2142. TRUNG QUỐC: BÙNG NỔ BẠO LỰC ĐANG TỚI GẦN
Posted by basamnews on December 7th, 2013
THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM (Tài liệu tham khảo đặc biệt)
Thứ Tư, ngày 04/12/2013
TTXVN (Paris 29/11)
Từ 9-12/11, 376 ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã họp Hội nghị toàn thể với mong muốn tìm ra một hướng cải cách sâu rộng “chưa từng có tiền lệ” cho lĩnh vực kinh tế – xã hội trong một thập kỷ tới. Đó là nhũng cải cách về sở hữu đất đai, hệ thống tài chính ngân hàng, quan hệ tài khóa giữa chính quyền trung ương và địa phương, tự do hóa thương mại, giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước, phát triển bền vững, giảm mệnh lệnh áp đặt với nền kinh tế và cuối cùng là kế hoạch chống tham nhũng… Tuy nhiên, báo Le Monde ngày 20/11 có bài viết dưới đầu đề “Trung Quốc: bùng nổ bạo lực đang tới gần” cho rằng lấp ló đằng sau các chủ trương cải cách này là nỗi lo sợ mơ hồ về những biến loạn diện rộng trong xã hội Trung Quốc, nội dung như sau:
Chủ tịch Tập Cận Bình đã đọc “báo cáo công tác” trước toàn thể hội nghị, trong đó có một số câu chữ rất mâu thuẫn, chẳng hạn: “Chức năng của thị trường có vai trò quyết định trong việc phân bố các nguồn tài nguyên”, nhưng “chúng ta phải duy trì vai trò thống trị của hệ thống sở hữu tập thể và trao một vai trò cho nền kinh tế chịu sự chỉ đạo của nhà nước.”
Lý luận thì có nhiều nhưng tóm lại, bất luận thế nào thì Trung Quốc cũng cần “duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng” và điều này phải bao trùm tất cả. Thế nhưng lấn át mọi chương trình cải cách được thông qua, dường như kết quả nổi bật nhất của Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 là việc thành lập một ủy ban mới đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của lãnh đạo cấp cao nhất, vừa phụ trách an ninh trong nước vừa hoạch định chính sách ngoại giao, có tên gọi là “Ủy ban An ninh Quốc gia”. Rõ ràng đây là một sự theo đuổi chính sách mà Đặng Tiểu Bình đã vạch ra năm 1978 mà không có bất cứ sửa đổi lớn nào: cải cách kinh tế gắn chặt với đàn áp chính trị mạnh mẽ hơn.
Tại sao phải thành lập một ủy ban mới như vậy trong khi hệ thống nhà nước Trung Quốc đã được trang bị đầy đủ các bộ Tư pháp, Quốc phòng, Công an, rồi các lực lượng cảnh sát và cảnh sát vũ trang và hàng loạt công cụ trấn áp khác? Đó là bởi vì nỗi lo sợ đang thực sự thống trị ở mọi thang bậc cao nhất trong bộ máy cầm quyền. Các lãnh đạo Trung Quốc lo sợ một sự bùng nổ xã hội không thể kiểm soát và đây chính là lý do khiến Bắc Kinh luôn phải đổ tiền của vô tội vạ cho nhiệm vụ “duy trì ổn định”, đến nỗi nhiều người phải đặt câu hỏi kẻ thù thực sự duy nhất của Đảng có phải là toàn thể nhân dân Trung Quốc hay không. Trên thực tế, cũng có một thiểu số cán bộ có ảnh hưởng mong muốn được chứng kiến những chương trình cải cách trị thực sự trong Đảng. Tiêu biểu cho mong muốn cởi mở này là Hồ Đức Bình, con trai trưởng của Hồ Diệu Bang, một nhân vật mà cái chết của ông năm 1989 đã gây ra một phong trào phản kháng dân chủ lớn nhất trong 40 năm. Những người xung quanh ông luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải bắt đầu tiến hành phân bổ lại các nguồn lực và của cải, đồng thời đặt nền tảng cho một nền dân chủ thực sự chứ không phải “thứ giả hiệu” kiểu “nền dân chủ mang đặc sắc Trung Quốc” mà người tiền nhiệm của Tập Cận Bình là Hồ cẩm Đào vẫn đề cao.
Nhưng giai đoạn thực hiện cải cách chính trị có thể đã trôi qua. Nói như nhiều người dân Trung Quốc, “nếu Đảng cải cách thì Đảng sẽ nguy kịch. Nhưng nếu Đảng không cải cách thì đất nước sẽ nguy khốn”. Nhưng dù Trung Quốc không theo đuổi chương trình vận động dân chủ theo gương các nước cộng sản cũ ở Đông Âu thì tại nước này đã nổi lên một tầng lớp thượng lưu luôn lo sợ bị mất những gì họ đã đạt được, trong khi đó tầng lớp nghèo khổ luôn hy vọng sẽ đạt được những điều kiện sống tốt đẹp hơn. Những mầm mống bất ổn này ngày càng phát triển.
Trong khi đó, theo một nghiên cứu được công bố trong Báo cáo Hurun năm 2012, hơn 60% người Trung Quốc giàu có nhất đã di cư hoặc đang làm các thủ tục cần thiết để di cư và hơn 85% trong số họ đã gửi con cháu tới học tại các trường tốt nhất ở nước ngoài. Và như vậy tình trạng phân cực trong xã hội chỉ có thể ngày càng trầm trọng.
Theo phương pháp thống kê Gini (chỉ số Gini) đánh giá mức độ bất bình đẳng xã hội dựa trên thang bậc từ 0 đến 1, và theo theo đó mọi số liệu cao hơn 0,4 đều là dấu hiệu dự báo biến loạn xã hội, chỉ số của Trung Quốc hiện đã lên gần 0,5 kể từ cuối năm 2012. Nếu căn cứ vào các chỉ số Gini, có thể nói biển loạn xã hội diện rộng ở Trung Quốc sẽ xảy ra trong nay mai… Điều này chắc chắn lý giải nỗi lo lắng thực sự của giới quân sự và các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện nay.
