh một xã hội đen tối. Dù rằng
vẫn có vài mảng ánh sáng tươi thắm, phản chiếu niềm
tin ở cuộc đời và tình người, nhất là tình nghĩa vợ
chồng.
Cấu
trúc Truyện kể
Chuyện
Kể Năm 2000
phát triển theo cấu trúc hiện đại, trên dòng tâm tư
nhiều chiều hướng, khi xuôi chiều thời gian theo sự
việc, khi ngược chiều thời gian theo hồi tưởng, khi
chồng sự kiện lên nhau theo liên tưởng.
Phần
đầu, nửa đầu tập I là lối kể chuyện thông thường,
theo dòng thời gian đơn tuyến, để mô tả cảnh tù đày
trong các trại giam. Hành văn hiện thực, ngữ pháp hồn
nhiên làm nổi bật những lao khổ, cơ cực của người
tù, có phần tự nhiên chủ nghĩa một chút.
Sang
nửa sau tập I, tác giả đổi phương pháp : nhân vật
Tuấn được phóng thích về lại thành phố, Hà Nội, Hải
Phòng, rồi về nông thôn thăm bố mẹ. Hành trình "hồi
hương" theo trình tự thời gian, nhưng truyện kể lại
dích dắc theo hồi tưởng, theo giao động tâm lý : Về
quê xưa "hắn
ở nhà ba ngày. Ba ngày ấy, hắn sống bằng cả ba kiếp
sống. Cái hội chứng sống nhiều kiếp trong một lúc chỉ
hắn mới có, chỉ những người
mới
ở tù ra mới có. Thực ra hắn chưa ý thức được rằng
mình mang bệnh ấy. Sống mà luôn luôn nghĩ tới quá khứ,
những ngày chưa bị bắt, và những ngày ở trong ấy, từ
chuyện này lan man sang chuyện khác"
(I, tr.225).
Sang
đến cuốn II, Bùi Ngọc Tấn tả cảnh sống lêu bêu tại
Hải Phòng, làm đủ thứ nghề linh tinh, những sinh kế
"gia
công"
không chính thức, những gian truân vì công an không cho
nhận việc làm có biên chế. Dĩ nhiên là giữa hai sự
kiện hiện thực, tác giả lại liên tưởng, lại hồi
tưởng, hay thực sự gặp lại những bạn tù xưa, khi
tình cờ, khi hữu ý. Những ám ảnh tâm lý đã đành,
thêm những thân tàn ma dại của Dự, của Già Đô xuất
hiện trong thực tế. Quả là tác giả đã "từ
chuyện này lan man sang chuyện khác"
nhưng không đào vong ra khỏi chủ đề : xã hội toàn
trị là một trại trừng giới vĩ mô.
Nhưng
tác giả vẫn giữ niềm tin, ở bản thân, ở thân nhân,
thậm chí ở chế độ đã đày đoạ ông. Trang cuối cùng
loé lên một tia hy vọng : Tuấn sẽ được phép đi
làm việc ở xí nghiệp đánh cá.
Ngưỡng
cửa lao tù
Nhân
vật Tuấn, và tác giả Bùi Ngọc Tấn cùng với nhiều
phạm nhân khác là người tù không án. Không án nghĩa là
bị bắt giam không xét xử, chứ không phải là không có
lý do chìm nổi.
Lệnh
tạm giam là "bắt
bốn tháng"
vì tội "tuyên
truyền phản cách mạng"
(I, tr. 86 và 16). Lại thêm "lệnh
tập trung cải tạo : phần tử nguy hiểm cho cách
mạng"
(I, tr. 16). Những cáo trạng "rất
chung nên rất gay. Bốn tháng là dành cho những người tội
nặng, điều tra phức tạp. Nhẹ chỉ hai tháng thôi"
(I, tr. 89). Nhưng cụ thể thì không ai nói rõ tội nặng
ấy là hành động gì. Chính ông quản giáo trại giam, khi
phóng thích, còn hỏi hắn "anh
bị bắt vì tội gì ?"
(I, tr. 66).
Chỉ
có một lần hỏi cung, ba tháng sau lệnh bắt, ông Lan công
an, sau khi tự hào đã từng "thụ
lý ba án tử hình, năm án chung thân và trên hai mươi án
hai mươi năm"
(I, tr75) đã thẳng thừng bảo Tuấn "Anh
bôi đen chế độ, người ta gô anh lại"
(I, tr. 77).
