RFA
2012-10-02
Thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, được mệnh danh “Ngục sĩ”, nhà thơ phản kháng nổi tiếng nhất của Việt Nam, vừa từ trần tại Santa Ana, California, Hoa Kỳ lúc 7 giờ 17 phút sáng ngày 2/10/2012, hưởng thọ 73 tuổi.
Courtesy VietAmReview
Ông từng bị chế độ Việt Nam Dân chủ Cộng Hoà bắt giam từ năm 1961, vì tội “phản tuyên truyền” bằng những bài thơ phê phán chế độ. Được trả tự do vào tháng 11 năm 1964, đến tháng 2-1966 ông lại bị tống giam đến tháng 7-1977. Ông viết lại bằng tay tập thơ “Hoa địa ngục” sáng tác và ghi nhớ trong tù.
Tháng 7-1979, ông đem đưa được tác phẩm này vào bên trong toà đại sứ Anh. Ông không đi tị nạn ở Anh và bị bắt ngay trước cổng toà đại sứ, bị tống giam thêm 12 năm, với chế độ giam giữ khắc nghiệt hơn hết so với những khoảng thời gian bị giam cầm trước đó.
Tập thơ “Hoa địa ngục” từ toà đại sứ Anh ở Hà Nội được chuyển tới giáo sư Patrick Honey (1925-2005) dạy tại đại học Luân đôn. Sau đó thơ ông được phổ biến trên báo chí, sách vở của người Việt hải ngoại, được dịch và xuất bản bằng Anh, Pháp, Việt ngữ. Năm 1985 ông được tặng thưởng khiếm diện giải thưởng thơ quốc tế tại Rotterdam.
Từ năm 1981 Tổ chức Ân xá Quốc tế Amnesty International, Tổ chức Theo dõi Nhân quyền Human Rights Watch và Tổ chức nhân quyền Quê Mẹ cùng phát động chiến dịch kêu gọi quốc tế can thiệp với nhà cầm quyền Việt Nam về trường hợp của ông.
Suốt thời gian đó ông bị giam tại Hoả Lò, Hà Nội, đến năm 1985 bị đưa đi biệt giam giữa rừng, kiệt sức và gần chết đói. Năm 1990 ông được đưa tới trại tù Ba Sao săn sóc thuốc men, và được trả tự do vào tháng 10 năm 1991.
Được anh ruột bảo lãnh sang Hoa Kỳ từ năm 1995, ông ghi lại và phổ biến tập “Hoa địa ngục” thứ nhì, gồm những bài ông sáng tác và ghi nhớ trong thời gian cầm tù sau . GS Nguyễn Ngọc Bích dịch tác phẩm nay sang Anh ngữ và xuất bản song ngữ. Ông viết tự truyện bằng Anh ngữ, được đại học Hawaii xuất bản trong “Beyond Works: Asian Writers on Their Works.”
Thi sĩ "ngục sĩ" Nguyễn Chí Thiện được giải thưởng của Hội Nhà văn Quốc tế vào năm 1998. Ông sang Pháp, ở lại đó 3 năm để viết “Hoả Lò tập truyện”. Tác phẩm được dịch sang Anh ngữ, đại học Yale xuất bản năm 2007.
Nhà thơ cư ngụ tại quân Cam California từ năm 2004, phải phấn đấu thường xuyên với những di chứng bệnh tật trong suốt 27 năm tù ngục, nhưng vẫn đi nhiều nơi để nói chuyện về kế hoạch dân chủ hoá Việt Nam.
Ông là một người độc thân, mất đi trong sự săn sóc của bạn bè thân hữu và những cuộc thăm viếng của những đồng bào Việt Nam ái mộ thơ văn của ông, ngưỡng mộ ý chí bất khuất của ông trước chế độ cộng sản của Nhà nước Việt Nam Xã hội Chủ Nghĩa.
Copyright © 1998-2011 Radio Free Asia. All rights reserved.
nguồn:http://www.rfa.org/vietnamese/vietnamnews/preeminent-prisoner-poet-died-in-california-10022012125925.html
=====================================================================
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời, thọ 73 tuổi
Tuesday, October 02, 2012 8:53:34 AM
*
Người tù 27 năm
Ông Nguyễn Chí Thiện
sinh năm 1939 tại Hà Nội. Ông có một người anh là sĩ quan cao cấp VNCH, sống ở
tiểu bang Virginia, và hai người chị ở Việt Nam.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện qua đời, thọ 73 tuổi
Tuesday, October 02, 2012 8:53:34 AM
QUẬN CAM, CA (NV) - Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, tác
giả tập thơ “Hoa Ðịa Ngục,” qua đời lúc 7 giờ 17 phút sáng Thứ Ba, 2 tháng 10,
2012, tại một bệnh viện ở thành phố Santa Ana, quận Cam, California, thọ 73
tuổi.
Nhà
thơ
Nguyễn
Chí Thiện
(bên phải)
gặp
dịch
giả
Huỳnh Sanh Thông (bên trái) tại
thành phố
New Haven, Connecticut, hồi
Tháng Tư
2005. (Hình: Quang Phu Van - Vietnam Literature Project)
Nhà thơ Nguyễn Chí
Thiện nhập viện vào sáng sớm ngày 26 Tháng Chín, 2012. Tại đây, bệnh viện điều
trị chứng nhiễm trùng đường phổi nhưng ông vẫn thấy đau ở ngực. Một số xét
nghiệm cả về tim mạch, chụp phim và lấy mẫu phổi (biopsy) truy tìm ung thư cũng
đã được thực hiện.
Tuy nhiên, cho đến
sáng ngày Thứ Hai, 1 Tháng Mười, 2012 thì bệnh trở nặng. 10 giờ sáng Thứ Hai,
Linh Mục Cao Phương Kỷ đã làm các nghi thức cần thiết để ông trở thành một tín
đồ Công Giáo theo ước nguyện trước sự chứng kiến của ông bà Bác Sĩ Trần Văn Cảo,
Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Trang, bà Lâm Thiên Hương, và nhà văn Trần Phong
Vũ.
Nhà văn Trần Phong Vũ,
một trong một ít người kề cận, chăm sóc nhà thơ Nguyễn Chí Thiện trong những
ngày ở bệnh viện, đã vuốt mắt cho nhà thơ sau khi ông qua đời.
Ông Nguyễn Công Giân,
anh của nhà thơ Nguyễn Chí Thiện, đáp máy bay từ Virginia tới Quận Cam sáng nay
cũng không kịp gặp mặt em trước khi mất.
Nhà văn Trần Phong Vũ,
người rất gần gũi với thi sĩ Nguyễn Chí Thiện, nói với Người Việt: “Sáng hôm
nay, tôi có nói với các bạn hữu của tôi, rằng: xin anh nếu hồn thiêng của anh
còn phảng phất đâu đó và được Thiên Chúa đưa về với Người, xin anh dạy cho chúng
tôi bài học sống lương thiện như anh, sống ngay thẳng tròn đầy như anh với con
người, bởi vì anh đã sống trọn vẹn cái ân tình của người yêu thương trọn
đời.”
Từ Washington D.C.,
Giáo Sư Ðoàn Viết Hoạt bày tỏ: “Tôi ở xa nên không gần anh được những ngày cuối
cùng của anh. Tôi hy vọng sẽ có một nấm mồ cho anh để những anh em ở xa mỗi lần
có dịp về sẽ đến thăm anh.”
Cũng từ Washington,
Giáo Sư Nguyễn Ngọc Bích phát biểu về sự ra đi của thi sĩ Nguyễn Chí Thiện: “Tôi
quen ông đến mức như anh em trong gia đình. Mà không chỉ là anh em mà còn như
một người đồng chí trong cuộc chiến đấu cho đất nước quê hương, cho tự do nhân
quyền.”
“Sự ra đi của ông
Nguyễn Chí Thiện đối với tôi giống như người bạn đi ra chiến trường mất một
người đứng bên cạnh mình.”
Ông bị tù cộng sản
tổng cộng 27 năm qua nhiều nhà tù miền Bắc, đặc biệt là nhà tù nổi tiếng Cổng
Trời (Hà Giang).
Cuối năm 1960, một
người bạn nhờ ông dạy thế hai giờ môn sử địa tại một trường trung học. Cuốn sách
dùng làm tài liệu giảng dạy là “Cách mạng Tháng Tám 1945” do nhà xuất bản Sự
Thật phát hành. Sách này xuyên tạc sự thật khi nói Thế Chiến Thứ Hai chấm dứt là
nhờ Liên Xô chiến thắng quân đội Nhật bản. Tôn trọng sự thật, ông đã giảng cho
học sinh biết là Thế Chiến II chấm dứt nhờ Hoa Kỳ thả hai trái bom nguyên tử lên
2 thành phố Hiroshima và Nagasaki buộc Nhật Bản đầu hàng vô điều
kiện.
Nhà cầm quyền CSVN bắt
đưa ông ra tòa, kết án 2 năm tù với tội danh phản tuyên truyền, nhưng ông bị
giam giữ tổng cộng tới 3 năm rưỡi.
Ông bắt đầu làm thơ
trong giai đoạn tù tội này, lột tả cảnh tù tội và sự giả dối, tàn ác của cộng
sản.
Ra tù năm 1964, đến
năm 1966 ông bị bắt lại vì những bài thơ chống chế độ thật độc đáo được nhiều
người truyền nhau. Ông bị giam giữ không có án qua nhiều nhà tù, từ Phú Thọ, Yên
Bái, Lào Cai cho đến năm 1977 mới được thả.