Trên thực tế, Chủ tịch Tập Cận Bình đang chịu một sức ép lớn từ các nhân vật lãnh đạo dưới quyền và từ chính hệ thống chính trị Trung Quốc. Các đề xuất mà Tập Cận Bình đưa ra khi mới nhậm chức cuối năm 2012, chẳng hạn việc xóa bỏ các trại cải tạo lao động đã không thành công. Một số tỉnh đã áp dụng quyết định này nhưng nhiều địa phương khác thì không, và không ai biết phần tiếp theo của câu chuyện ra sao…
Giới công chức và đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng có quá nhiều thứ để mất nếu Đảng tiến hành cải cách chính trị. Hơn nữa, không ai biết điều gì sẽ xảy ra nếu một thành viên nữa của ban lãnh đạo Đảng bị thanh trừng. Ví dụ trường họp Bạc Hy Lai, người lẽ ra đã được bước vào chốn thâm cung siêu an toàn của Bộ Chính trị nhưng đã bị kết án tù chung thân ngay trước Hội nghị Trung ương 3, đã cho thấy nhiều điều. Nếu nhân vật này không thành công trong việc áp đặt sức mạnh thì người kế nhiệm chắc chắn sẽ làm bằng được như vậy còn hơn là ngồi im chờ bị bắt và bỏ tù.
Ngày càng xuất hiện thêm các thông tin chính xác và không thể che đậy về của cải và sự giàu có của các nhà lãnh đạo và điều này tất yếu dẫn đến sự phẫn nộ ngày càng lớn trong xã hội. Do Bloomberg News đã đánh giá tài sản của gia đình Tập Cận Bình lên tới “khoảng 500 triệu USD”, trong khi New York Times đăng một bài viết công bố tài sản của gia đình cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo tổng cộng lên tới “ít nhất 2,7 tỉ USD”, nên các trang mạng bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc của hai phương tiện thông tin này đã bị chặn triệt để tại Trung Quốc.
Tác hại của nạn tham nhũng và tình trạng gia đình trị hiển nhiên đập vào mắt tất cả công luận. Phải giải thích thế nào về việc một nhân viên cảnh sát bình thường tại một khu phố ở Thượng Hải đã bị bắt với 2 triệu USD tiền mặt cất trong ngăn kéo? Có phải vì anh ta được công tác tại khu Tĩnh An, một nơi béo bở để có thể nhận những xấp tiền lo lót của rất đông doanh nghiệp Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Á khác?
Các vụ nổ và tấn công xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn, rồi ở Tân Cương và các địa phương khác chắc chắn chỉ là những bóng ma đầu tiên của một khủng hoảng xã hội trầm trọng. Khẩu hiệu của những người biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989, những người muốn đấu tranh “hòa bình, lý trí và phi bạo lực” có thể sẽ không còn phù hợp với hoàn cảnh của Trung Quốc hiện nay.
Theo “Đại Công báo ” (Mong Kong), ngày 16/11 đã xảy ra một vụ tấn công vào đồn cảnh sát tại thị trấn Serikbuya, huyện Bachu, thuộc thành phố Kashgar, khu tự trị Tân Cương làm 11 người thiệt mạng trong đó có 2 cảnh sát. Vụ tấn công thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận, đặc biệt trong bối cảnh tại Trung Quốc vừa xảy ra hai vụ việc liên quan đến khủng bố ở quảng trường Thiên An Môn và ở thành phố Thái Nguyên, thủ phủ tỉnh ủy Sơn Tây. Nhà chức trách hiện chưa công bố các thông tin cụ thể liên quan tới vụ việc trên, song theo lôgích phân tích và kinh nghiệm phán đoán, đây là vụ tấn công khủng bố có liên quan tới các thế lực chủ nghĩa cực đoan trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc.
Xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau, cộng đồng quốc tế luôn quan tâm đến vấn đề chống khủng bố ở Tân Cương, trong đó có quan điểm cho rằng Tân Cương đang đối diện với nguy cơ “Trung Đông hóa”. Mặc dù cách nói này có phần bi quan khi phán đoán tình hình tương lai, song từ thực tế có thể nhận định tình hình chống khủng bố ở Tân Cương tương tự như tình hình chống khủng bố ở Trung Đông. Theo tác giả bài viết (ông Mộc Xuân Sơn), cách so sánh này có ý nghĩa răn đe.
Thử nhất, các vụ khủng bố gia tăng, ý thức chống khủng bố đã lan tỏa từ tổ chức sang người dân. Từ đầu năm 2013, đã có 4 vụ việc tương tự kiểu tấn công khủng bố xảy ra trên lãnh thổ Trung Quốc, trong đó riêng khu vực Bachu đã xảy ra 2 vụ. Đáng chú ý là vụ tấn công khủng bố hồi tháng 4 với con số thiệt mạng lên tới 15 người. Đây chỉ là những vụ tấn công khủng bố được giới truyền thông tiết lộ, ngoài ra những vụ tấn công khủng bố khác do một số nguyên nhân như xuất phát từ lý do an ninh hoặc giới truvền thông không nắm được hay âm mưu tấn công khủng bố bị phá vỡ nên đã không được tiết lộ. Điều này cho thấy tình hình chống khủng bố ở Tân Cương nghiêm trọng hơn rất nhiều so với trước đây. Ý thức chống khủng bố đã bắt đầu lan truyền từ giới chức trách sang quần chúng nhân dân. Có thể làm phép so sánh với bên ngoài, hiện nay các vụ tấn công khủng bố ở Trung Đông vẫn thường xuyên xảy ra với số lượng tương đối nhiều bất kể là ở Iraq, Ai Cập hay Saudi Arabia. Hoạt động dày đặc của các phần tử khủng bố cho thấy khả năng và tần suất hoạt động của chúng ngày càng lớn. Đối với toàn xã hội, sợi dây gắn kết chống khủng bố là điều kiện tất yếu đối với tất cả các cuộc đấu tranh chống lại thế lực này.
