S.T.T.D Tưởng Năng Tiến (Danlambao) - “Tôi
nghĩ rằng ở Việt Nam, cả những người phê phán quyết liệt nhất, cấp tiến
nhất, cũng vẫn là những người nằm trong hệ thống, chỉ tìm cách thay
đổi, hoàn thiện, bổ khuyết cho hệ thống đó. Chưa ai nghĩ đến sự thay đổi
mang tính đoạn tuyệt.” - Phạm Xuân Nguyên
Đầu năm 2013, nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên hân hoan báo một tin vui:
“... một tác phẩm văn chương đầy nhân cảm của nhà văn Lê Tất Điều,
sau 47 năm lại tái ngộ độc giả Việt Nam... Sau 47 năm, Đêm dài một đời
của Lê Tất Điều trở lại giản dị và vẫn mới mẻ trong bối cảnh đời sống
văn chương đang thiếu những tác phẩm đẹp, lay động thực sự dành cho tuổi
mới lớn, trong đời sống mà sự vô cảm đang có sức lây lan mãnh liệt.”
Cuối năm trước, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên cũng đã cho biết một tin vui tương tự:
“Dẫu ra đi trong hoàn cảnh nào, dẫu ở những phương trời nào, đất nước
quê hương vẫn là nơi người đi muốn trở về, sau rốt. Võ Phiến được in
lại trong nước, dù đang phải dưới bút danh Tràng Thiên, là một tin vui
cho tác giả, cho độc giả, là một ích lợi cho văn hóa, văn học nước nhà.
Rồi đây những cái có ích như vậy, những cái thực sự là giá trị văn
chương, học thuật của cả một đội ngũ những người cầm bút, rộng ra là
những người sáng tạo văn học nghệ thuật, của một nửa nước phía Nam thời
1954-1975 chắc sẽ được xuất hiện trở lại nhiều hơn. Văn học còn dè dặt,
nhưng âm nhạc thì đã tưng bừng hơn, với sự trở về nước của những giọng
ca từng nổi tiếng, quen thuộc, như Chế Linh mới đây, và Khánh Ly tới
đây. “Thì Tổ Quốc chật hẹp gì cho trăm con cùng nương náu /Chúng ta
không chung một đoạn đường nhưng chung một tương lai” (Chế Lan Viên). Và đó là một phúc lớn.”
Phúc thật chứ không phải bỡn!
Không mấy khi những người cầm viết trong nước đề cập đến tác phẩm của
đồng nghiệp (“những người sáng tạo văn học nghệ thuật, của một nửa nước
phía Nam thời 1954-1975”) đang sống ở hải ngoại, với những lời lẽ ôn tồn
và tử tế như thế. Sự bao dung và nhân ái này, dù hiếm hoi và có hơi
muộn màng chăng nữa, vẫn là điều nên rất đáng lấy làm trân trọng.
Tuy nhiên, khi bàn đến chuyện “tương lai” và “phúc đức” (để nói cho hết
lẽ) tưởng cũng nên nhắc qua về “thảm hoạ” đã xẩy ra trong “quá khứ” cho
những tác phẩm, cũng như tác giả, ở miền Nam – gần 40 năm trước:
- “Trước hết là bản thông cáo của Ủy ban Tuyên huấn Thành ủy
truyền đi lải nhải suốt cả tuần lễ liền trên đài phát thanh. Nhà nước
cấm tàng trữ tất cả mọi loại sách ấn hành dưới chế độ cũ. Nhiều địa điểm
được chỉ định để mọi người đem giao nạp sách. Hàng ngày lái xe đạp đi
ngang qua cầu Trương-Minh-Giảng, Ba Sinh thấy thiên hạ ùn ùn chở những
chiếc xe ba gác chất đầy sách cũ đổ vào sân trường Đại học Vạn Hạnh.
Chàng có cảm giác như bị ngộp thở trong một cơn biến động hết sức kinh
hoàng.
Nhìn những cuốn sách chồng chất tả tơi trên những chiếc xe nặng nề
leo dốc, nhìn những trang sách bị xé rách rã rời bay tung tóe, rơi rải
rác trên đường phố, bị những bánh xe vô tình cán qua nhem nhuốc, nhầu
nát, Ba Sinh thấy tâm hồn của mình cũng tan nát, tơi tả như thế…” (Nhật Tiến. “Trận Đánh Cuối Cùng Của Một Kẻ Sĩ.” Tiếng Kèn. Westminster: Văn Nghệ, 1982).
- “Đám trẻ xộc vào nhà người ta khuân ra ngoài lề đường từng
đống sách báo. Nổi lửa đốt khói lên ngút trời. Một ông lớn tuổi đầu hói
mang kính cận dầy cộm chạy ra la giằng lại cuốn sách đóng bìa da to vĩ
đại:
- Các cháu ơi cho bác xin, đây là quyển Bách Khoa Từ điển tiếng Tây. Không phải văn hóa đồi trụy.