Năm 1979 ông chạy vào
Tòa Ðại Sứ Anh Quốc ở Hà Nội đưa tập thơ gồm 400 bài do ông nhớ lại những gì đã
làm ở trong tù và xin tị nạn chính trị. Viên chức tòa đại sứ chỉ nhận tập thơ để
chuyển ra ngoại quốc và cho biết họ không giúp ông tỵ nạn chính trị được. Bước
ra khỏi trụ sở Tòa Ðại Sứ Anh thì ông bị công an CSVN bắt giữ liền, đưa đi tù
cho đến ngày 28 tháng 10, 1991, không có bản án.
Một bà chị ông, bà
Nguyễn Thị Hảo, đã qua đời năm 2004, gửi hình ảnh, tài liệu về ông ra ngoại quốc
kêu cứu. Nhờ sự can thiệp đặc biệt của nhiều nhân vật và tổ chức quốc tế, ông
được chế độ Hà Nội thả cho đi Mỹ định cư tháng 1, 1995.
Ông đã đem kinh nghiệm
về chế độ Cộng Sản, kinh nghiệm tù đày trình bày với các cộng đồng người Việt
khắp nơi, từ Hoa Kỳ, Canada, Âu Châu và Úc Châu. Tập thơ Hoa Ðịa Ngục đã được
dịch ra tiếng Anh, Pháp, Ðức và Hòa Lan.
Sau khi đến Mỹ, năm
2001 ông cho xuất bản tập truyện Hỏa Lò. Tập truyện Hai Chuyện Tù được ông xuất
bản năm 2008.
Nhà
thơ
Nguyễn
Chí Thiện
(Hình tư liệu Người
Việt)
|
“Hoa Ðịa
Ngục”
Vào năm 1980, người ta
thấy xuất hiện ở hải ngoại một tập thơ không có tên tác giả, xuất bản bởi “Ủy
Ban Tranh Ðấu cho Tù Nhân Chính Trị tại Việt Nam.” Tập thơ mang tựa đề “Tiếng
Vọng Từ Ðáy Vực,” mà tác giả là “Ngục Sĩ” hay khuyết danh. Ít tuần lễ sau, tạp
chí Văn Nghệ Tiền Phong đưa ra một ấn bản cùng một nội dung nhưng với tựa đề
“Bản Chúc Thư Của Một Người Việt Nam.”
Tựa đề tập thơ Hoa Ðịa
Ngục có từ khi “Yale Center for International & Area Studies” ấn hành bản
Anh ngữ “Flowers From Hell” do ông Huỳnh Sanh Thông dịch. Sau người ta mới biết
tác giả tập thơ là Nguyễn Chí Thiện.
Những bài thơ của ông
trong tập Hoa Ðịa Ngục gây xúc động sâu xa trong tâm thức người đọc về cái đói,
sự đày đọa ác độc, sự gian ác của chế độ Cộng Sản đối với con
người.
Tập thơ thoát ra khỏi
Việt Nam khi nhà thơ lén mang tới Tòa Ðại Sứ Anh tại Hà Nội và được Giáo Sư
Patrick J. Honey thuộc Ðại Học London sang Việt Nam tháng 7 năm 1979 và mang về.
Kèm trong tập thơ 400 trang viết tay này là lá thư mở đầu với lời
ngỏ:
“Nhân danh hàng
triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng
một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm cộng sản, tôi xin ông vui lòng
cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Ðó là kết quả
20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam
cầm.” (TN)
nguồn:http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=155802&zoneid=1
=====================================================================
Nguyễn Chí Thiện trong “Đêm giữa ban ngày”
Nguyễn Chí Thiện trong “Đêm giữa ban ngày”
03:34:pm 02/10/12 | Tác giả:
Đàn Chim Việt
Vũ Thư Hiên: Người bạn tù thân thiết của tôi, anh Nguyễn Chí Thiện đã trút hơi thở cuối cùng lúc 7 g 17 phút sáng ngày 2 tháng 10 – 2012, ở xa quê hương mà từng phút từng giây anh hướng về. Chúng tôi có với nhau nhiều kỷ niệm, của đời tù cũng như của cuộc sống ngoài đất nước. Anh là nhà thơ bất khuất của “phe nước mắt” (chữ của nhà thơ Dương Tường). Khóc bạn, tôi chia sẻ vài dòng hồi ức về anh để các bạn hiểu thêm về con người đáng kính, và hơn nữa, đáng yêu này.
—————————————-
Cán bộ giáo dục trại tên Bưởi cũng nương nhẹ đối với những người cộng sản Trung Quốc thuộc “vụ Quảng Ninh”.
- Họ giữ tư cách đàng hoàng lắm – Bưởi nhận xét – Đáng phục.
- Căn cứ tuổi họ thì đây là những người đã tham gia giải phóng Trung Quốc. – tôi nói – Vào thời gian đó chỉ những người có tư cách mới lãnh đạo được quần chúng.
Những người cộng sản này đến Việt Nam bằng con đường khá vòng vèo. Khoảng đầu thập niên 60, tôi không còn nhớ rõ năm nào, vùng Hoa Nam bị lâm vào một nạn đói cực kỳ khủng khiếp. Người chết đầy đường. Dân đói ùn ùn kéo đi Hồng Kông, nghe nói cả triệu người. Chính quyền Trung Hoa lục địa không tài nào ngăn nổi một cuộc di dân ồ ạt như thế. Nó không thể xảy ra nếu không được những người dày kinh nghiệm đấu tranh lãnh đạo. Chính những người cộng sản địa phương đã tổ chức cuộc chạy trốn ấy. Chính quyền Hồng Kông giam dân di tản lại rồi báo cho Bắc Kinh biết. Bắc Kinh tuyên bố: “Không hề có chuyện các công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bỏ chạy tới Hồng Kông”. Đảo quốc Đài Loan giang tay đón những đứa con đói khát của tổ quốc, nhưng không phải chỉ vì tình thương, mà còn vì những mục đích chính trị – họ nghĩ tới những đội biệt kích rồi đây sẽ được phái về “giải phóng tổ quốc”. Những người cộng sản được lọc ra, được huấn luyện, rồi được bỏ lên những con thuyền buồm, nhằm hướng Hoa lục. Không hiểu la bàn hỏng, thuyền trưởng tồi, hay vì những trục trặc nào khác, nhưng họ lại cập bến Quảng Ninh sau một cơn bão, tưởng mình đã ở trên đất đai của tổ tiên.
Tôi hỏi một cựu bí thư huyện ủy (huyện của Trung Quốc to bằng tỉnh của ta):
- Anh thất vọng về chủ nghĩa cộng sản, và chống lại nó?
- Đâu có. Tôi vẫn thích chủ nghĩa cộng sản. Tôi vẫn tin chỉ có nó mới mang lại cho chúng tôi công bằng và hạnh phúc.
- Thế mà anh đã ra đi khỏi nơi đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Tại sao?
- Mao Trạch Đông không phải cộng sản. Tôi có trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo. Họ đói. Đã có những người chết. Chủ nghĩa cộng sản thì xa. Nồi cơm gần hơn.
Anh Nguyễn Chí Thiện, một tù nhân có thâm niên đáng kính, một nhà thơ được ưu ái trong tầng lớp trí thức của xã hội tù, bĩu môi:
- Các anh nói thối bỏ mẹ: “trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo”. Dân chúng chẳng cần tới sự lãnh đạo của các anh. Vì các anh dân mới đói. Vì các anh dân Trung Quốc mới thân tàn ma dại.
Ông bí thư huyện, anh hùng lao động nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhìn Thiện, nín lặng.
Những người cộng sản Trung Quốc sống trong nhà tù Việt Nam như khách. Họ chỉ quan tâm tới tình hình Việt Nam trong chừng mực những gì liên quan tới họ. Ngoại giả, họ mặc. Là tù đấy, nhưng họ không quỵ lụy cán bộ trại, cũng không hòa nhập với cộng đồng tù Việt. Cán bộ có quát nạt họ cũng giả vờ điếc, không nghe thấy, không hiểu. Thỉnh thoảng hứng lên họ hát đồng ca những bài hát cách mạng của Trung Quốc, như bài “Xì lai!” mà chúng tôi cũng biết. Hoặc “Quốc tế ca”. Nhưng không bao giờ họ hát bài “Đông phương hồng” . mặt trời lên. Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông!”.
- Nạn đói là kinh niên đối với một nước như Trung Quốc. – tôi nói với Thiện – Không phải những người cộng sản là nguyên nhân duy nhất. Thời Tưởng, tôi biết, nạn đói còn xảy ra nhiều hơn. Hãy nhớ lại bọn Tàu phù sang ta năm 1945. Không phải chỉ đói, mà còn man rợ nữa…
Thiện trợn mắt nhìn tôi. Anh không thích một câu đế ngang xương như thế. Với anh, cộng sản là xấu, là tồi tệ, là kinh tởm, chấm hết. Không một cái gì của cộng sản có thể là tốt. Cái cách tôi đánh đồng loạt chính quyền Thưởng Giới Thạch với chính quyền Mao Trạch Đông như thế là không được. Không hiểu sao anh vẫn chấp nhận tôi như một ngoại lệ.
Nguyễn Chí Thiện làm nhiều thơ. Chiều chiều chúng tôi tụ họp nhau ở sau trại ngắm hoàng hôn, uống trà và nghe thơ. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Phổ Gián điệp, Tôn Thất Tần… kẻ đứng người ngồi trong ráng chiều bàng bạc của một vùng rừng núi âm u bắt đầu ngả sang màu tím, tôi nhớ tới bức tranh nổi tiếng Những Người Tháng Chạp trong cảnh lưu đầy ở Sibir thời Sa hoàng.