Về
sau này, trường hợp Bùi Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên... sẽ
được gói chung lại trong vụ án "xét
lại chống Đảng".
Tác giả, ở phần cuối sách, đã "phỏng
đoán :
Thời
gian đó ở Hà Nội, đã phát hiện một tổ chức chống
Đảng. Toàn những cán bộ đảng viên. Có cả cán bộ
cao cấp. P. (Hải Phòng) cũng phải có ở mức độ nhẹ
để hưởng ứng Hà Nội (...). Người ta chọn (bắt) hắn
vì hắn chẳng mở miệng chửi phim Khi Đàn Sếu Bay Qua
(...). Hắn lại có những yếu tố để dễ bất mãn. Hắn
mâu thuẫn với bí thư chi bộ. Hắn không muốn vào Đảng.
Hắn lại còn nói sẽ bẻ bút không viết nữa. Bất mãn
quá rồi còn gì. Hắn chơi bời với một số người Hà
Nội, người bị bắt, người đang bị theo dõi. Hắn bấp
bênh về lập trường. Hắn tự kiêu tự đại. Hắn mất
cảnh giác và dễ bị lôi cuốn. Sau này hắn còn được
biết ông bí thư thành uỷ K. rất ghét hắn"
(II, tr.75). Như vậy đã là quá nhiều "nghi án".
Ít tội hơn thế nữa, cũng đã lắm người bị bắt.
Thế
giới Tập trung cải tạo
Chế
độ tập trung cải tạo, không phải là một phát minh mới
lạ, càng không phải là sáng kiến Việt Nam. Nhà cầm
quyền Cộng sản chỉ thừa kế một gia tài hương hoả
của nhiều chế độ anh em, và đã khéo ứng dụng vào
một nước nhỏ đang chiến tranh, với nhiều nét xã hội,
tâm lý riêng biệt.
Bùi
Ngọc Tấn không nêu đích xác các địa danh, chỉ gọi là
xà lim 75, hay 76, rồi những trại QN hay VQ để bảo vệ
lý thuyết "hư cấu" trên bề mặt. Nhưng người
đọc cũng nhận ra khi tác giả định hướng : "trại
VQ nằm vào thung lũng giữa rừng già Việt Bắc ... , đi
tàu, rồi ba chục cây số đường rừng"
(I, tr. 10) "miệt
Hà Giang"
(I. tr.35). Trại giam cả hàng ngàn người thuộc nhiều
loại tù khác nhau từ hình sự đến chính trị. Tù có án
mang số chẵn. Tù không án mang số lẻ gồm có những
phần tử nguy hiểm cho chế độ, những nhà văn như Bùi
Ngọc Tấn, Vũ Thư Hiên, những người trong quân đội
Pháp cũ, tu sĩ Công giáo, Phật giáo, đảng viên đảng
phái v.v.., nói chung là "có hại cho an ninh xã hội".
Chuyện
kể Năm 2000
là tác phẩm văn học vì đã khắc hoạ được những
nhân vật điển hình, trong cá tính, ngôn ngữ, phản ứng
riêng. Cùng là nạn nhân bị đoạ đày trong đời sống
lao cải, họ đến từ những chân trời khác nhau, những
hoàn cảnh xã hội dị biệt, phải hoà mình vào một tập
thể quái đản. Có khi yêu thương, đùm bọc lấy nhau,
cũng có khi tố giác, hành hạ, đánh đập nhau. Nhưng nói
chung, tác giả làm nổi bật nhân phẩm chung và tư cách
riêng của con người dưới sự đàn áp. Lửa thử vàng,
nhục nhằn thử đức. Không nhục nhằn nào so được với
cảnh tập trung cải tạo.
Tuyến
Nhân Vật
Chuyện
Kể Năm 2000
quay chung quanh Tuấn, nhân vật "hắn" trung tâm.