Thứ hai, yêu cầu có liên quan của thế lực khủng bố ngày càng “quốc tế hóa”. Các tổ chức khủng bố như Đông Thổ tuyên bố Trung Quốc “chiếm cứ” Tân Cương, làm “phai mờ” văn hóa dân tộc Duy Ngô Nhĩ nên yêu cầu thành lập quốc gia độc lập “Đông Thổ” để bảo vệ cái gọi là sự tôn nghiêm dân tộc. “Yêu cầu” công khai này tương đồng với rất nhiều thế lực khủng bố ở chỗ đã “quốc tế hóa”. Ví dụ, Phong trào Hồi giáo vũ trang Palestine Hamas lấy chiêu bài phản đối sự chiếm đóng của người Do Thái phát động tấn công đối với các công trình xây dựng, nhà ở của người Israel; Đảng Công nhân người Kurd Thổ Nhĩ Kỳ cũng đòi thành lập “Kurdistan” – một nhà nước riêng của người Kurd, nên đã liên tục gây ra các vụ tấn công vào các mục tiêu của Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ.
Thứ ba, đặc điểm huấn luyện, hoạt động xuyên biên giới của chủ nghĩa khủng bố ngày càng rõ ràng. Tổ chức khủng bố AI Qaeda đã cấu kết với các thế lực chủ nghĩa chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa khủng bố ở Tân Cương. Chúng đã tổ chức huấn luyện các phần tử Đông Thổ ở nước ngoài, sau đó xúi giục các phần tử này về nước tham gia “thánh chiến”. Tương tự, tổ chức Al-Qaeda cũng là nơi khởi nguồn của nhiều vụ khủng bố ở Trung Đông, thậm chí là căn nguyên sâu xa nhất của việc truyền bá chủ nghĩa khủng bố trên thế giới. Thứ tư, phương thức thông qua tấn công liều chết để đạt được mục đích của tổ chức khủng bố ngày càng gia tăng. Phương thức tấn công của chủ nghĩa khủng bố rất đa dạng, trong đó phương thức tấn công liều chết thường gặp ở khu vực Trung Đông. Thủ phạm tấn công liều chết thường là tín đồ bị chủ nghĩa cực đoan tẩy não về tư tưởng, có độ tuổi dao động từ vài tuổi cho đến vài chục tuổi, thậm chí một số phụ nữ trung niên cũng có thể trở thành những “góa phụ đen”. Khi Phong trào Hồi giáo vũ trang Palestine Hamas khống chế nhà trẻ ở dải Gaza, những đứa trẻ 5 tuổi bị truyền bá tư tưởng “thánh chiến”, được học cách làm thế nào để trở thành một “phần tử thánh chiến” đạt yêu cầu. Nhà chức trách Trung Quốc đã xác định “vụ tấn công vào cầu Kim Thủy ở Quảng trường Thiên An Môn hôm 28/10” là vụ tấn công khủng bố mang tư tưởng cực đoan do người Duy Ngô Nhĩ Tân Cương lên kế hoạch. Vụ việc này rõ ràng mang tính chất của một vụ tấn công theo phương thức tự sát.
Thứ năm, thủ đoạn được tiến hành ở Trung Quốc giống hệt thủ đoạn của thế lực khủng bố ở Trung Đông. Thủ đoạn tiến hành tuyên truyền phá hoại nhằm phản đối Chính phủ của thế lực khủng bố ở Tân Cương rất giống với thủ đoạn của thế lực khủng bố ở Trung Đông. Chính phủ đều bị gắn mác phân biệt chủng tộc hoặc kẻ phản bội. Ví dụ, Đảng Công nhân người Kurd, bị các nước phương Tây coi là tổ chức khủng bố, cho rằng Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ thực thi chính sách tiêu diệt chủng tộc. Trong khi đó, tổ chức khủng bố Al- Qaeda khẳng định một vài thành viên của Tổ chức Anh em Hồi giáo có mối quan hệ mật thiết với các nước phương Tây nên cần phải bị tiêu diệt. Các phần tử khủng bố Đông Thổ lại tuyên truyền Chính phủ Trung Quốc là “thế lực phân biệt chủng tộc” xóa bỏ tôn giáo và thuộc tính dân tộc, nên đã ra tay sát hại không phân biệt quân nhân, cảnh sát hay dân chúng Duy Ngô Nhĩ.
Ông Mộc Xuân Sơn cho rằng tính chất của các vụ tấn công khủng bố ở Trung Quốc ngày càng có liên quan đến bên ngoài. Do đó, Trung Quốc có thể tìm hiểu và học hỏi sách lược chống khủng bố của các nước Trung Đông, nơi có kinh nghiệm chống khủng bố tiên tiến. Có thể coi Israel – một nước lớn về chống khủng bố là ví dụ điển hình. Cách làm của nước này về giáo dục chống khủng bố, ngăn chặn khủng bố, và các biện pháp chống khủng bố rất đặc sắc.
Về giáo dục chống khủng bố, Israel tích cực bồi dưỡng ý thức an ninh đối với toàn thể dân chúng, đồng thời tăng cường tính linh hoạt của chính sách chống khủng bố. Israel có 75% là người Do Thái, 20% công dân gốc Arập và 5% cư dân thuộc các tộc người và tín ngưỡng khác, do đó nhiệm vụ khó khăn, quan trọng nhất trong vấn đề giáo dục chống khủng bố chính là phân biệt chủ nghĩa khủng bố và tư tưởng của dân thường; đồng thời các chính sách thường ngày của Chính phủ phải nghiêng về người dân không phải gốc Do Thái. Ví
dụ, cách đây không lâu, vị trí Lữ trưởng “Lữ đoàn Golan” phụ trách an ninh biên giới phía Bắc Israel do một người Druze (một nhánh của người Hồi giáo Arập) đảm nhận. Trong lịch sử nước này, đây là lần đầu tiên một vị trí cấp cao trong quân đội không do người Do Thái nắm giữ, điều này cho thấy thái độ yên tâm của Chính phủ trong việc giao cho những tộc người thiểu số phụ trách vấn đề về an ninh biên giới quốc gia. Ngoài ra, cuộc sống, sự đãi ngộ của những công dân không phải là người Do Thái tốt hơn rất nhiều so với những người cùng tộc sinh sống ở ngoài lãnh thổ Israel. Ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn hóa, tính dân tộc… vẫn được duy trì trọn vẹn, do đó tư tưởng hòa bình, phản đối tấn công khủng bố tồn tại phổ biến trong các tộc người thiểu số ở Israel. Họ ít khi bị những kẻ khủng bố lợi dụng, ngược lại trở thành lực lượng phát triển xã hội và xây dựng an ninh công cộng.