Những bài thơ của Nguyễn Chí Thiện không hợp với tạng tôi. Thơ của anh trần trụi, bỗ bã, nói thẳng vào vấn đề, mà tôi thì lại thích thơ gợi, thơ kích thích trí tưởng tượng, thứ thơ cho phép người đọc được tham gia thêm vào cái đã có sẵn trong bài thơ, câu thơ, một chút tâm hồn mình. Nhưng cũng có bài của anh đọng lại trong trí nhớ:
Không có chỗ trên con tàu Trái đất
Tôi là người hành khách bơ vơ.
Lỡ chuyến, lầm ga, mất cắp, bây giờ
Tôi ủ rũ trên sàn toa lạnh ngắt,
Cái toa đen dành cho súc vật.
hoặc:
Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương…
Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng
Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương…
Cao lênh khênh giữa các bạn tù, Nguyễn Chí Thiện nhìn đời qua cặp kính trắng mà đàng sau chúng là cặp mắt lồi ngơ ngác. Bộ quần áo trại phát, dự tính cho người tù có chiều cao trung bình, quá cũn cỡn trên người anh, làm thò đôi cẳng chân khẳng khiu ra ngoài. Thiện không bao giờ đi dép, tứ thời anh diện đôi guốc mộc tự đẽo, làm anh cao thêm mấy phân nữa. Thiện không phải là người tù bướng bỉnh, chống đối bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào. Anh còn thuộc loại hiền lành nữa là khác. Có vẻ lúc nào anh cũng ngơ ngác, cũng ngạc nhiên trước cuộc đời bụi bặm và uế tạp. Anh ghê tởm nó, nhưng cũng không có ý định dọn dẹp nó hay sửa chữa nó. Nói tóm lại, anh chẳng gây sự với cán bộ trại giam. Nhưng đó là một người tù không thể bẻ gãy. Tinh thần bất khuất trong những người tù không biểu hiện ở thái độ ngang tàng mà ở thái độ bất cần, thái độ khinh mạn.
Có lần đi lao động về tôi thấy Nguyễn Chí Thiện đã bị khóa cánh tiên ngoài cổng trại. Trông anh như bộ xương người trong giờ học cách trí – lồng ngực ưỡn ra nhìn rõ từng rẻ sườn. Nhìn thấy tôi Thiện mặt đỏ gay còn cố mỉm cười thay lời chào.
Trình Hàng Vải thì thào với tôi:
- Chúng nó bắt được mấy bài thơ của Thiện.
Những người tù số lẻ lặng lẽ đi ngang bạn mình đang bị hành hạ. Mặt họ đanh lại. Tôi nghĩ: chỉ cần nhìn thấy cảnh này chứ không cần nếm nó người dân cũng khó mà yêu được chế độ.
Kiều Duy Vĩnh đánh giá cao cái ngoại lệ mà người tù chống cộng đến cùng dành cho tôi:
- Thiện nó tin anh lắm đấy! Mà cũng trọng anh lắm đấy! Nếu không nó chẳng đọc thơ cho anh nghe đâu.
Tôi hiểu Kiều Duy Vĩnh quý tôi. Trong cái sự trọng tôi của Nguyễn Chí Thiện có ảnh hưởng tình cảm của Kiều Duy Vĩnh dành cho tôi. Nhưng không có Kiều Duy Vĩnh thì Nguyễn Chí Thiện cũng vẫn tin tôi không làm ăng-ten. Những người tù trí thức khác cũng tin như vậy.
Nguyễn Chí Thiện có trọng tôi hay không là chuyện không quan trọng. Trong tù tôi học được cách sống tự tại, mặc kệ người ta nghĩ về mình thế nào. Tôi mãi mãi vẫn là tôi, không phụ thuộc vào sự đánh giá của bất kỳ ai.
Trích từ “Đêm giữa ban ngày”/ Facebook Vũ Thư Hiên
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/66422
=====================================================================
Vũ Thư Hiên: Người bạn tù thân thiết của tôi, anh Nguyễn Chí Thiện đã trút hơi thở cuối cùng lúc 7 g 17 phút sáng ngày 2 tháng 10 – 2012, ở xa quê hương mà từng phút từng giây anh hướng về. Chúng tôi có với nhau nhiều kỷ niệm, của đời tù cũng như của cuộc sống ngoài đất nước. Anh là nhà thơ bất khuất của “phe nước mắt” (chữ của nhà thơ Dương Tường). Khóc bạn, tôi chia sẻ vài dòng hồi ức về anh để các bạn hiểu thêm về con người đáng kính, và hơn nữa, đáng yêu này.
—————————————-
Cán bộ giáo dục trại tên Bưởi cũng nương nhẹ đối với những người cộng sản Trung Quốc thuộc “vụ Quảng Ninh”.
- Họ giữ tư cách đàng hoàng lắm – Bưởi nhận xét – Đáng phục.
- Căn cứ tuổi họ thì đây là những người đã tham gia giải phóng Trung Quốc. – tôi nói – Vào thời gian đó chỉ những người có tư cách mới lãnh đạo được quần chúng.
Những người cộng sản này đến Việt Nam bằng con đường khá vòng vèo. Khoảng đầu thập niên 60, tôi không còn nhớ rõ năm nào, vùng Hoa Nam bị lâm vào một nạn đói cực kỳ khủng khiếp. Người chết đầy đường. Dân đói ùn ùn kéo đi Hồng Kông, nghe nói cả triệu người. Chính quyền Trung Hoa lục địa không tài nào ngăn nổi một cuộc di dân ồ ạt như thế. Nó không thể xảy ra nếu không được những người dày kinh nghiệm đấu tranh lãnh đạo. Chính những người cộng sản địa phương đã tổ chức cuộc chạy trốn ấy. Chính quyền Hồng Kông giam dân di tản lại rồi báo cho Bắc Kinh biết. Bắc Kinh tuyên bố: “Không hề có chuyện các công dân nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bỏ chạy tới Hồng Kông”. Đảo quốc Đài Loan giang tay đón những đứa con đói khát của tổ quốc, nhưng không phải chỉ vì tình thương, mà còn vì những mục đích chính trị – họ nghĩ tới những đội biệt kích rồi đây sẽ được phái về “giải phóng tổ quốc”. Những người cộng sản được lọc ra, được huấn luyện, rồi được bỏ lên những con thuyền buồm, nhằm hướng Hoa lục. Không hiểu la bàn hỏng, thuyền trưởng tồi, hay vì những trục trặc nào khác, nhưng họ lại cập bến Quảng Ninh sau một cơn bão, tưởng mình đã ở trên đất đai của tổ tiên.
Tôi hỏi một cựu bí thư huyện ủy (huyện của Trung Quốc to bằng tỉnh của ta):
- Anh thất vọng về chủ nghĩa cộng sản, và chống lại nó?
- Đâu có. Tôi vẫn thích chủ nghĩa cộng sản. Tôi vẫn tin chỉ có nó mới mang lại cho chúng tôi công bằng và hạnh phúc.
- Thế mà anh đã ra đi khỏi nơi đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Tại sao?
- Mao Trạch Đông không phải cộng sản. Tôi có trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo. Họ đói. Đã có những người chết. Chủ nghĩa cộng sản thì xa. Nồi cơm gần hơn.
Anh Nguyễn Chí Thiện, một tù nhân có thâm niên đáng kính, một nhà thơ được ưu ái trong tầng lớp trí thức của xã hội tù, bĩu môi:
- Các anh nói thối bỏ mẹ: “trách nhiệm trước dân chúng mà tôi lãnh đạo”. Dân chúng chẳng cần tới sự lãnh đạo của các anh. Vì các anh dân mới đói. Vì các anh dân Trung Quốc mới thân tàn ma dại.
Ông bí thư huyện, anh hùng lao động nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, nhìn Thiện, nín lặng.
Những người cộng sản Trung Quốc sống trong nhà tù Việt Nam như khách. Họ chỉ quan tâm tới tình hình Việt Nam trong chừng mực những gì liên quan tới họ. Ngoại giả, họ mặc. Là tù đấy, nhưng họ không quỵ lụy cán bộ trại, cũng không hòa nhập với cộng đồng tù Việt. Cán bộ có quát nạt họ cũng giả vờ điếc, không nghe thấy, không hiểu. Thỉnh thoảng hứng lên họ hát đồng ca những bài hát cách mạng của Trung Quốc, như bài “Xì lai!” mà chúng tôi cũng biết. Hoặc “Quốc tế ca”. Nhưng không bao giờ họ hát bài “Đông phương hồng” . mặt trời lên. Trung Hoa chúng ta có Mao Trạch Đông!”.
- Nạn đói là kinh niên đối với một nước như Trung Quốc. – tôi nói với Thiện – Không phải những người cộng sản là nguyên nhân duy nhất. Thời Tưởng, tôi biết, nạn đói còn xảy ra nhiều hơn. Hãy nhớ lại bọn Tàu phù sang ta năm 1945. Không phải chỉ đói, mà còn man rợ nữa…
Thiện trợn mắt nhìn tôi. Anh không thích một câu đế ngang xương như thế. Với anh, cộng sản là xấu, là tồi tệ, là kinh tởm, chấm hết. Không một cái gì của cộng sản có thể là tốt. Cái cách tôi đánh đồng loạt chính quyền Thưởng Giới Thạch với chính quyền Mao Trạch Đông như thế là không được. Không hiểu sao anh vẫn chấp nhận tôi như một ngoại lệ.
Nguyễn Chí Thiện làm nhiều thơ. Chiều chiều chúng tôi tụ họp nhau ở sau trại ngắm hoàng hôn, uống trà và nghe thơ. Nhìn cảnh những Kiều Duy Vĩnh, Nguyễn Chí Thiện, Lê Trình, Văn Thợ Mộc, Phổ Gián điệp, Tôn Thất Tần… kẻ đứng người ngồi trong ráng chiều bàng bạc của một vùng rừng núi âm u bắt đầu ngả sang màu tím, tôi nhớ tới bức tranh nổi tiếng Những Người Tháng Chạp trong cảnh lưu đầy ở Sibir thời Sa hoàng.