Chú nhóc miệng còn hôi sữa giằng lại cuốn sách, ném luôn vào thùng phuy đang bốc lửa:
- Đốt hết, đốt hết, sách là đốt. Lệnh trên như vậy.
Ông già ôm mặt khóc bên lề đường. Tôi quay mặt nhìn đi chỗ khác, tôi
biết ông cụ. Giáo sư đại học luật, Vũ Đăng Dung. Tiến sĩ luật công pháp
quốc tế. Ông cụ ở đường bên cạnh nhà tôi, đường Đinh Công Tráng, con
đường nổi tiếng bán bánh xèo...”(Nguyễn Thụy Long. Viết Trên Gác Bút. Westminster: Văn Nghệ, 1999)
- “Sách báo trên kệ sách trong nhà của tư nhân bị các thanh niên đeo
băng đỏ lôi ra hỏa thiêu không thương tiếc. Tại các cửa hàng kinh doanh,
sách báo bị thu gom để thiêu hủy, coi như đốt cháy cả cơ nghiệp lẫn con
người những cá nhân có liên quan...” (Nguyễn Ngọc Chính – Buồn Vui Thời Điêu Linh: Đốt Sách).
Gần bốn mươi năm sau – sau khi sau khi hàng ngàn tác phẩm, và hàng trăm
tác giả của cả một nền văn học bị vu khống, xuyên tạc, đánh phá, quét
sạch, tố cáo, truy lùng và thiêu hủy – đã có vài tác phẩm (con số chưa
chắc đã đếm đủ 10 đầu ngón tay) của những tác giả lưu vong được phép in
lại ở VN. Và điều này đã được nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, Chủ
Tịch Hội Nhà Văn Hà Nội, mô tả “là một tin vui cho tác giả” và “cho độc
giả.”
Tôi thực lòng cũng có lấy làm vui nhưng không thoáng khỏi ray rứt – khi
chợt nghĩ đến những mảnh đời tan nát của những người còn ở lại, hay kẹt
lại. Hãy nghe Trúc Phương nói qua về thân phận của chính ông:
“Sau cái biến cố cuộc đời, tôi sống cái kiểu rài đây mai đó,’bèo dạt
hoa trôi’… Nếu mà nói đói thì cũng không đói ngày nào, nhưng mà no thì
chẳng có ngày nào gọi là no…Tôi không có cái mái nhà, vợ con thì cũng
tan nát rồi, tôi sống nhà bạn bè, nhưng mà khổ nổi hoàn cảnh họ cũng bi
đát, cũng khổ, chứ không ai đùm bọc ai được…đến nửa lúc đó thì vấn đề an
ninh có khe khắc, lúc đó thì bạn bè tôi không ai dám “chứa” tôi trong
nhà cả, vì tôi không có giấy tờ tùy thân, cũng chẳng có thứ gì trong
người cả.Tôi nghĩ ra được một cách..là tìm nơi nào mà có khách vãng lai
rồi mình chui vào đó ngủ với họ để tránh bị kiểm tra giấy tờ…
Ban ngày thì lê la thành phố, đêm thì phải ra xa cảng thuê một chiếc
chiếu, 1 chiếc chiếu lúc bấy giờ là 1 đồng… thế rồi ngủ cho tới sáng rồi
xếp chiếc chiếu trả người ta..thế là mình lấy 1 đồng về... như là tiền
thế chân… Một năm như vậy, tôi ngủ ở xa cảng hết 9 tháng…
Mà nói anh thương… khổ lắm… Hôm nào mà có tiền để đi xe lam mà ra sớm
khoảng chừng năm giờ có mặt ngoài đó thế rồi thuê được chiếc chiếu trải
được cái chỗ lịch sự chút tương đối vệ sinh một tí mà hôm nào ra trễ
thì họ chiếm hết rồi, những chỗ sạch vệ sinh họ chiếm hết rồi ,tôi đành
phải trải chiếu gần chỗ ‘thằng cha đi tiểu vỉa hè’, thế rồi cũng phải
nằm thôi.Tôi sống có thể nói là những ngày bi đát…mà lẽ ra tôi nên buồn
cho cái hoàn cảnh như thế nhưng tôi không bao giờ buồn… Tôi nghĩ mà thôi
, còn sống cho tới bây giờ và đó cũng là một cái chất liệu để tôi viết
bài sau này…”
Chất liệu, rõ ràng, đã có (và có quá dư) nhưng cơ hội để Trúc Phương
viết bài sau này (tiếc thay) không bao giờ đến – theo như tường thuật
của nhà phê bình âm nhạc Hoài Nam:
“Vào một buổi sáng năm 1996, Trúc Phương không bao giờ thức dậy nữa.
Ông đã vĩnh viễn ra đi. Tất cả gia tài để lại chỉ là một đôi dép nhựa
dưới chân.”