Ngoài ra, ý thức chống khủng bố ở Israel đã thâm nhập vào từng tế bào, mạch máu của xã hội. Ví dụ, các công ty hàng không Israel bắt buộc phải tiến hành mở va-li, hành lý để kiểm tra đối với hành lý xách tay hoặc hành lý ký gửi của hành khách khi nhập cảnh, thậm chí đối với các hành khách và hành lý xuất cảnh cũng không có ngoại lệ; tại cửa vào các địa điểm công cộng ở Israel như trung tâm thương mại, công viên, bến xe, thậm chí siêu thị đều lắp đặt máy quét an ninh.
Về ngăn chặn khủng bố, Israel cân nhắc chung các biện pháp mang tính phòng ngừa như phân tích tin tức tình báo chống khủng bố, quan tâm tình hình chống khủng bố, chặn các tin tức chống khủng bố…, và coi đó là những trọng tâm hàng đầu của công tác chống khủng bố. Tuy nhiên, đây cũng là nhũng vấn đề mà các thế lực khủng bố lớn nhỏ từng theo dõi, bao vây, thậm chí công khai uy hiếp Israel trong suốt hơn 10 năm nay; song cũng là nguyên nhân vì sao Israel ít xảy ra tấn công khủng bố.
Đặc sắc “chống khủng bố mang tính ngăn chặn” của Israel ở chỗ không chí tiến hành phân tích tin tức tình báo cơ mật của nội bộ tổ chức khủng bố, mà quan trọng hơn là tiến hành giám sát mạng Internet, tiến hành phân tích ý kiến và thái độ của công chúng đối với chủ nghĩa khủng bố. Chính phủ vừa có thể phát hiện được động cơ, mục tiêu của những kẻ khủng bố từ các tư liệu, băng ghi hình, bài phát biểu cũng như hoạt động tuyên truyền cơ bản nhất của các tổ chức khủng bố; đồng thời đưa ra những phán đoán về năng lực và hành động của chúng; ngoài ra, có thể tiến hành tái phân tích và hợp tác quốc tế để ngăn chặn, cảnh báo hoạt động khủng bố từ các tin bài và góc độ quan tâm khác của giới truyền thông và các quốc gia khác về chúng. Từ đó có thể nâng cao tỉ lệ ngăn chặn các vụ việc khủng bố. Ở góc độ biện pháp chống khủng bố, Israel kết hợp chặt chẽ các biện pháp như pháp luật, hành chính và quân sự. Israel đã sớm ban hành Luật chống khủng bố. Bộ luật này thậm chí đưa nhân viên các ngành nghề đặc thù như cán bộ biên phòng, lái xe taxi… những người bị phần tử khủng bố lợi dụng một cách tình cờ vào danh sách có khả năng bị pháp luật trừng trị. Từ đó tăng cường ý thức chống khủng bố của toàn xã hội.
Trong góc độ hành chính, Israel đã thành lập ủy ban an ninh quốc gia. Ủy ban này không phải cơ quan làm việc có thực quyền, mà là cơ quan cố vấn của nội các. Trên thực tế, Ủy ban an ninh quốc gia cố vấn cho Chính phủ về vấn đề chống khủng bố hoặc an ninh quốc gia. Cơ quan này là nơi điều phối công việc chống khủng bố của các bộ ngành. Thành viên của ủy ban có lúc được gọi là “nội các an ninh” bởi vì khi Thủ tướng triệu tập Hội nghị, các nhân viên liên quan thảo luận vấn đề và mệnh lệnh được truyền xuống cấp dưới để nhanh chóng thực hiện. Ngoài ra, Israel còn có hai cơ quan đảm bảo an ninh trong, ngoài nước là Mossad (Cơ quan tình báo đối ngoại) và ISA (Cục An ninh quốc gia) sẽ phân công, phối hợp giải quyết, xử lý các vụ khủng bố đột xuất, bất ngờ.
Ngoài ra, kinh nghiệm chống khủng bố của quân đội Israel cũng hết sức phong phú. Israel không chỉ có lực lượng chống khủng bố, trường chống khủng bố chuyên trách mà vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này cũng vô cùng chặt chẽ. Ví dụ, Israel thường xuyên tổ chức diễn tập chống khủng bố với Mỹ và các nước châu Âu. Bên cạnh đó, Israel còn tổ chức huấn luyện các hoạt động có liên quan đến chống khủng bố với Trung Quốc. Mùa Hè năm 2013, các sĩ quan quân đội Israel đã đến trường quân sự Bắc Kinh, Trung Quốc để tiến hành giao lưu, hợp tác. Trung Quốc và Israel cũng ký kết ngầm về hợp tác trong vấn đề chống khủng bố ở Tân Cương. Năm ngoái, trong chuyến thăm Israel của Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Trần Bính Đức, hai nước cũng đã đạt được mục đích hợp tác huấn luyện chống khủng bố./.