Những bài thơ của Nguyễn Chí Thiện không hợp với tạng tôi. Thơ của anh trần trụi, bỗ bã, nói thẳng vào vấn đề, mà tôi thì lại thích thơ gợi, thơ kích thích trí tưởng tượng, thứ thơ cho phép người đọc được tham gia thêm vào cái đã có sẵn trong bài thơ, câu thơ, một chút tâm hồn mình. Nhưng cũng có bài của anh đọng lại trong trí nhớ:
Không có chỗ trên con tàu Trái đất
Tôi là người hành khách bơ vơ.
Lỡ chuyến, lầm ga, mất cắp, bây giờ
Tôi ủ rũ trên sàn toa lạnh ngắt,
Cái toa đen dành cho súc vật.
hoặc:
Người xưa ngẩng đầu nhìn trăng sáng
Rồi cúi đầu thương nhớ cố hương…
Còn tôi đây ngẩng đầu nhìn nhện chăng tơ vướng
Rồi cúi đầu nhặt hạt cơm vương…
Cao lênh khênh giữa các bạn tù, Nguyễn Chí Thiện nhìn đời qua cặp kính trắng mà đàng sau chúng là cặp mắt lồi ngơ ngác. Bộ quần áo trại phát, dự tính cho người tù có chiều cao trung bình, quá cũn cỡn trên người anh, làm thò đôi cẳng chân khẳng khiu ra ngoài. Thiện không bao giờ đi dép, tứ thời anh diện đôi guốc mộc tự đẽo, làm anh cao thêm mấy phân nữa. Thiện không phải là người tù bướng bỉnh, chống đối bất cứ ai, vào bất cứ lúc nào. Anh còn thuộc loại hiền lành nữa là khác. Có vẻ lúc nào anh cũng ngơ ngác, cũng ngạc nhiên trước cuộc đời bụi bặm và uế tạp. Anh ghê tởm nó, nhưng cũng không có ý định dọn dẹp nó hay sửa chữa nó. Nói tóm lại, anh chẳng gây sự với cán bộ trại giam. Nhưng đó là một người tù không thể bẻ gãy. Tinh thần bất khuất trong những người tù không biểu hiện ở thái độ ngang tàng mà ở thái độ bất cần, thái độ khinh mạn.
Có lần đi lao động về tôi thấy Nguyễn Chí Thiện đã bị khóa cánh tiên ngoài cổng trại. Trông anh như bộ xương người trong giờ học cách trí – lồng ngực ưỡn ra nhìn rõ từng rẻ sườn. Nhìn thấy tôi Thiện mặt đỏ gay còn cố mỉm cười thay lời chào.
Trình Hàng Vải thì thào với tôi:
- Chúng nó bắt được mấy bài thơ của Thiện.
Những người tù số lẻ lặng lẽ đi ngang bạn mình đang bị hành hạ. Mặt họ đanh lại. Tôi nghĩ: chỉ cần nhìn thấy cảnh này chứ không cần nếm nó người dân cũng khó mà yêu được chế độ.
Kiều Duy Vĩnh đánh giá cao cái ngoại lệ mà người tù chống cộng đến cùng dành cho tôi:
- Thiện nó tin anh lắm đấy! Mà cũng trọng anh lắm đấy! Nếu không nó chẳng đọc thơ cho anh nghe đâu.
Tôi hiểu Kiều Duy Vĩnh quý tôi. Trong cái sự trọng tôi của Nguyễn Chí Thiện có ảnh hưởng tình cảm của Kiều Duy Vĩnh dành cho tôi. Nhưng không có Kiều Duy Vĩnh thì Nguyễn Chí Thiện cũng vẫn tin tôi không làm ăng-ten. Những người tù trí thức khác cũng tin như vậy.
Nguyễn Chí Thiện có trọng tôi hay không là chuyện không quan trọng. Trong tù tôi học được cách sống tự tại, mặc kệ người ta nghĩ về mình thế nào. Tôi mãi mãi vẫn là tôi, không phụ thuộc vào sự đánh giá của bất kỳ ai.
Trích từ “Đêm giữa ban ngày”/ Facebook Vũ Thư Hiên
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/66422
=====================================================================
Các tác phẩm của Nguyễn Chí Thiện
|
Tổng
số có 11 tác phẩm. Sắp xếp theo
Con
Người Không Thể Tưởng
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Con người không thể tưởng hôm nay.
Thế kỷ hai mươi mảnh đất này.
Củ sắn thành củ sâm, đảng lấy.
Thiên đường hay địa ngục đương
xây.
Đau ốm nằm không thuộc một bầy.
Nằm dài vêu mõm, rũ chân tay.
Thâm, vàng, xanh bủng, run run...
|
Đảng
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Đảng dìu dắt thiếu nhi thành trộm cướp.
Giải phóng đàn bà thành đĩ, thành
trâu.
Giúp người già bằng bắt bớ rể dâu.
Và cải tiến dân sinh thành xác
mướp.
Đảng thực chất chỉ là Đảng cướp.
Dựng triều đình mông muội giữa
Văn...
|
Đảng Như Hòn Đá
Tảng
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Đảng như hòn đá tảng
Đè lên vận mạng quê hương
Muốn sống trong hòa hợp yêu thương
Việc trước nhất phải tìm phương
hất xuống !
|
Đất Này
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Đất này chẳng có niềm vui.
Ngày quệt mồ hôi, đêm chùi lệ ướt.
Trại lính, trại tù người đi không
ngớt.
Người về thưa thớt dăm ba...
Trẻ con đói xanh như tàu lá.
Cày bừa phụ nữ đảm đang.
Chốn thôn trang vắng bóng trai...
|
Đau Đớn Lắm
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Đau đớn lắm cái lầm to thế kỷ.
Sử sách ngàn đời còn mãi khắc ghi
!
Mấy chục năm trời xương máu đổ đi.
Thử hỏi dân đen thu được những gì
?
Ngoài một số từ lừa mị kẻ ngu si!
Người công nhân trước gọi cu li.
Người lính cũ...
|
Khi Muối Chát
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Khi muối chát đưa vào mồm thấy ngọt
Và khi lá sắn hóa bùi, thơm
Cũng là khi tôi lấy máu lẫn đờm
Quết vào mặt Mác-Lê bằng mọi giá
Kể cả giá treo cổ (1976)
Nguyễn Chí Thiện
|
Lãnh Tụ
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Lãnh tụ béo nục Dân đen gầy rục !
Lao động hùng hục
Họp hành liên tục
Đói ăn khắc phục
Kêu ca tống ngục !
Cộng sản đánh gục
Đời mới hết nhục ! (1962)
Nguyễn Chí Thiện
|
Mỗi Lầm Lỡ
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Mỗi lầm lỡ, một mảnh lòng rạn vỡ.
Song thời gian hàn gắn được đôi
phần.
Riêng cái lầm nơi đất đỏ dung
thân.
Thời gian khoét to và sâu, bất
tận!
Cuộc đời tôi có nhiều lầm lẫn.
Lầm nơi, lầm lúc, lầm người.
Nhưng cái lầm to...
|
Thơ Của Tôi
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Thơ của tôi không phải là thơ.
Mà là tiếng cuộc đời nức nở.
Tiếng cửa nhà giam ngòm đen khép
mở.
Tiếng khò khè hai lá phổi hang sơ.
Tiếng đất vùi đổ xuống lấp niềm
mơ.
Tiếng khai quật cuốc đào lên nỗi
nhớ.
Tiếng răng lạnh...
|
Tôi Tin Chắc Một
Điều
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện Tôi tin chắc một điều.
Một điều tất yếu.
Là ngày mai mặt trời sẽ chiếu.
Tôi lại nghĩ một điều.
Một điều sâu thẳm.
Là đêm tàn Cộng Sản tối tăm.
Có thể kéo dài hàng mấy mươi năm.
Và như thế sẽ buồn lắm lắm.
Cho kiếp người sống...
|
Từ Tư Tưởng
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện
Từ tư tưởng bước sang hành động.
Tác giả: Nguyễn Chí Thiện
Từ tư tưởng bước sang hành động.
Phải có cầu
ngôn ngữ giao thông.
Trên giòng
sông chuyên chính mênh mông.
Đừng nghĩ
chuyện xây cầu bắc cống !
Song ngôn ngữ
ngày đêm vẫn sống.
Ấm thầm đưa
tư tưởng sang sông.
Qua muôn
trùng...
nguồn:http://poem.tkaraoke.com/10212/Nguyen_Chi_Thien/
=====================================================================
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và tập thơ Hoa Địa Ngục
Ông lấy chất liệu cho thơ từ những đoạn đời khổ ải, những mảnh đời tan nát, từ những ngày những tháng và những năm trong ngục tối, trong cùm kẹp, trong đói khát hận thù không phải chỉ của ông, mà của cả những bạn tù đồng cảnh ngộ.
Ông tâm sự thế này về sự hình thành của thơ:
Nghe câu chuyện này
Tải xuống - download
Triệu cuộc đời khổ oan,
Nát tan trăm ngàn mảnh
Chắp lại mới hóa thành
Mấy vần thơ ai oán
Nàng thơ của ông không yêu kiều diễm lệ, mà là “một nàng thơ khốn khổ, nhục nhằn,” đói khát, hèn mọn:
Nàng thơ của tôi khát thèm rau muống
Mộng bát cơm đầy, quý đói hay ma?
Nhưng chính cái đơn sơ, giản dị mà lại không tầm thường của thơ Nguyễn Chí Thiện đã khiến thơ ông đi thẳng vào tâm hồn người đọc và được độc giả khắp nơi đón nhận như một ngùơi thân. Không rào đón, không lễ nghi, không cần giới thiệu.