Dĩ nhiên là không ai hiểu Tuấn bằng tác giả. Kỹ thuật
hư cấu cho phép tác giả vượt qua thực tại một cá
nhân, cường điệu hay thăng hoa người thật việc thật
– từ đó cách điệu hoá các nhân vật – tạo nên
những nhân cách văn học. Đây là ưu thế của tiểu
thuyết so với tự truyên hay hồi ký. Vũ Thư Hiên, tác
giả Đêm
Giữa Ban Ngày
(1997) đã vất vả lưu ý người đọc và giới phê bình
vào tính cách nghệ thuật của tập hồi ký, nhưng không
phải ai cũng phân định rốt ráo.
Trại
tù là một nhân gian bát nháo. Có người ở tù vì là
thành phần của một cơ chế, như quân đội Pháp. Bảo
Đại trước 1954 : Hợp lính "nguỵ", tập
trung cải tạo đến năm thứ 9, thích bẩm, sớ, để lập
công, sớm được về (I, tr. 20). Cương sĩ quan Đà Lạt
khoá cuối (?), Vĩnh cựu đại uý, v.v...
Những
nhân vật Việt kiều
cũ : Già Đô, tình nguyện về nước, để xây dựng
công nghiệp, bị bắt vì ăn ngay nói thẳng ; Cán về
thăm đất nước, khi ra sân bay bị mời ở lại vì bị
nghi là gián điệp và ở tù từ 18 năm (I, tr. 43).
Nhiều
người tù thuộc các dân tộc, nhiều nhất là gốc Hoa. A
Thềnh, gốc Nùng bị tù vì làm cháy rừng, bị bắn chết
khi hái trộm mấy quả ớt (I, tr.40). Voòng Kỷ Mình vào
khám vì tố cáo ban chủ nhiệm hợp tác xã tham nhũng (I,
tr.57). Khả ái như Giang, con liệt sĩ, bị bắt đi bắt
lại vì trộm cắp ; độc đáo như Triều Phỉ, tay
anh chị bến Cảng Hải Phòng.
Tù
trí thức : Sơn kỹ sư, bị bắt vì ăn cắp nguyên
liệu. Đỗ "dược sĩ cao cấp" án tử hình với
tội (oan) giết vợ (I, tr.177). Có anh bộ đội bị án tử
hình bởi tội đào ngũ và bắn chết đồng đội (I, tr.
182).
Đi
tù, cho dù bất cứ lý do gì, oan hay ưng, đều bi đát
trong những điều kiện vật chất, tinh thần của những
trại tập trung cải tạo. Nhưng tác giả vẫn có giọng
dí dỏm :
"Hắn
nhớ hai ông Minh trong B. Một ông Minh là máy trưởng. Về
nông thôn chữa máy bơm thuê. Ông lấy tiền nhôm ra đúc
piston. Một ông Minh khác là thợ thủ công, lấy nhôm lá
dập thành xu. Cả hai ông đều phạm pháp. Một ông phá
hoại tiền tệ, một ông làm tiền giả. Hai ông gặp
nhau ở BD (buồng giam) ; giá hai ông gặp nhau trước
thì đâu dến nỗi"
(I, tr.134).
Giọng
hài hước, một mặt thay đổi khí hậu cho tác phẩm,
điểm nụ cười mỉm trên những khuôn mặt hốc hác. Mặt
khác, nó xác nhận tâm thức tự do của con người mạnh
hơn tảng đá đè lên nó. Trong tù, ngoài tù cũng vậy.
Ngoài
tù, một loạt nhân vật linh động : rõ nét nhất là
Ngọc người vợ, tận tuỵ, chung thuỷ và chịu đựng,
dường như Thượng Đế đã tiền chế một người đàn
bà sinh ra để làm vợ chung thân một tên tù không án.
Những người bạn dũng cảm và chu đáo. Đôi vợ chồng
Bình-Thao là những vai phụ linh hoạt, sống động. Gia
đình Tuấn, cha mẹ, anh em toàn là cộng sản gốc, các
người anh đã thoát ly theo kháng chiến từ khởi thuỷ.
Anh Chân từng bị bắt oan và đối xử nghiệt ngã nhưng
vẫn kiên định và tin tưởng. Anh Thân tinh tế và sáng
suốt. Họ là những đảng viên kỳ cựu và trung kiên.
Cộng sản nhưng vẫn là người bình thường, thậm chí
khả ái : họ là người cộng sản chưa nắm quyền
bính. Ông Hoàng, đảng viên cao cấp, cũng là người bạn
chí tình. Tiếc thay ông đã mất hết quyền bính.