nguồn:http://basam.info/2013/12/07/2142-trung-quoc-bung-no-bao-luc-dang-toi-gan/
=======================================================================
Thứ Tư, ngày 04/12/2013
TTXVN (Paris 29/11)
Từ 9-12/11, 376 ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc đã họp Hội nghị toàn thể với mong muốn tìm ra một hướng cải cách sâu rộng “chưa từng có tiền lệ” cho lĩnh vực kinh tế – xã hội trong một thập kỷ tới. Đó là nhũng cải cách về sở hữu đất đai, hệ thống tài chính ngân hàng, quan hệ tài khóa giữa chính quyền trung ương và địa phương, tự do hóa thương mại, giảm vai trò của doanh nghiệp nhà nước, phát triển bền vững, giảm mệnh lệnh áp đặt với nền kinh tế và cuối cùng là kế hoạch chống tham nhũng… Tuy nhiên, báo Le Monde ngày 20/11 có bài viết dưới đầu đề “Trung Quốc: bùng nổ bạo lực đang tới gần” cho rằng lấp ló đằng sau các chủ trương cải cách này là nỗi lo sợ mơ hồ về những biến loạn diện rộng trong xã hội Trung Quốc, nội dung như sau:
Chủ tịch Tập Cận Bình đã đọc “báo cáo công tác” trước toàn thể hội nghị, trong đó có một số câu chữ rất mâu thuẫn, chẳng hạn: “Chức năng của thị trường có vai trò quyết định trong việc phân bố các nguồn tài nguyên”, nhưng “chúng ta phải duy trì vai trò thống trị của hệ thống sở hữu tập thể và trao một vai trò cho nền kinh tế chịu sự chỉ đạo của nhà nước.”
Lý luận thì có nhiều nhưng tóm lại, bất luận thế nào thì Trung Quốc cũng cần “duy trì vai trò lãnh đạo của Đảng” và điều này phải bao trùm tất cả. Thế nhưng lấn át mọi chương trình cải cách được thông qua, dường như kết quả nổi bật nhất của Hội nghị Trung ương 3 khóa 18 là việc thành lập một ủy ban mới đặt dưới quyền lãnh đạo trực tiếp của lãnh đạo cấp cao nhất, vừa phụ trách an ninh trong nước vừa hoạch định chính sách ngoại giao, có tên gọi là “Ủy ban An ninh Quốc gia”. Rõ ràng đây là một sự theo đuổi chính sách mà Đặng Tiểu Bình đã vạch ra năm 1978 mà không có bất cứ sửa đổi lớn nào: cải cách kinh tế gắn chặt với đàn áp chính trị mạnh mẽ hơn.
Tại sao phải thành lập một ủy ban mới như vậy trong khi hệ thống nhà nước Trung Quốc đã được trang bị đầy đủ các bộ Tư pháp, Quốc phòng, Công an, rồi các lực lượng cảnh sát và cảnh sát vũ trang và hàng loạt công cụ trấn áp khác? Đó là bởi vì nỗi lo sợ đang thực sự thống trị ở mọi thang bậc cao nhất trong bộ máy cầm quyền. Các lãnh đạo Trung Quốc lo sợ một sự bùng nổ xã hội không thể kiểm soát và đây chính là lý do khiến Bắc Kinh luôn phải đổ tiền của vô tội vạ cho nhiệm vụ “duy trì ổn định”, đến nỗi nhiều người phải đặt câu hỏi kẻ thù thực sự duy nhất của Đảng có phải là toàn thể nhân dân Trung Quốc hay không. Trên thực tế, cũng có một thiểu số cán bộ có ảnh hưởng mong muốn được chứng kiến những chương trình cải cách trị thực sự trong Đảng. Tiêu biểu cho mong muốn cởi mở này là Hồ Đức Bình, con trai trưởng của Hồ Diệu Bang, một nhân vật mà cái chết của ông năm 1989 đã gây ra một phong trào phản kháng dân chủ lớn nhất trong 40 năm. Những người xung quanh ông luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải bắt đầu tiến hành phân bổ lại các nguồn lực và của cải, đồng thời đặt nền tảng cho một nền dân chủ thực sự chứ không phải “thứ giả hiệu” kiểu “nền dân chủ mang đặc sắc Trung Quốc” mà người tiền nhiệm của Tập Cận Bình là Hồ cẩm Đào vẫn đề cao.
Nhưng giai đoạn thực hiện cải cách chính trị có thể đã trôi qua. Nói như nhiều người dân Trung Quốc, “nếu Đảng cải cách thì Đảng sẽ nguy kịch. Nhưng nếu Đảng không cải cách thì đất nước sẽ nguy khốn”. Nhưng dù Trung Quốc không theo đuổi chương trình vận động dân chủ theo gương các nước cộng sản cũ ở Đông Âu thì tại nước này đã nổi lên một tầng lớp thượng lưu luôn lo sợ bị mất những gì họ đã đạt được, trong khi đó tầng lớp nghèo khổ luôn hy vọng sẽ đạt được những điều kiện sống tốt đẹp hơn. Những mầm mống bất ổn này ngày càng phát triển.
Trong khi đó, theo một nghiên cứu được công bố trong Báo cáo Hurun năm 2012, hơn 60% người Trung Quốc giàu có nhất đã di cư hoặc đang làm các thủ tục cần thiết để di cư và hơn 85% trong số họ đã gửi con cháu tới học tại các trường tốt nhất ở nước ngoài. Và như vậy tình trạng phân cực trong xã hội chỉ có thể ngày càng trầm trọng.
Theo phương pháp thống kê Gini (chỉ số Gini) đánh giá mức độ bất bình đẳng xã hội dựa trên thang bậc từ 0 đến 1, và theo theo đó mọi số liệu cao hơn 0,4 đều là dấu hiệu dự báo biến loạn xã hội, chỉ số của Trung Quốc hiện đã lên gần 0,5 kể từ cuối năm 2012. Nếu căn cứ vào các chỉ số Gini, có thể nói biển loạn xã hội diện rộng ở Trung Quốc sẽ xảy ra trong nay mai… Điều này chắc chắn lý giải nỗi lo lắng thực sự của giới quân sự và các lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng sản Trung Quốc hiện nay.