Trúơc khi tên Nguyễn Chí Thiện được biết đến, ngừơi Việt hải ngoại đã xúc động với một tập thơ không tên, không tác giả, được phổ biến dưới nhan đề được lấy từ một câu thơ trong tập, là “Tiếng Vọng từ đáy vực,” rồi “Chúc thư của một người Việt Nam.”
Lúc đó là tháng chín năm 1980. Mặc dù không biết tên tác giả, nhưng những tâm tình hực lửa lao tù đã nhanh chóng được chắp cánh bay khắp địa cầu nhờ sự tiếp tay phổ biến của các nhà báo, dịch giả, nhạc sĩ cũng như những người quan tâm đến tình hình nhân quyền tại Việt nam mà tập thơ là một bản cáo trạng viết bằng máu và nước mắt.
Bốn năm sau, tập thơ mới mang tên đích thực của nó là Hoa Địa Ngục với tác giả đích thực là Nguyễn Chí Thiện, dựa trên một bức thư tiết lộ của giáo sư P.J. Honey ở Anh quốc, bởi chính Nguyễn Chí Thiện đã đem tập thơ vào toà đại sứ Anh ở Hà Nội với bức thư ngắn mở đầu nguyên văn như sau:
“Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm công sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Đó là kết quả 20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm.”
Ngay sau khi đưa được tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội, tức là đã chắp cánh được cho tâm tình của mình đi xa, nhà thơ bị đưa thẳng vào xà lim vừa lúc vừa bước chân ra khỏi sứ quán. Chân bước vào tù nhưng lòng hân hoan mở hội, Nguyễn Chí Thiện đã tả lại tâm tình của mình như sau: (Xin nghe trong phần âm thanh bên trên)
Những lời quý thính giả vừa nghe được chính nhà thơ đọc cuối tuần qua tại Virginia, nhân dịp Tổ hợp xuất bản miền đông Hoa kỳ tổ chức buổi ra mắt “Hoa địa Ngục toàn tập” gồm hơn 700 bài thơ, cùng nhiều hình ảnh và tư liệu quý giá của một con người lấy trái tim, khối óc, máu, mồ hôi và sự đau đớn của chính mình để kết tinh thành thơ.
Buổi ra mắt còn nhằm trả lời cho một thắc mắc không biết xuất phát từ đâu, nhưng đã loan truyền trong dư luận đồng bào hải ngoại, như lời đại diện nhà xuất bản, nhà văn Trương Anh Thụy cho biết như sau: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)
Trả lời cho những thắc mắc ấy, ngoài những hình ảnh và tư liệu được trưng bày, nhà thơ còn tuyên bố sẵn sàng làm các cuộc xét nghiệm để chứng minh chính mình là người đã đưa tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội hồi tháng sáu năm 1980.
Xét nghiệm là chuyện tương lai, không biết có cần làm hay không, nhưng trước mắt, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã chinh phục người nghe bằng chuyện thực xẩy ra trong những đoạn đời tù mà ông sử dụng như nguyên liệu thô để đưa vào thơ, và nhân thế giải thích ý nghĩa của những lời thơ có khi rất giản dị, nhưng mang trong nó những kinh nghiệm vô cùng đớn đau khắc nghiệt.
Trước hết, ông cho biết lý do tại sao phải làm thơ. Thơ là phản ánh những kinh nghiệm đoạ đầy của tác giả, nên đau khổ chính là cái nôi của thơ. Và bởi nhà thơ coi thơ như một tiếng nói phản kháng, nên thơ của ông không cao siêu, cũng không thơ mộng.
Nếu Phùng Quán từng sống trong đau khổ, và phải vịn câu thơ mà đứng dậy, thì Nguyễn Chí Thiện cũng nhờ thơ mà thóat được sự tuyệt vọng bởi, như một quy luật, khi sự tuyệt vọng đã được nói lên thành lời, thì nó đã thăng hoa để mang cứu rỗi cho chính ngừơi tuyệt vọng:
Hơn 700 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện quả nhiên là tiếng gọi từ đáy vực, là hoa của địa ngục và là chúc thư của một con người Việt Nam đau khổ.
Nhà thơ Nguyễn Chí Thiện và tập thơ Hoa Địa Ngục
Nguyễn An, phóng viên đài RFA
2006-06-25
Tên tuổi Nguyễn Chí Thiện đã được công chúng biết đến như một nhà thơ của lao tù.Ông tâm sự thế này về sự hình thành của thơ:
Nghe câu chuyện này
Tải xuống - download
Triệu cuộc đời khổ oan,
Nát tan trăm ngàn mảnh
Chắp lại mới hóa thành
Mấy vần thơ ai oán
Nàng thơ của ông không yêu kiều diễm lệ, mà là “một nàng thơ khốn khổ, nhục nhằn,” đói khát, hèn mọn:
Nàng thơ của tôi khát thèm rau muống
Mộng bát cơm đầy, quý đói hay ma?
Nhưng chính cái đơn sơ, giản dị mà lại không tầm thường của thơ Nguyễn Chí Thiện đã khiến thơ ông đi thẳng vào tâm hồn người đọc và được độc giả khắp nơi đón nhận như một ngùơi thân. Không rào đón, không lễ nghi, không cần giới thiệu.
Trúơc khi tên Nguyễn Chí Thiện được biết đến, ngừơi Việt hải ngoại đã xúc động với một tập thơ không tên, không tác giả, được phổ biến dưới nhan đề được lấy từ một câu thơ trong tập, là “Tiếng Vọng từ đáy vực,” rồi “Chúc thư của một người Việt Nam.”
Bốn năm sau, tập thơ mới mang tên đích thực của nó là Hoa Địa Ngục với tác giả đích thực là Nguyễn Chí Thiện, dựa trên một bức thư tiết lộ của giáo sư P.J. Honey ở Anh quốc, bởi chính Nguyễn Chí Thiện đã đem tập thơ vào toà đại sứ Anh ở Hà Nội với bức thư ngắn mở đầu nguyên văn như sau:
“Nhân danh hàng triệu nạn nhân vô tội của chế độ độc tài, đã ngã gục hay còn đang phải chịu đựng một cái chết dần mòn và đau đớn trong gông cùm công sản, tôi xin ông vui lòng cho phổ biến những bài thơ này trên mảnh đất tự do của quý quốc. Đó là kết quả 20 năm làm việc của tôi, phần lớn được sáng tác trong những năm tôi bị giam cầm.”
Ngay sau khi đưa được tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội, tức là đã chắp cánh được cho tâm tình của mình đi xa, nhà thơ bị đưa thẳng vào xà lim vừa lúc vừa bước chân ra khỏi sứ quán. Chân bước vào tù nhưng lòng hân hoan mở hội, Nguyễn Chí Thiện đã tả lại tâm tình của mình như sau: (Xin nghe trong phần âm thanh bên trên)
Buổi ra mắt còn nhằm trả lời cho một thắc mắc không biết xuất phát từ đâu, nhưng đã loan truyền trong dư luận đồng bào hải ngoại, như lời đại diện nhà xuất bản, nhà văn Trương Anh Thụy cho biết như sau: (Xin theo dõi trong phần âm thanh bên trên)
Trả lời cho những thắc mắc ấy, ngoài những hình ảnh và tư liệu được trưng bày, nhà thơ còn tuyên bố sẵn sàng làm các cuộc xét nghiệm để chứng minh chính mình là người đã đưa tập thơ vào toà đại sứ Anh tại Hà Nội hồi tháng sáu năm 1980.
Xét nghiệm là chuyện tương lai, không biết có cần làm hay không, nhưng trước mắt, nhà thơ Nguyễn Chí Thiện đã chinh phục người nghe bằng chuyện thực xẩy ra trong những đoạn đời tù mà ông sử dụng như nguyên liệu thô để đưa vào thơ, và nhân thế giải thích ý nghĩa của những lời thơ có khi rất giản dị, nhưng mang trong nó những kinh nghiệm vô cùng đớn đau khắc nghiệt.
Trước hết, ông cho biết lý do tại sao phải làm thơ. Thơ là phản ánh những kinh nghiệm đoạ đầy của tác giả, nên đau khổ chính là cái nôi của thơ. Và bởi nhà thơ coi thơ như một tiếng nói phản kháng, nên thơ của ông không cao siêu, cũng không thơ mộng.
Nếu Phùng Quán từng sống trong đau khổ, và phải vịn câu thơ mà đứng dậy, thì Nguyễn Chí Thiện cũng nhờ thơ mà thóat được sự tuyệt vọng bởi, như một quy luật, khi sự tuyệt vọng đã được nói lên thành lời, thì nó đã thăng hoa để mang cứu rỗi cho chính ngừơi tuyệt vọng:
Hơn 700 bài thơ của Nguyễn Chí Thiện quả nhiên là tiếng gọi từ đáy vực, là hoa của địa ngục và là chúc thư của một con người Việt Nam đau khổ.
© 2006 Radio Free Asia
nguồn:http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/PoetNguyenChiThien_NAn-20060625.html-09142007065711.html
======================================================================
Hai tập thơ tù Nguyễn Chí Thiện & Hồ Chí Minh
Hai tập thơ tù Nguyễn Chí Thiện & Hồ Chí Minh
Phan Thanh Tâm (Danlambao)
- Từ tù lớn đến tù nhỏ, từ tù thời Tây cho đến tù thời nay,Việt Nam là
nước có số lượng văn thơ tù ngục nhiều nhất thế giới. Đố ai đếm được
nước mình có bao nhiêu thơ tù thì cũng như đố ai biết lúa mấy cây, biết
mây mấy từng hay đố ai nằm ngủ mà không mơ vậy. Tuy thế, hầu như mọi
người trong chúng ta đều nghe nói tới hai tập thơ Hoa Địa Ngục của Nguyễn Chí Thiện và Nhật Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh.