Ngục
trung nhật ký
Ở
tù, ở đâu, thời nào cũng khổ. Trên miền Bắc, vào
khoảng 1970 càng khổ. Lao dịch, đàn áp, đã đành. Còn
đói rách trong một xã hội cùng khổ và bị chiến tranh
tàn phá. Đã có nhiều sách nói về thảm cảnh trong các
trại cải tạo, nhất là các trại học tập dành cho sĩ
quan, công chức miền Nam sau 1975. Nhưng có lẽ Chuyện
Kể Năm 2000
là chứng từ đầy đủ nhất, phản ánh nhiều khía cạnh
nhất, nhìn dưới ánh sáng nhân đạo và nhân văn. Trong
Đêm
Giữa Ban Ngày,
Vũ Thư Hiên cũng đã có dụng công này, nhưng thông điệp
chính trị nặng nề hơn, do đó chất lượng chính trị
lấn át màu sắc nhân văn và văn học.
Một
tù nhân đã đưa đàn trâu sâu vào rừng để làm tình
với một con trâu cái, bị phát giác vì "nó
lại kêu họ họ lúc làm tình"
(I, tr. 228). Đây là một cảnh lẻ loi. Không tiêu biểu,
nhưng cũng là cách hoán dụ (một onymie) gợi lại toàn
cảnh tù đày. Cảnh đói thì vô cùng vô tận. Tù nhân
ăn mọi thứ : chuột, rắn mối, kỳ nhông ; ăn
sống dế và tò vò, Cằm bạnh ra vì nhai sắn ; cảnh
đê nhục con người là lúc chia cơm. Đói sinh ra ăn cắp,
tạt được cái gì ăn cái đó ; ăn cắp không phải
là cái tội, mà là một hành động phản kháng. Dĩ nhiên
là có đứa tố giác :
"Tích
cực bẩm, sớ, để được giảm án. Lê đã bóp cổ
Voòng Kỷ Mình để Voòng Kỷ Mình lè ra khỏi miệng quả
vải thiều vừa mới tạt được, nhưng chưa nuốt trôi
xuống cổ. Lê cầm quả vải ướt nhoe nhoét ấy đi báo
cán bộ"
(I, tr.47).
Quả
vải thiều chưa kịp trôi xuống cổ : một chi tiết
thôi, rất nhỏ nhưng nói nhiều, nhờ phong cách hoán dụ,
đặc biệt của điện ảnh.
Kiếm
miếng ăn đã gian nan. Giữ tư cách trước miếng ăn lại
càng không đơn giản. ăn đã vất
vả, ỉa đái cũng gian lao : "Thân
tù thật tội. Đi ỉa cũng vội, ỉa không hết cứt
(...). Hắn nhắm mắt, nín thở, đái, co bụng lại mà đái
cho nhanh"
(I, tr. 50-51).
Đây
là chưa nói đến lao dịch : "nước
sông công tù. Công của thằng tù vô tận"
(I, tr.59).
Giấc
Mơ và Lời Chim
Lao
khổ và áp bức huỷ hoại từ cơ thể đến tinh thần
con người, len lỏi vào tận những giấc mơ. Nhân vật
Tuấn hoàn toàn mất khả năng nằm mơ "Đã
bao lần tôi ao ước nằm mơ thấy vợ, thấy con. Lần
cuối cùng tôi nằm mơ cách đây hơn ba năm rồi. Tôi nằm
mơ thấy thằng cháu lớn... túm đầu thằng bé mà tát
nó, đánh nó. Nó khóc, nó khóc thảm thiết : con lạy
bố rồi, bố đừng đánh con nữa. Tôi vẫn cứ ấn nó
xuống mà đánh... Tôi choàng tỉnh. Run lên, toát hết mồ
hôi ... Sao hắn lại đánh con như đánh đòn thù ?
Sao phải lạy bố, hở con"
(I, tr.32,33).
Bạo
lực, những đòn thù từ cuộc sống dội vào đến tận
đáy tiềm thức con người, hành hạ những bóng dáng
thương yêu nhất. Nó huỷ hoại đến cốt tuỷ những
tình cảm thiêng liêng nhất. Bạo lực bất nhân, phi lý
rền vang trong câu hỏi quái đản : "sao
phải lạy bố hở con ?"