Trên thực tế, Chủ tịch Tập Cận Bình đang chịu một sức ép lớn từ các nhân vật lãnh đạo dưới quyền và từ chính hệ thống chính trị Trung Quốc. Các đề xuất mà Tập Cận Bình đưa ra khi mới nhậm chức cuối năm 2012, chẳng hạn việc xóa bỏ các trại cải tạo lao động đã không thành công. Một số tỉnh đã áp dụng quyết định này nhưng nhiều địa phương khác thì không, và không ai biết phần tiếp theo của câu chuyện ra sao…
Giới công chức và đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng có quá nhiều thứ để mất nếu Đảng tiến hành cải cách chính trị. Hơn nữa, không ai biết điều gì sẽ xảy ra nếu một thành viên nữa của ban lãnh đạo Đảng bị thanh trừng. Ví dụ trường họp Bạc Hy Lai, người lẽ ra đã được bước vào chốn thâm cung siêu an toàn của Bộ Chính trị nhưng đã bị kết án tù chung thân ngay trước Hội nghị Trung ương 3, đã cho thấy nhiều điều. Nếu nhân vật này không thành công trong việc áp đặt sức mạnh thì người kế nhiệm chắc chắn sẽ làm bằng được như vậy còn hơn là ngồi im chờ bị bắt và bỏ tù.
Ngày càng xuất hiện thêm các thông tin chính xác và không thể che đậy về của cải và sự giàu có của các nhà lãnh đạo và điều này tất yếu dẫn đến sự phẫn nộ ngày càng lớn trong xã hội. Do Bloomberg News đã đánh giá tài sản của gia đình Tập Cận Bình lên tới “khoảng 500 triệu USD”, trong khi New York Times đăng một bài viết công bố tài sản của gia đình cựu Thủ tướng Ôn Gia Bảo tổng cộng lên tới “ít nhất 2,7 tỉ USD”, nên các trang mạng bằng tiếng Anh và tiếng Trung Quốc của hai phương tiện thông tin này đã bị chặn triệt để tại Trung Quốc.
Tác hại của nạn tham nhũng và tình trạng gia đình trị hiển nhiên đập vào mắt tất cả công luận. Phải giải thích thế nào về việc một nhân viên cảnh sát bình thường tại một khu phố ở Thượng Hải đã bị bắt với 2 triệu USD tiền mặt cất trong ngăn kéo? Có phải vì anh ta được công tác tại khu Tĩnh An, một nơi béo bở để có thể nhận những xấp tiền lo lót của rất đông doanh nghiệp Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước châu Á khác?
Các vụ nổ và tấn công xảy ra ở quảng trường Thiên An Môn, rồi ở Tân Cương và các địa phương khác chắc chắn chỉ là những bóng ma đầu tiên của một khủng hoảng xã hội trầm trọng. Khẩu hiệu của những người biểu tình tại Thiên An Môn năm 1989, những người muốn đấu tranh “hòa bình, lý trí và phi bạo lực” có thể sẽ không còn phù hợp với hoàn cảnh của Trung Quốc hiện nay.
* * *
TTXVN (Hong Kong 1/12)Theo “Đại Công báo ” (Mong Kong), ngày 16/11 đã xảy ra một vụ tấn công vào đồn cảnh sát tại thị trấn Serikbuya, huyện Bachu, thuộc thành phố Kashgar, khu tự trị Tân Cương làm 11 người thiệt mạng trong đó có 2 cảnh sát. Vụ tấn công thu hút sự chú ý đặc biệt của dư luận, đặc biệt trong bối cảnh tại Trung Quốc vừa xảy ra hai vụ việc liên quan đến khủng bố ở quảng trường Thiên An Môn và ở thành phố Thái Nguyên, thủ phủ tỉnh ủy Sơn Tây. Nhà chức trách hiện chưa công bố các thông tin cụ thể liên quan tới vụ việc trên, song theo lôgích phân tích và kinh nghiệm phán đoán, đây là vụ tấn công khủng bố có liên quan tới các thế lực chủ nghĩa cực đoan trong và ngoài lãnh thổ Trung Quốc.
Xuất phát từ các nguyên nhân khác nhau, cộng đồng quốc tế luôn quan tâm đến vấn đề chống khủng bố ở Tân Cương, trong đó có quan điểm cho rằng Tân Cương đang đối diện với nguy cơ “Trung Đông hóa”. Mặc dù cách nói này có phần bi quan khi phán đoán tình hình tương lai, song từ thực tế có thể nhận định tình hình chống khủng bố ở Tân Cương tương tự như tình hình chống khủng bố ở Trung Đông. Theo tác giả bài viết (ông Mộc Xuân Sơn), cách so sánh này có ý nghĩa răn đe.
Thử nhất, các vụ khủng bố gia tăng, ý thức chống khủng bố đã lan tỏa từ tổ chức sang người dân. Từ đầu năm 2013, đã có 4 vụ việc tương tự kiểu tấn công khủng bố xảy ra trên lãnh thổ Trung Quốc, trong đó riêng khu vực Bachu đã xảy ra 2 vụ. Đáng chú ý là vụ tấn công khủng bố hồi tháng 4 với con số thiệt mạng lên tới 15 người. Đây chỉ là những vụ tấn công khủng bố được giới truyền thông tiết lộ, ngoài ra những vụ tấn công khủng bố khác do một số nguyên nhân như xuất phát từ lý do an ninh hoặc giới truvền thông không nắm được hay âm mưu tấn công khủng bố bị phá vỡ nên đã không được tiết lộ. Điều này cho thấy tình hình chống khủng bố ở Tân Cương nghiêm trọng hơn rất nhiều so với trước đây. Ý thức chống khủng bố đã bắt đầu lan truyền từ giới chức trách sang quần chúng nhân dân. Có thể làm phép so sánh với bên ngoài, hiện nay các vụ tấn công khủng bố ở Trung Đông vẫn thường xuyên xảy ra với số lượng tương đối nhiều bất kể là ở Iraq, Ai Cập hay Saudi Arabia. Hoạt động dày đặc của các phần tử khủng bố cho thấy khả năng và tần suất hoạt động của chúng ngày càng lớn. Đối với toàn xã hội, sợi dây gắn kết chống khủng bố là điều kiện tất yếu đối với tất cả các cuộc đấu tranh chống lại thế lực này.