Hoa Địa Ngục với “những vần thơ từ đau khổ bao la” xuất hiện lần đầu tiên hồi tháng 9/80 một cách khá ly kì, do Thời Tập ở Virginia in ra, không tên tác giả, không đầu đề, “song sức phá vạn lần hơn trái phá” của tập thơ đã gây xôn xao trong dư luận. Gần hai năm sau, người ta mới biết tác giả là Nguyễn Chí Thiện,
một cái tên lạ hoắc, bị chế độ của Hồ Chí Minh, chủ tịch nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hoà, tác giả tập thơ Nhật Ký Trong Tù, đày đến tầng cuối
địa ngục trần gian, khiến ông phải than rằng: “Tôi sợ bác Hồ vạn lần hơn bác Hổ.”
Nhật Ký Trong Tù được công bố đầu tiên năm 1960, sau vụ Nhân văn
Giai Phẩm; năm 1990 mới cho xuất bản toàn bộ gồm 133 bài. Các bộ máy
công quyền Việt Nam đã vận dụng mọi phương tiện để năm châu biết Hồ Chí
Minh, chẳng những là một nhà cách mạng mà còn là một nhà thơ, một nhà
văn hóa nữa. Khác với Hoa Địa Ngục, tập thơ của họ Hồ viết bằng chữ Hán
về tù ngục bên Tàu, từ 29-8-1943 đến 10-9-1943, thời Tưởng Giới Thạch, được dịch ra tiếng Việt để giảng dạy ở các trường trong nước.
Có thề nói sách nào viết về Hồ Chí Minh cũng đề cập tới Nhật Ký Trong
Tù. Nó như đứa con cưng được cung phụng đủ điều. Viện Văn Học trong cuốn
Suy Nghĩ Mới Về Nhật Ký Trong Tù, với sự cộng tác của 21 giáo sư và nhà nghiên cứu chuyên ngành cho biết “Nhật
Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh đã được tìm hiểu, nghiên cứu hầu như về tất
cả mọi phương diện và công bố dưới nhiều hình thức khác nhau: khảo
luận, giảng dạy, bình thơ...” Tác phẩm này được dịch in ở nhiều nước
trên thế giới như Liên sô (cũ), Pháp, Balan (cũ), Hungari (cũ), Trung
Quốc, Tiệp Khắc (cũ), Mỹ...
Trái lại, Hoa Địa Ngục “tưới bằng xương máu thịt” trong các nhà
tù miền Bắc thì lại là một tai họa, lại có cơ bị chôn vùi theo người cưu
mang ra nó. Nguyễn Chí Thiện đã phải mất ba ngày moi trong bộ nhớ ở đầu
mình, viết lên giấy 400 bài thơ để đưa đứa con tinh thần đào thoát.
Ngày 16/7/1979, ông dứt khoát xộc vào Toà Đại Sứ Anh, xin tị nạn nhưng
bị từ chối. Ông trao cho ho tập thơ và ba tấm hình. Ông khẩn khoản mong
họ cho Hoa Địa Ngục phổ biến ở các nước tự do.
Bước ra ông bị Cảnh sát bắt đưa thẳng vô Hoả Lò, được gọi là “Hanoi
Hilton”, nơi giam giữ phi công Mỹ bị hỏa tiển Nga bắn hạ. Đây là lần thứ
ba ông sống với “rận, chấy, kẹp cùm, thối khai, dớt dãi”. Lần thứ nhất ông bị bắt năm 1961 sau khi dạy Sử, thế cho một người bạn; vì lời nói “nước Nhật đầu hàng bởi Mỹ thả hai quả bom nguyên tử ở Hiroshima và Nagasaki” chớ không như cuốn Cách Mạng Tháng Tám năm 1945 của nhà sách Sự Thật viết “quân Nhật đầu hàng vì thua quân Nga ở Manchuria.”
Lần thứ hai bị tù, năm 1966, vì công an gán ông là tác giả các bài thơ
phản động, truyền miệng trong dân chúng ở Hải Phòng và Hà Nội. Ông hay
nhẩm thơ trong đầu vì ở tù, giấy bút không có và bị khám trại thường
xuyên. Qua lời tựa tập thơ Hoa Địa Ngục do Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông
Hoa Kỳ in năm 2006, Nguyễn Chí Thiện thố lộ, “Có những ngày mưa rét, vừa nhẩm đọc, vừa ứa nước mắt, lưng tựa vào tường, người run rẩy.” Để nhớ, ngày nào ông cũng đọc thơ đã làm, “làu làu như một cuộn băng.”
Còn Hồ Chí Minh nếm mùi tù mấy lần? Lần đầu gần hai năm từ 6/1931 đến
1/1933 ở nhà tù Trung Ương Hồng Kông và nhà tù Victoria vì Tống Văn Sơ -
tên Hồ Chí Minh bấy giờ - hoạt động cho Cọng Sản quốc tế, bị giam chung
với ông già họ Lý “độ 60 tuổi, hòa nhã, mưu trí, và gan góc, giỏi chữ Trung Quốc, làm được thơ.”
Lần thứ hai ở huyện Đức Bảo tỉnh Quảng Tây ngày 27/8/1942. Ông rời
hang Pác Bó – mà Nguyễn Chí Thiện gọi là hang Ác Thú – ngày 13/8/1942
trở lại Trung Quốc nhằm tìm sự hỗ trợ cho lực lượng của ông từ các nước
đồng minh chống phát xít với cái tên mới là Hồ Chí Minh.
Theo sách báo Cộng sản, sau nửa tháng băng rừng, Hồ Chí Minh bị bắt ở
Túc Vinh ngày 27/8/1942; bị giải giam qua 30 nhà tù thuộc13 huyện tỉnh
Quảng Tây. Nhờ sự can thiệp, vận động từ đảng bộ Cọng sản và Liên Xô
cùng các nhân vật trong chính giới Trung quốc ông được thả ngày
10/9/1943. Hồi ký của nhà phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh cho biết, “Hồ
Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tầu phát hiện có rất
nhiều đôla. Nghe nói hồi ở Pác Bó, có người đã thấy ông phơi đôla cho
khỏi ẩm mốc.”
Con vua thì được làm vua. Thơ vua thì buộc cả nước vỗ tay reo hò khen
hay. Đó là thơ tù của Chủ tịch nhà nước dù sinh ở Tàu, viết tiếng Hán.
Thơ tù “của người dân đen, của lớp người sống cực nhọc nhất, thê thảm nhất” ở trong nước phải trốn chui trốn nhủi, phải cao chạy xa bay. Hoa Địa Ngục ra khỏi Việt Nam, vọt xa và cao như rồng gặp mây. Nó ghi
chép cảnh thực, tình thực, của một giai đoạn lịch sử đớn đau tột độ,
không cường điệu, khuếch đại, bôi đen; lấy chất liệu từ muôn ngàn cuộc
đời bị tan nát, chôn vùi.
Uy danh của Hồ Chí Minh đã tỏa sáng cho Nhật Ký Trong Tù. Trái lại, Hoa
Địa Ngục thì mang tác giả ra khỏi cuộc đời đen thui. Giờ đây Nguyễn Chí
Thiện là một trong những tên tuổi Việt Nam lẫy lừng nhất thế giới. Trước
đó, tuy chưa biết của cha căn chú kiết nào nhưng báo nói, báo in các
nơi đã đua nhau phổ biến “tiếng của cuộc đời nức nở” trong tập
thơ. Hơn hẳn Nhật Ký Trong Tù, chưa có nhạc sĩ người Việt nào phổ nhạc;
nhiều bài trong Hoa Địa Ngục đã được nhạc sĩ Phạm Duy, Phan Văn Hưng,
Trần Lãng Minh, Nguyễn Văn Thành (Dân Chủ Ca) đưa vào âm nhạc. Một số
bài có cả lời Anh nữa.
Giải Nobel Về Văn Chương
Ba lần được đề cử lãnh giải Nobel về Văn chương; vào tự điển Who’s Who
in Twentieth-century World Poetry; hội viên danh dự của nhiều trung tâm
văn bút Pháp, Hoà Lan…; được nhiều giải thưởng: Gỉai thưởng thơ
Rotterdam (1984), Freedom to Write Prize của Trung tâm văn bút Hoa kỳ,và
ba năm làm khách danh dự của International Parliament of Writers; dịch
ra tiếng Anh, Pháp, Đức, Tiệp, Hòa lan, Trung Hoa, Đại hàn … bởi các
dịch giả nổi tiếng như: Huỳnh Sanh Thông, Nguyễn Ngọc Bích, Ỷ Lan, Võ
Văn Ái, Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Ngọc Phách, Bùi Hạnh
Nghi, Bùi Xuân Quang, Nguyễn Ngọc Quỳ, Jachym Topol, Dominique Delaunay…
Ngoài ra, nhân Nghị Hội Quốc tế các Nhà văn (Parlement des Ecrivains) ở
Âu Châu bảo trợ để giúp ông phục hồi sức khỏe ở St-Lô gần Normandie
(Pháp) và nghiên cứu, diễn thuyết từ 1999 đến đầu tháng 6/2001, ông đã
hoàn thành tập truyện Hỏa Lò, gồm sáu truyện ngắn, một truyện vừa. Đôi
khi trong cái rủi nằm phục một điều hay. Nhờ bị tống vào “Hỏa Lò gần Trung Ương nhất” nơi “con người gần con vật nhất,”
nền văn học Việt Nam có thêm một tác phẩm văn xuôi nói về một địa ngục
có thật. Sống tổng cọng 27 năm trong tù, Nguyễn Chí Thiện đích thực là
một chứng nhân của thời đại mả tù và mả lính.