Thậm chí con người sao lại phải van lạy con người ở
cuối thế kỷ hai mươi ?. Mất khả năng nằm mơ, người
tù lại càng không dám sống về ký ức "Những
đêm mất ngủ trong tù thật là khủng khiếp"
(I. tr.49), vì kỷ niệm không an ủi mà còn dằn vặt, tra
tấn, lẫn lộn vào bạo lực.
Đoạ
đày xen kẽ vào những giấc mơ. Và toả bóng rộng ra,
bao trùm lên ngoại cảnh, nhức nhối trong mỗi lời chim.
Văn học đã từng có những tiếng chim thê thiết. Trên
bước đường lưu lạc, Thuý Kiều lắng nghe tiếng "chim
hôm thoi thót về rừng",
và sống tâm cảnh :
Rừng
thu từng biếc chen hồng
Nghe
chim như nhắc tấm lòng thần hôn
"Nghe
tiếng quyên khắc khoải năm canh"
xen giữa "tiếng
khóc nỉ non",
người vợ lính thú gánh gạo đưa chồng, cũng lần bước
trên dặm trường thượng du Việt Bắc. Nhưng khắc khoải
đến đâu, dù "năm
canh máu chảy đêm hè vắng",
cũng không bi thương bằng những tiếng chim xé rách thế
giới tù đày, "những
tiếng kêu thất thanh. Như những mũi dao khoan xoáy vào
không trung"
(I, tr.92).
Trước
hết là tiếng chim bắt
cô trói cột
nghe thành : Khó
khăn khắc phục.
"Tiếng
chim bên này rừng :
khó
khăn
Tiếng
rừng bên kia dáp lại :
khắc
phục.
Khó
khăn
... Thôi. Đủ rồi. Cái điệp khúc này tao nghe mãi rồi
... Khó
khăn. Khắc phục
(...)
Rồi
con chim
Còn
khổ.
Đó
mới thật là tiếng của kinh hoàng.
Còn
khổ, còn khổ.
Không
thoát được cảnh này đâu. Còn
khổ. Còn khổ.
Đừng mong đợi một ngày qua làm gì. Có án đâu mà tính
đã qua được một ngày.
...
Còn
khổ :
Hắn quảy thùng nước phân thứ một trăm trong ngày, leo
dốc, thở ra cả mang tai, mặt trời đốt vai rát bỏng.
Dòi ở hố phân bám vào chân hắn trắng xoá, con rơi
xuóng đất theo từng bước chân huỳnh huỵch, con vẫn
tiếp tục bò ngược lên tận bẹn.
Còn
khổ
... Còn
khổ.
Còn
khổ
cái con cặc tao đây này. Còn
khổ
. Cooòn
khôôổ.
Đúng là tiếng của đất, của rừng than thở một mình
... và tiếp tục là tiếng thở dài của rừng sâu"
(I, tr.93).
Lại
còn tiếng chim thứ ba, "kêu
rất to ngay bên cạnh như tiếng người :
ới
con ơi.
Tiếng
ơi
không nhỏ dần đi mà lại to lên. Đúng lúc to nhất thì
đột ngột tắt. Rừng sâu lại lịm đi. Chưa ai trông
thấy nó, nhưng nhiều người đã nghe thấy nó gọi con.
Họ đặt tên là chim
ới
con ơi"
(I, tr.95).
Kiến,
Rận và Người
Tiêu
khiển của người tù là nhìn đời sống hèn mọn chung
quanh, mang hình ảnh của thân phận : "Ngồi
nhìn lũ kiến tha cơm. Những con kiến bò ngòng ngèo vào
tổ. Những con ra đi gặp những con đi về đều đứng
lại. Như thăm. Lại cũng như kiểm tra. Hắn cố tình thả
xuống một hòn cơm to. Lũ kiến bu lại. Đông. Rất đông.
Không thấy cơm đâu. Như một hòn kiến động đậy".