Thứ hai, yêu cầu có liên quan của thế lực khủng bố ngày càng “quốc tế hóa”. Các tổ chức khủng bố như Đông Thổ tuyên bố Trung Quốc “chiếm cứ” Tân Cương, làm “phai mờ” văn hóa dân tộc Duy Ngô Nhĩ nên yêu cầu thành lập quốc gia độc lập “Đông Thổ” để bảo vệ cái gọi là sự tôn nghiêm dân tộc. “Yêu cầu” công khai này tương đồng với rất nhiều thế lực khủng bố ở chỗ đã “quốc tế hóa”. Ví dụ, Phong trào Hồi giáo vũ trang Palestine Hamas lấy chiêu bài phản đối sự chiếm đóng của người Do Thái phát động tấn công đối với các công trình xây dựng, nhà ở của người Israel; Đảng Công nhân người Kurd Thổ Nhĩ Kỳ cũng đòi thành lập “Kurdistan” – một nhà nước riêng của người Kurd, nên đã liên tục gây ra các vụ tấn công vào các mục tiêu của Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ.
Thứ ba, đặc điểm huấn luyện, hoạt động xuyên biên giới của chủ nghĩa khủng bố ngày càng rõ ràng. Tổ chức khủng bố AI Qaeda đã cấu kết với các thế lực chủ nghĩa chia rẽ dân tộc, chủ nghĩa khủng bố ở Tân Cương. Chúng đã tổ chức huấn luyện các phần tử Đông Thổ ở nước ngoài, sau đó xúi giục các phần tử này về nước tham gia “thánh chiến”. Tương tự, tổ chức Al-Qaeda cũng là nơi khởi nguồn của nhiều vụ khủng bố ở Trung Đông, thậm chí là căn nguyên sâu xa nhất của việc truyền bá chủ nghĩa khủng bố trên thế giới. Thứ tư, phương thức thông qua tấn công liều chết để đạt được mục đích của tổ chức khủng bố ngày càng gia tăng. Phương thức tấn công của chủ nghĩa khủng bố rất đa dạng, trong đó phương thức tấn công liều chết thường gặp ở khu vực Trung Đông. Thủ phạm tấn công liều chết thường là tín đồ bị chủ nghĩa cực đoan tẩy não về tư tưởng, có độ tuổi dao động từ vài tuổi cho đến vài chục tuổi, thậm chí một số phụ nữ trung niên cũng có thể trở thành những “góa phụ đen”. Khi Phong trào Hồi giáo vũ trang Palestine Hamas khống chế nhà trẻ ở dải Gaza, những đứa trẻ 5 tuổi bị truyền bá tư tưởng “thánh chiến”, được học cách làm thế nào để trở thành một “phần tử thánh chiến” đạt yêu cầu. Nhà chức trách Trung Quốc đã xác định “vụ tấn công vào cầu Kim Thủy ở Quảng trường Thiên An Môn hôm 28/10” là vụ tấn công khủng bố mang tư tưởng cực đoan do người Duy Ngô Nhĩ Tân Cương lên kế hoạch. Vụ việc này rõ ràng mang tính chất của một vụ tấn công theo phương thức tự sát.
Thứ năm, thủ đoạn được tiến hành ở Trung Quốc giống hệt thủ đoạn của thế lực khủng bố ở Trung Đông. Thủ đoạn tiến hành tuyên truyền phá hoại nhằm phản đối Chính phủ của thế lực khủng bố ở Tân Cương rất giống với thủ đoạn của thế lực khủng bố ở Trung Đông. Chính phủ đều bị gắn mác phân biệt chủng tộc hoặc kẻ phản bội. Ví dụ, Đảng Công nhân người Kurd, bị các nước phương Tây coi là tổ chức khủng bố, cho rằng Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ thực thi chính sách tiêu diệt chủng tộc. Trong khi đó, tổ chức khủng bố Al- Qaeda khẳng định một vài thành viên của Tổ chức Anh em Hồi giáo có mối quan hệ mật thiết với các nước phương Tây nên cần phải bị tiêu diệt. Các phần tử khủng bố Đông Thổ lại tuyên truyền Chính phủ Trung Quốc là “thế lực phân biệt chủng tộc” xóa bỏ tôn giáo và thuộc tính dân tộc, nên đã ra tay sát hại không phân biệt quân nhân, cảnh sát hay dân chúng Duy Ngô Nhĩ.
Ông Mộc Xuân Sơn cho rằng tính chất của các vụ tấn công khủng bố ở Trung Quốc ngày càng có liên quan đến bên ngoài. Do đó, Trung Quốc có thể tìm hiểu và học hỏi sách lược chống khủng bố của các nước Trung Đông, nơi có kinh nghiệm chống khủng bố tiên tiến. Có thể coi Israel – một nước lớn về chống khủng bố là ví dụ điển hình. Cách làm của nước này về giáo dục chống khủng bố, ngăn chặn khủng bố, và các biện pháp chống khủng bố rất đặc sắc.