Trong www.vietnamlit.org của
G.S Dan Duffy bằng tiếng Anh, mục tự truyện (autobiography), với sự
nhuận bút của Jean Libby, một nhà hoạt động xã hội, tác giả Hoa Địa Ngục
kể rõ việc xộc vào toà Đại sứ Anh và các lần bị tù cùng thân thế của
mình. Nguyễn Chí Thiện sinh ở Hà nội ngày 27/2/39, thành công dân Mỹ
ngày 20/10/04. Qua Mỹ nhờ sự vận động của Đại tá Noboru Masuoka và các
tổ chức nhân đạo. Ông có người anh, ông Nguyễn Công Giân, cựu trung tá
trong QLVNCH. Ông viết, quả là nhờ số mệnh và sống được là một phép lạ.
Đứa con tinh thần mà ông đưa đào thoát ra nước ngoài ở Toà Đại sứ Anh,
gần 30 năm sau đã về lại với người viết ra nó. Trên nhật báo Người Việt,
Nguyễn Chí Thiện cho biết khoảng tháng Sáu năm 2008, ông có nhận từ
Giáo Sư Lê Mạnh Hùng nguyên bản tập thơ Hoa Ðịa Ngục mà bà vợ của Giáo
Sư Patrick Honey (Phòng Nghiên Cứu Phi Châu và Phương Ðông tại Luân Ðôn)
đã cho Giáo Sư họ Lê giữ bản này sau khi Giáo Sư Honey mất (2005). Bản
ông viết hai mặt giấy, có nhiều trang bằng mực đỏ. Dưới lá thư viết bằng
tiếng Pháp, có ghi tên ông và địa chỉ “136 Rue de La Gare, Hải Phong.”
Theo ông, “để giữ an ninh cho tôi, Bộ Ngoại Giao Anh đã cắt bỏ phần này.”
Bản Văn Nghệ Tiền Phong thì do ông Châu Kim Nhân giao cho từ ông Ðỗ
Văn. Ông Hùng và ông Văn đều từng làm cho BBC. Hoa Địa Ngục xuất hiện
đầu thập niên 80; có lẽ vì vô đề nên Thời Tập lấy câu thơ Tiếng Vọng Từ Đáy Vực làm tựa và Văn Nghệ Tiền Phong thì đặt tên là Chúc Thư Của Một Người Việt Nam.
Nhà Xuất Bản Tổ Hợp Miền Đông Hoa Kỳ cho hay, tập tuyển dịch sang tiếng
Anh năm 1984 của Huỳnh Sanh Thông (Flowers from Hell) đã khẳng định tựa
đề là Hoa Địa Ngục và tên tác giả chính xác là Nguyễn Chí Thiện, dựa trên một bức thư của Giáo sư Honey.
Tác Giả Dởm
Nguyễn Chí Thiện họp báo ngày 25/10/08 ở Quận Cam Cali để phản bác lại
chuyện có người nghi ông là Thiện “dởm”; tác giả Hoa Địa Ngục đã chết;
Lý Ðông A mới là tác giả thực. Ông thách người tố giác $200,000, nếu
chứng minh ông là người giả mạo. Nguyễn Chí Thiện còn trưng dẫn tài liệu
việc giảo nghiệm chữ viết, hình ảnh để xác nhận: “Tôi là tác giả tập thơ Hoa Ðịa Ngục”.
Một số tên bạn tù hiện ở quận Cam, Hà Nội, Pháp và ngay cả còn trong tù
cọng sản cũng được ông nêu ra. Nguyễn Chí Thiện quả quyết nói, “tôi thường đọc thơ cho họ nghe trong tù.”
Thật ra, nếu trường Ecole Coloniale của Pháp năm 1911 cho Hồ Chí Minh
xin vào học làm quan, lúc đó tên là Nguyễn Tất Thành thì Việt Nam chắc
sẽ không có Việt Gian, Việt Cộng, Việt kiều, không có Đấu tố, Mậu Thân,
Mỹ Lai, Chất độc da cam; không thuyền nhân vượt biển, không trại cải
tạo; không có Nhật Ký Trong Tù, Hoa Địa Ngục; không có thơ: Yêu biết mấy con nghe tập nói, Tiếng đầu lòng, con gọi Xít ta lin; hay bài hát: 1-2-3, ta là cha thằng Mỹ, 4-5-6, ta là cháu bác Hồ, 7-8-9, ta là lính thủ đô, 10-20, ta là người Xô viết; hoặc câu ca dao: Chiều chiều trên bến Ninh Kiều, Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân; và tuyệt nhiên không có dịnh nghĩa đầy tính Việt gian: yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa.
Theo dòng đời, ông thành đảng viên Cọng sản năm 1920, được huấn luyện
tại Đại học Phương Đông (1923) và Đại học Lénine (1934). Hồ Chí Minh
chọn chủ nghĩa Mác Lê làm “cẩm nang thần kỳ” vì ông có một Tổ quốc Cách
Mạng Nga để phục vụ; có một sứ mệnh xây dựng phong trào vô sản ở Châu Á
để hoàn thành; và có một “người cha, thầy học, đồng chí và cố vấn”
là Lénine để tuân phục. Trước đó, năm 1919 ông đã đạo danh Nguyễn Ái
Quốc, tên chung của Hội Những Người An Nam Yêu Nước do Phan Châu Trinh
đứng đầu, để làm tên của mình.
Tập thơ Hoa Địa Ngục và tập truyện Hỏa Lò của Nguyễn Chí Thiện gây ấn
tượng mạnh hơn Nhật Ký Trong Tù và Những Mẩu Chuyện Về Đời Hoạt Động của
Hồ Chủ Tịch do Trần Dân Tiên - tức Hồ Chí Minh - viết. Những cảnh bị
trói cánh khuỷu, cổ mang vòng xích, ăn không đủ hay ở chung với tù bệnh
giang mai cùng tháng ngày tù ngục ở bên Tàu mà họ Hồ tả chẳng thấm vào
đâu nếu so với những thống khổ mà Nguyễn Chí Thiện phải chịu trong chế
độ lao tù Miền Bắc. Hơn nữa, đảng Cộng sản có cả một mạng lưới bảo vệ Hồ
Chí Minh. Thời gian tù Hồng Kông, hai luật sư người Anh bào chữa cho
ông và ông còn được ăn cơm Tây, ngủ giường tốt.
Phần Nguyễn Chí Thiện thì đã “sống bẩn thỉu, hôi hám như một con chuột cống, có điều thua con chuột cống ở chỗ đói, rét, ốm, đi không vững.” Thân cô, thế cô, nhiều lúc quá tuyệt vọng, rũ rã, ông muốn chết. Nguyễn Chí Thiện tồn tại được là nhờ “Thơ và Mơ”; phải sống để đưa ra khỏi nước “mấy vần thơ ai oán”.
Còn Nhật Ký Trong Tù tung ra chỉ để tuyên truyền, làm đẹp cuộc đời Hồ
Chí Minh. Trong Những Mẩu Chuyện của Hồ Chủ Tịch, ông tự cho mình là
cha già dân tộc. Danh xưng dân Ấn tôn vinh Mohandas Gandhi (1869-1948),
người đã thuyết phục được Anh Quốc trả độc lập cho Ấn bằng con đường hòa
bình ngày 15/8/1947. Hồ Chí Minh đã ăn cắp ý này.
Ai là tác giả Nhật Ký Trong Tù?
Sự
nghiệp và cuộc đời hai tác giả khác hẳn nhau. Gần nửa đời người, Nguyễn
Chí Thiện chỉ biết hết tù nhỏ đến từ lớn, không vợ con, chay tịnh. Tài
sản của ông là Hoa Địa Ngục và Hỏa Lò, được kết nụ, nung nấu trong lòng
chế độ mà Hồ Chí Minh đã xây dựng sau 30 năm bôn ba hải ngoại. Sự nghiệp
Hồ Chí Minh là làm cách mạng chuyên nghiệp, cướp chánh quyền. Có cả
trên trăm lần thay tên đổi họ. Chỉ Đệ tam quốc tế của Liên sô mới thấu
rõ “con đường bác đi” vì tên ông có trong sổ lương. Vợ Tăng Tuyết
Minh (1), con Nguyễn Tất Trung (2), nhưng vẫn sống lối độc thân tại
chỗ, được tôn làm vua đạo dụ. Một điều giống nhau, cả hai ông đều bị tố:
kẻ đạo thơ.
Ở Việt Nam, chẳng ai dám bàn nhiều về chuyện này. Trong bài “19/5 không phải là ngày sinh của Hồ Chí Minh” (3), Đinh Tiểu Nguyễn cho biết, “Ngày
15 tháng 10 năm 1998, tại Ban Việt học của Đại Học Paris VII, Giáo sư
người Nhật, ông Kenichi Kawaguchi, Hội viên Văn Bút Nhật bản, Giáo sư
tại Đại học Tokyo, Ban Bang giao quốc tế, thuật chuyện ông về Hà Nội.
Nghe nói tập thơ Tù của Hồ Chí Minh, ông đã đến Hà Nội tìm đọc và có thể
sẽ dịch ra tiếng Nhật. Một giáo sư người Việt thấy vậy, vỗ vai ông vừa
cười và bảo tập thơ ấy có phải của ông Hồ đâu mà ông mất công nghiên
cứu.”