(I, tr. 80). Phong cách vừa tả thực vừa ẩn dụ. Cay đắng
chừng mực, có phần thi vị. Nhưng khi nuôi rệp để đùa
chơi thì ẩn dụ đau đớn hơn nhiều : "Hắn
nhốt con rệp được tám tuần lễ thì buồn quá, không
chờ được nữa, đã đem con rệp ra cho nó hút máu. Tám
tuần lễ nhịn đói, con rệp gần như khô đi. Nhưng khi
bắt ra để trên cổ tay chỗ mạch đập, ngửi hơi máu,
ngửi hơi người, cu cậu tỉnh ra ngay, bò, xoay xoay và
chổng đít lên cắn da hút máu. Cho mày hút đẫy bầu
đấy. Hẳn là một bữa đại tiệc. Cu cậu lịm đi...
Lại còn xếp những que diêm sóng hàng bắt ba bốn con rệp
chạy qua que diêm, như kiểu chạy vượt rào. Cũng lồng
lên như ngựa. Thú vị, nhưng chơi lâu cũng chán"
(II, tr. 189).
Từ
đàn kiến nhắm cơm đến con rệp nuôi hút máu, lối ẩn
dụ đã được nâng cấp trong thi pháp thảm khốc. Ở
đây, chúng tôi muốn lưu ý đến tính cách nhân đạo của
ẩn dụ. Trong Đêm
Giữa Ban Ngày,
Vũ Thư Hiên có kể lại thời gian ở xà lim Bất Bạt,
ông đã nuôi một con cóc làm bầu bạn, và giải thích là
do "bản
năng cầu bầu"
một từ cổ, có nghĩa là che chở, săn sóc một sinh vật
yếu đuối hơn :
"Không
phải chỉ nhu cầu có bạn trong cảnh cô đơn, mà người
tù xà lim nuôi những con vật chẳng ai nuôi làm cảnh bao
giờ. Con người cần có ai đó để mà săn sóc. Nói cách
khác, nó cần được thấy có ai đó cần đến nó, để
được thấy nó đang hiện hữu và hiện hữu có ích.
Tình cảm đó là hạt nhân Thiện nằm trong mỗi chúng ta"
(ĐGBN, Văn Nghệ, 1997, tr. 586).
Bài
học chúng ta lãnh hội được từ những người tù như
Vũ Thư Hiên hay Bùi Ngọc Tấn là : sau bao nhiêu đày
đoạ oan khiên họ vẫn độ lượng với xã hội, tin
tưởng ở lẽ phải trong cuộc đời, những tình cảm tốt
đẹp trong lòng người, chức năng của ngòi bút và hạnh
phúc ở trần gian.
Thế
kỷ Mới – Thế giới Mới
Chuyện
Kể Năm 2000
là một biến cố văn học, không phải chỉ vì nó bị
nhà nước tịch thu, nhưng nhờ giá trị tự tại của nó,
trong một đất nước chưa có xã hội văn học chân
chính, theo đúng nghĩa của một xã hội văn học.
Giá
trị của một cáo trạng dũng cảm, tố giác một xã hội
toàn trị đặt cơ sở trên guồng máy công an, điển hình
qua những trại tập trung cải tạo, giam giữ, đày đoạ
con người không cần xét xử. Chính sách lao
trị chủ nghĩa
điều kiện hoá toàn bộ xã hội dân sự, khiến con
người bị tha hoá, mất cả tự do, phẩm chất và tư
cách.
Cáo
trạng trong Chuyện
Kể Năm 2000 là
một thông báo hiệu lực, nhờ giá trị văn học vững
vàng, đặt trên nền tảng một nội dung nhân văn, nhân
đạo và một nghệ thuật tiểu thuyết điêu luyện. Nghệ
thuật trong cấu trúc truyện kể hiện đại, xây dựng
nhân vật linh động, sử dụng bút pháp đa đạng, và một
kho từ ngữ phong phú, ở nhiều cấp độ khác nhau.
Chuyện
Kể Năm 2000.
Năm 2000 ? Tại sao lại 2000 ? Phải chăng tác
phẩm có tham vọng chấm dứt một thế kỷ anh hùng và
đày đoạ, để mở ra một chân trời văn học mới, hứa
hẹn một ánh sáng bình thường của công lý, dân chủ,
nghệ thuật và hạnh phúc?
Đặng
Tiến
Paris,
5 Mai 2000
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/10/chuyen-ke-nam-2000-chuyen-ke-nam-2000.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001