Về giáo dục chống khủng bố, Israel tích cực bồi dưỡng ý thức an ninh đối với toàn thể dân chúng, đồng thời tăng cường tính linh hoạt của chính sách chống khủng bố. Israel có 75% là người Do Thái, 20% công dân gốc Arập và 5% cư dân thuộc các tộc người và tín ngưỡng khác, do đó nhiệm vụ khó khăn, quan trọng nhất trong vấn đề giáo dục chống khủng bố chính là phân biệt chủ nghĩa khủng bố và tư tưởng của dân thường; đồng thời các chính sách thường ngày của Chính phủ phải nghiêng về người dân không phải gốc Do Thái. Ví
dụ, cách đây không lâu, vị trí Lữ trưởng “Lữ đoàn Golan” phụ trách an ninh biên giới phía Bắc Israel do một người Druze (một nhánh của người Hồi giáo Arập) đảm nhận. Trong lịch sử nước này, đây là lần đầu tiên một vị trí cấp cao trong quân đội không do người Do Thái nắm giữ, điều này cho thấy thái độ yên tâm của Chính phủ trong việc giao cho những tộc người thiểu số phụ trách vấn đề về an ninh biên giới quốc gia. Ngoài ra, cuộc sống, sự đãi ngộ của những công dân không phải là người Do Thái tốt hơn rất nhiều so với những người cùng tộc sinh sống ở ngoài lãnh thổ Israel. Ngôn ngữ, tín ngưỡng, văn hóa, tính dân tộc… vẫn được duy trì trọn vẹn, do đó tư tưởng hòa bình, phản đối tấn công khủng bố tồn tại phổ biến trong các tộc người thiểu số ở Israel. Họ ít khi bị những kẻ khủng bố lợi dụng, ngược lại trở thành lực lượng phát triển xã hội và xây dựng an ninh công cộng.
Ngoài ra, ý thức chống khủng bố ở Israel đã thâm nhập vào từng tế bào, mạch máu của xã hội. Ví dụ, các công ty hàng không Israel bắt buộc phải tiến hành mở va-li, hành lý để kiểm tra đối với hành lý xách tay hoặc hành lý ký gửi của hành khách khi nhập cảnh, thậm chí đối với các hành khách và hành lý xuất cảnh cũng không có ngoại lệ; tại cửa vào các địa điểm công cộng ở Israel như trung tâm thương mại, công viên, bến xe, thậm chí siêu thị đều lắp đặt máy quét an ninh.
Về ngăn chặn khủng bố, Israel cân nhắc chung các biện pháp mang tính phòng ngừa như phân tích tin tức tình báo chống khủng bố, quan tâm tình hình chống khủng bố, chặn các tin tức chống khủng bố…, và coi đó là những trọng tâm hàng đầu của công tác chống khủng bố. Tuy nhiên, đây cũng là nhũng vấn đề mà các thế lực khủng bố lớn nhỏ từng theo dõi, bao vây, thậm chí công khai uy hiếp Israel trong suốt hơn 10 năm nay; song cũng là nguyên nhân vì sao Israel ít xảy ra tấn công khủng bố.
Đặc sắc “chống khủng bố mang tính ngăn chặn” của Israel ở chỗ không chí tiến hành phân tích tin tức tình báo cơ mật của nội bộ tổ chức khủng bố, mà quan trọng hơn là tiến hành giám sát mạng Internet, tiến hành phân tích ý kiến và thái độ của công chúng đối với chủ nghĩa khủng bố. Chính phủ vừa có thể phát hiện được động cơ, mục tiêu của những kẻ khủng bố từ các tư liệu, băng ghi hình, bài phát biểu cũng như hoạt động tuyên truyền cơ bản nhất của các tổ chức khủng bố; đồng thời đưa ra những phán đoán về năng lực và hành động của chúng; ngoài ra, có thể tiến hành tái phân tích và hợp tác quốc tế để ngăn chặn, cảnh báo hoạt động khủng bố từ các tin bài và góc độ quan tâm khác của giới truyền thông và các quốc gia khác về chúng. Từ đó có thể nâng cao tỉ lệ ngăn chặn các vụ việc khủng bố. Ở góc độ biện pháp chống khủng bố, Israel kết hợp chặt chẽ các biện pháp như pháp luật, hành chính và quân sự. Israel đã sớm ban hành Luật chống khủng bố. Bộ luật này thậm chí đưa nhân viên các ngành nghề đặc thù như cán bộ biên phòng, lái xe taxi… những người bị phần tử khủng bố lợi dụng một cách tình cờ vào danh sách có khả năng bị pháp luật trừng trị. Từ đó tăng cường ý thức chống khủng bố của toàn xã hội.
Trong góc độ hành chính, Israel đã thành lập ủy ban an ninh quốc gia. Ủy ban này không phải cơ quan làm việc có thực quyền, mà là cơ quan cố vấn của nội các. Trên thực tế, Ủy ban an ninh quốc gia cố vấn cho Chính phủ về vấn đề chống khủng bố hoặc an ninh quốc gia. Cơ quan này là nơi điều phối công việc chống khủng bố của các bộ ngành. Thành viên của ủy ban có lúc được gọi là “nội các an ninh” bởi vì khi Thủ tướng triệu tập Hội nghị, các nhân viên liên quan thảo luận vấn đề và mệnh lệnh được truyền xuống cấp dưới để nhanh chóng thực hiện. Ngoài ra, Israel còn có hai cơ quan đảm bảo an ninh trong, ngoài nước là Mossad (Cơ quan tình báo đối ngoại) và ISA (Cục An ninh quốc gia) sẽ phân công, phối hợp giải quyết, xử lý các vụ khủng bố đột xuất, bất ngờ.
Ngoài ra, kinh nghiệm chống khủng bố của quân đội Israel cũng hết sức phong phú. Israel không chỉ có lực lượng chống khủng bố, trường chống khủng bố chuyên trách mà vấn đề hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này cũng vô cùng chặt chẽ. Ví dụ, Israel thường xuyên tổ chức diễn tập chống khủng bố với Mỹ và các nước châu Âu. Bên cạnh đó, Israel còn tổ chức huấn luyện các hoạt động có liên quan đến chống khủng bố với Trung Quốc. Mùa Hè năm 2013, các sĩ quan quân đội Israel đã đến trường quân sự Bắc Kinh, Trung Quốc để tiến hành giao lưu, hợp tác. Trung Quốc và Israel cũng ký kết ngầm về hợp tác trong vấn đề chống khủng bố ở Tân Cương. Năm ngoái, trong chuyến thăm Israel của Tổng tham mưu trưởng quân đội Trung Quốc Trần Bính Đức, hai nước cũng đã đạt được mục đích hợp tác huấn luyện chống khủng bố./.
nguồn:http://basam.info/2013/12/07/2142-trung-quoc-bung-no-bao-luc-dang-toi-gan/
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001