Theo Wikipedia tiếng Việt, Nhật ký trong tù, nguyên gốc tập thơ chỉ là
một quyển sổ tay nhỏ, bìa xanh đã bạc màu, ghi bốn chữ "Ngục trung nhật
ký" (tức Nhật ký trong tù), kèm theo bốn câu thơ và một hình vẽ hai nắm tay bị xích; bên trong gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán và một số ghi chép; ở trang đầu ghi 29.8.1932 và ngày 10.9.1933, trang sau ghi 29-8-1942 và 10-9-1943 là lúc Hồ Chí Minh bị bắt ở Quảng Tây. Điều này làm nảy sinh nhiều nghi vấn về tác giả và thời điểm sáng tác của tập thơ.
Đã có nhiều bài báo bàn ra tán vào về nghi vấn ai là tác giả. Trước hết
là con số bài thơ trồi sụt bất thường. Ngày tháng tù của ông Hồ ở bìa
sách và lưng sách sai biệt 10 năm. Chữ viết có vẻ khác. Trang đầu dùng
chấm, chữ nghiêng trái. Trang chót dùng gạch ngang, chữ hơi ngã phải.
Hầu hết các bài báo cho là Hồ Chí Minh lấy thơ người khác rồi viết thêm
thơ mình vào; nên Hồ Chí Minh không thể là tác giả của Ngục Trung Nhật
Ký gốc được. Mặt khác, trong cuốn “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyện,” tác giả T. Lan cũng là tên của Hồ Chí Minh cho biết: Ở Quảng Tây ông chỉ bị bắt “giải đi suốt 18 nhà lao”.
Giáo sư Lê Hữu Mục, dạy Triết trường Quốc Học Huế và các Đại Học Văn Khoa trước 1975, nhờ còn ở Việt Nam sau 30/4/75 nên ông đã “thọc sâu vào được cái bóng tối dày đặc bao bọc chung quanh tập thơ.” Qua Canada ông đã viết tập “Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục Trung Nhật Ký.”
Theo ông, Ban Tuyên giáo Cộng Sản đã rất công phu trong việc gán ép
quyền tác giả tập thơ cho Hồ Chí Minh. Trong tương lai, vẫn theo giáo
sư, “nó sẽ bị đánh bật ra khỏi tay Hồ Chí Minh, sẽ được trao trả cho tác giả đích thực của nó là già Lý.” Đó là ông lão hay làm thơ, cùng bị giam với Hồ Chí Minh ở Hồng Kông những năm 1932-1933.
Vụ đạo thơ lớn nhất trong lịch sử
Tập biên khảo, được xuất bản bởi Ủy Ban Tố Cáo Tội Ác Hồ Chí Minh năm 1990 ở Paris còn cho biết, “quốc tịch Trung Hoa của con người trong tập thơ nổi bật lên một cách dễ dàng,” nếu
đọc kỹ các bài thơ. Con người này là ông già Lý, chúa một dãy núi, kể
lại đời sống ở những vùng rừng núi khi còn trẻ qua nhiều bài thơ trong
cuốn sổ tay đó. Ngoài ra, có những từ liên hệ trực tiếp với Hồng Kông
hơn là ở Quảng Tây; phù hợp với con số 1932-1933 mà nhà văn Đặng Thái
Mai đã nêu ra, mới đúng là năm viết Nhật Ký Trong Tù.
Viện Văn Học trong cuốn Suy Nghĩ Mới Về Nhật Ký Trong Tù đã bác lập luận của Lê Hữu Mục bằng bài “Câu Chuyện Tác Giả Ngục Trung Nhật Ký” của Phó Giáo sư Phan Ngọc tức Nhữ Thành. Phó giáo sư này, khẳng định là tập thơ “viết cùng một thứ chữ; xuất xứ đâu có phải mơ hồ.” Tác giả Nhữ Thành còn cho rằng, “Quyển sách Lê Hữu Mục viết ra thực tế là hành động giơ dao.” Ông khuyên Giáo sư này, “Nên buông dao thì hơn.” Về dòng chữ đề ngày 29.8.1932 – 10.9.1933 ở ngoài bìa, Viện văn học biện minh là để “nguỵ trang.”
Dù vậy, những phản biện của Viện Văn Học không đủ thuyết phục, không
đánh tan được nghi vấn ăn cắp thơ của Hồ Chủ Tịch từ nửa thế kỷ nay. Đây
là một vụ án đạo văn thơ lớn nhất trong lịch sử văn học Việt Nam, có sự
hỗ trợ của quyền lực. Thời gian chỉ làm dịu vơi nỗi khổ, niềm đau; chớ
không thể xóa bỏ sự hoài nghi hay gian ác được. Hồ Chí Minh đã đi vào
lịch sử Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, để lại nhiều mả tù, mả
lính, xương trắng Trường sơn, và gây cảnh Nam Bắc phân ly, huynh đệ
tương tàn. Đường vào văn học sử thì khác. Rất dễ nhưng rất khó. Nó đòi
hỏi sự thật và nghệ thuật.
Tù nhân Nguyễn Chí Thiện, trước các làn sóng tố cáo “Thiện giả, ăn cắp thơ,”
đã chấp nhận giảo nghiệm hình ảnh và chữ viết của mình để minh chứng
tên tác giả thực của Hoa Địa Ngục. Đảng Cọng Sản Việt Nam thừa kế di sản
Hồ Chí Minh tổ chức cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức
Hồ Chí Minh từ 3/2/2007 đến 3/2/2011 thì không gì cụ thể và ngay thẳng
hơn: cho công bố cuộc giảo nghiệm chữ viết và con số cùng bút tự chữ Hán
trong các di cảo của ông Hồ với cuốn sổ gốc Nhật Ký Trong Tù. Nếu hô
hào suông, thần tượng Hồ Chí Minh chỉ là: Trông xa ngỡ tượng tô vàng; Nhìn gần lại hóa toàn là đồ gian.
Thật vậy, thực tiễn mới là thước đo chân lý. Muốn biết về thời đại Hồ Chí Minh thì “Hãy lắng nghe tiếng vọng từ đáy vực” bằng cách đọc Hoa Địa Ngục và Hỏa Lò. Kinh nghiệm Cộng sản là một cái gì cụ thể. Trong “Hồi kí Nguyễn Hiến Lê”, một học giả có cả trăm đầu sách, rất có ảnh hưởng ở miền Nam, ông viết, muốn
thấy chế độ đó ra sao thì phải sống dưới chế độ. Đó là bài học đầu tiên
và vô cùng quan trọng mà tôi và có lẽ cả 90% người miền Nam rút được. Mấy ông Tây bà đầm, các nhà khoa bảng lẫy lừng khi nói đến họ Hồ nên nhớ đến lời này. Mong lắm thay!
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2012/10/hai-tap-tho-tu-nguyen-chi-thien-ho-chi.html#more
======================================================================
Một Vì Sao Vừa Tắt
Tim ngừng đập
Một vì sao vừa tắt
Chó thôi sủa, mèo thôi kêu
Những con quạ đen thôi cụng ly chửi rủa
Giữa hàng triệu trái tim thương tiếc
Kẻ vô sĩ vẫn huyên thuyên
Kệ chúng nó – Anh vẫn thường nói vậy
Vì tên anh thánh thiện vẫn hơn người
Ngày 16 tháng 7 năm 1979
Bên hàng rào sứ quán
Hoa địa ngục nở hoa
Khi anh ưởn ngực bước vào tù
Những người dũng cảm cũng ngã nón
Phường tiểu nhân vẫn hung hăng
Thuở anh làm người thì chúng chẳng ra đời
27 năm thử lửa địa ngục
Quỷ sa tăng cũng cúi đầu khuất phục
Anh vẫn đứng, sừng sửng như núi
Chỉ có kẻ lòng lợn tim trâu mới lên giọng dạy đờ
Kệ chúng nó – Anh vẫn hiền hoà nói vậy
Vì tên anh hướng thiện lúc làm người
Ngày 13 tháng 10 năm 2012
Thân về cát bụi
Hồn lìa trần nhưng uy dũng vẫn còn đây
Anh không chết vì tên anh đã là lịch sừ
Là chứng nhân “Tã trắng thắng cờ hồng”
Đỗ Thành Công
(Tưởng nhớ anh Nguyễn Chí Thiện)
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/66679
======================================================================
Một Vì Sao Vừa Tắt
08:35:pm 06/10/12 | Tác giả: Đỗ Thành Công
Một Vì Sao Vừa Tắt
Ngày 2 tháng 10 năm 2012Tim ngừng đập
Một vì sao vừa tắt
Chó thôi sủa, mèo thôi kêu
Những con quạ đen thôi cụng ly chửi rủa
Giữa hàng triệu trái tim thương tiếc
Kẻ vô sĩ vẫn huyên thuyên
Kệ chúng nó – Anh vẫn thường nói vậy
Vì tên anh thánh thiện vẫn hơn người
Ngày 16 tháng 7 năm 1979
Bên hàng rào sứ quán
Hoa địa ngục nở hoa
Khi anh ưởn ngực bước vào tù
Những người dũng cảm cũng ngã nón
Phường tiểu nhân vẫn hung hăng
Thuở anh làm người thì chúng chẳng ra đời
27 năm thử lửa địa ngục
Quỷ sa tăng cũng cúi đầu khuất phục
Anh vẫn đứng, sừng sửng như núi
Chỉ có kẻ lòng lợn tim trâu mới lên giọng dạy đờ
Kệ chúng nó – Anh vẫn hiền hoà nói vậy
Vì tên anh hướng thiện lúc làm người
Ngày 13 tháng 10 năm 2012
Thân về cát bụi
Hồn lìa trần nhưng uy dũng vẫn còn đây
Anh không chết vì tên anh đã là lịch sừ
Là chứng nhân “Tã trắng thắng cờ hồng”
Đỗ Thành Công
(Tưởng nhớ anh Nguyễn Chí Thiện)
nguồn:http://www.danchimviet.info/archives/66679
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001