Kho chứa lúa gạo và qui trình ngược
Nam Nguyên, phóng viên RFA
Công nhân chuyển những bao gạo trên một băng tải để lưu trữ vào kho. AFP photo
Đồng
bằng sông Cửu Long đã cải thiện một mức độ nhất định về cơ giới hóa sau
thu hoạch sản xuất lúa gạo. Nhưng việc bảo quản, tồn trữ và xay xát
theo qui trình ngược vẫn tồn tại gây tổn thất không nhỏ.
Trò
chuyện với chúng tôi, TS Phạm Văn Tấn, chuyên gia công nghệ sau thu
hoạch hiện sống và làm việc ở Nam bộ nói rằng, ít người để ý tới chuyện
có sự khác biệt giữa trữ lúa thay vì trữ gạo, cũng như qui trình sản
xuất ngược được áp dụng lâu nay ở đồng bằng sông Cửu Long. Sự lạc hậu
trong sản xuất dẫn tới tổn thất sau thu hoạch, ước tính vào thời điểm
đầu năm 2012 là 13,7%, trong đó ở công đoạn sấy và tồn trữ tính chung đã
gần 7%.
Hàng năm đồng bằng sông Cửu Long sản
xuất hơn 21 triệu tấn lúa như vậy chỉ riêng 2 khâu sấy và tồn trữ tổn
thất gần 1,5 triệu tấn, chưa kể qui trình ngược làm phẩm chất gạo kém đi
nhiều. Nhưng tại sao lại gọi là sản xuất theo qui trình ngược, cũng như
vì sao lại gây thiệt hại. TS Phạm Văn Tấn giải thích:
“Lúa
sau khi thu hoạch được nông dân bán lúa tươi, thương lái mua về phơi
phóng tới độ ẩm 16%-18%. Sau đó đưa vào bóc lức, độ ẩm có thể giảm còn
15,5%-16,5%. Kế tiếp gạo được xát trắng, để có thể đóng gói bảo quản
hoặc vận chuyển, gạo được sấy lại đến độ ẩm 14% để chống mốc. Đó là qui
trình ngược vì đúng ra phải sấy lúa khô tới 14% sau đó mới xay xát và
đóng gói chứ không sấy gạo lại.”
Theo lời TS
Phạm Văn Tấn, do hạt lúa độ ẩm còn cao đưa vào hệ thống xay xát thì hạt
gạo chưa đủ cứng để chống lại sự chà xát cơ học của các thiết bị này và
bị gẫy vỡ. Khi bị gẫy vỡ như thế thì nó tăng diện tích tiếp xúc với các
bề mặt ma sát của thiết bị, làm giảm lượng gạo trắng. TS Phạm Văn Tấn
tiếp lời:
“Nếu xay xát lúa ở độ ẩm 14% thì tỷ
lệ thu hồi gạo trắng có thể lên tới 69%, còn nếu xay xát ở độ ẩm cao
thì tỷ lệ thu hồi từ 60-65%, lượng gạo trắng mất từ 5-10%. Lượng gạo
nguyên cũng giảm tương ứng với gạo trắng. Đó là thiệt hại về lượng, bên
cạnh đó còn có thiết hại về chất, bởi vì khi hạt gạo độ ẩm còn cao đưa
vào hệ thống xay xát thì bị tăng nhiệt, quá trình biến đổi chất lượng
của nó diễn ra rất nhanh, làm cho những giống lúa thơm bị giảm mùi thơm
đặc trưng rất nhiều. Giảm cả về lượng và chất thì nó làm giảm giá trị
hạt gạo, đây là nhược điểm cơ bản của qui trình ngược”.
Sản
xuất theo qui trình ngược bắt nguồn từ vấn đề nông hộ nhỏ lẻ, doanh
nghiệp ăn xổi chỉ muốn hưởng chênh lệch giá mua thấp bán thấp. Do đó
không đầu tư kho chứa lúa theo tiêu chuẩn kỹ thuật, mà chỉ làm kho chứa
gạo ngắn ngày chờ xuất khẩu.
Theo Cục Chế biến
thương mại nông lâm thủy sản và nghề muối, tổng lượng kho chứa gạo là
hơn 4 triệu tấn; trong khi kho chứa lúa chỉ trên dưới 1 triệu tấn. Tuy
vậy thông tin ghi nhận, đa số doanh nghiệp xây dựng kho chỉ để đối phó
với qui định kinh doanh xuất khẩu gạo và không đạt yêu cầu kỹ thuật tồn
trữ.
TS Phạm Văn Tấn phát biểu:
“Theo
sự hiểu biết của tôi, tổng lượng kho ở đồng bằng sông Cửu Long khoảng
3,5 triệu tấn. Qui định là kho chứa lúa nhưng trên thực tế hầu hết kho
hiện nay là chứa gạo, chứ không thể chứa lúa và những kho đó theo dạng
nền bê tông có mái che. Thành ra yêu cầu đáp ứng bảo quản lúa đúng kỹ
thuật để đảm bảo chất lượng lúa thì hầu hết các kho ở đồng bằng sông Cửu
Long là không thể.”
Nam bộ từng có một vài
xi-lô chứa lúa từ thế kỷ trước nhưng công nghệ lạc hậu không đồng bộ và
không thích hợp. Gần đây một vài doanh nghiệp có dự án xi-lô mới để
chứa lúa hoặc gạo đồ, nhưng tổng sức chứa hơn chục ngàn tấn còn quá
khiêm nhượng với sản lượng 21 triệu tấn lúa mỗi năm của đồng bằng sông
Cửu Long.
Theo TS Phạm Văn Tấn, nếu trữ lúa
trong xi-lô hiện đại thì có thể trữ lúa trên một năm, còn chứa ở các nhà
kho mái che bình thường thì chỉ chứa được dưới ba tháng. TS Phạm Văn
Tấn tiếp lời:
“Hiện nay hầu hết là chứa gạo
ngắn hạn dưới ba tháng để kinh doanh lương thực. Còn đơn vị nào chứa
trên ba tháng thì phải lau bóng lượng gạo đó lại vì gạo bị ẩm vàng khi
lau bóng lại cho trắng thì tổn thất thêm 3-4% nữa.”
Thông
tin ghi nhận, ở đồng bằng sông Cửu Long từ hai năm nay đã có những
doanh nghiệp tư nhân bắt đầu sản xuất lúa gạo theo qui trình thuận.
Nhưng diện tích vùng lúa còn quá nhỏ, chỉ vài chục ngàn héc-ta so với
1,6 triệu héc ta tổng diện tích một vụ lúa chính ở khu vực này. Đó là
các mô hình liên kết giữa nông dân và doanh nghiệp, đáng chú ý và thành
công nhất là mô hình của Công ty bảo vệ thực vật An Giang. Nông dân hợp
tác với công ty trồng những giống lúa theo hợp đồng tạo thành một vùng
nguyên liệu đồng nhất và được hỗ trợ đầu vào. Công ty này bao tiêu lúa
cho nông dân và trữ lúa theo qui trình thuận.
Qui
trình thuận chỉ là một nút thắt trong cả chuỗi sản xuất lúa gạo, từ
người trồng lúa tới thương nhân, doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu.
Nhưng liệu các nhà hoạch định chính sách tái cơ cấu nông nghiệp có thể
gỡ nút thắt này đảo ngược qui trình được hay không, vấn đề xem ra không
hề đơn giản.
N.N.
Nguồn: rfa.org
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001