Lê Xuyên, ngó bộ, đỡ bầm dập hơn chút xíu:
“Sau biến cố 75, Lê Xuyên cũng bị liệt vào hàng ngũ ‘biệt kích văn
hóa’ và bị cộng sản nhốt tù 7 năm. Được tha ra khỏi tù, ông làm đủ mọi
nghề không tên để kiếm sống, và công việc cuối cùng ông làm được nhiều
năm, cho tới lúc chết là ngồi bán thuốc lá lẻ bên lề đường Nguyễn Kim,
Chợ Lớn...
Từ khi ra khỏi tù, Lê Xuyên sống không hộ khẩu, không được cấp bất cứ
một thứ giấy tờ hộ thân gì, khi chết phải nhờ những người sống lâu năm
trong xóm làm chứng mới xin được giấy khai tử để mang thiêu.
Như thế, nói Lê Xuyên hưởng thọ 77 tuổi là một cách nói theo thói
quen, văn chương chữ nghĩa. Chứ sự thực, có thể coi như Lê Xuyên đã
không còn nữa kể từ sau ngày 30 tháng 4, 1975...” (Nguyễn Đình Toàn. Bông Hồng Tạ Ơn, 2nd ed. Westminster: T &T, 2012. Vol.2).
Võ Phiến lại có cách nói khác, nặng nề và chính xác hơn, ông gọi những
những người cầm viết còn ở lại quê nhà là những “tài năng bị chôn
sống.” Ôi thôi, tưởng gì chớ bị chôn sống thì chết chắc. Mà nói nào ngay
thì dù không bị chôn (e) cũng ... chắc chết thôi, hay chỉ sống ngắc
ngư, hoặc sống rất lờ vờ – như nhận xét của giáo sư Nguyễn Văn Lục về một người bạn đồng nghiệp cũ:
“... sau 1975... có mấy mấy nhà văn, nhà báo trong Nam được cầm bút
lại như Lý Chánh Trung. Con số đếm chưa hết một bàn tay… Trước 75, ông
viết như thể một người nhập cuộc, kẻ lên đường, kẻ làm chứng, người trí
thức dấn thân. Ông viết với một tấm lòng nhiệt huyết. Sau 1975, ông viết
như một kẻ đứng bên lề, xem đá banh và vỗ tay.”
Mà đâu cần phải đợi đến 1975 mới có cảnh tang thương, dâu bể:
“Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa, bạn cũ, hầu hết đã đi
Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số ‘lớp Chín hậu
phương’, năm sau sẽ sáp nhập thành ‘hệ mười năm’. Số học sinh ‘lớp Chín’
này vào lớp không phải để học, mà là ‘tổ chức Hiệu đoàn’, nhận ‘chỉ thị
của Thành đoàn’ rồi ‘phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!’. Họ
truy lùng… đốt sách!
Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn ‘kiểm tra’, lục lọi,
từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang ‘tập
trung’ tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày,
trong niềm ‘phấn khởi’, lời hô khẩu hiệu ‘quyết tâm’, và ‘phát biểu của
bí thư Thành đoàn’: Tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn là… ‘cực kỳ phản
động!’. Vào lớp học với những ‘phê bình, kiểm thảo… cảnh giác, lập
trường”. (Hồi Ký của một người Hà Nội- Nguyễn Văn Luận)
Cứ nhìn những khuôn mặt nhầu nát của Văn Cao, Trần Dần, Đặng Đình Hưng,
Nguyễn Mạnh Tường... thì người ta biết ngay họ đã sống dở (và chết dở)
ra sao – từ sau 1954.
Tôi có quá lời không, hay có cố chấp quá không khi cứ nhắc lại những
chuyện đã cũ, và những người đã khuất. Không đâu. Đây là chuyện mới
tinh, mới xẩy ra năm ngoái – theo tường thật của phóng viên Đỗ Hiếu, từ RFA:
“Nhân dịp Lễ Vu Lan, rằm tháng 7 âm lịch, chùa Liên Trì tại Saigon tổ
chức phát quà từ thiện cho một số thương phế binh Việt Nam Cộng Hòa,
cựu tù nhân chính trị, tôn giáo, thân nhân các nhà dân chủ, vào sáng hôm
qua.
Theo thông tin do các nhà dân chủ từ Việt Nam chuyển ra thì một số
nhân vật bất đồng chính kiến, thân nhân các tù nhân chính trị còn bị
giam cầm, dân oan bị công an bám sát mấy hôm nay, nhà cửa bị canh chừng,
nhiều người đến chùa Liên Trì tham dự lễ Vu Lan, khi ra về đã bị công
an bắt.”
“Thì Tổ Quốc chật hẹp gì cho trăm con cùng nương náu /Chúng ta không chung một đoạn đường nhưng chung một tương lai” (Chế Lan Viên).
Tổ quốc (tất nhiên) không “chật hẹp gì cho trăm con cùng nương náu”
nhưng chúng ta làm sao có được “tương lai” khi quê hương đất nước vẫn bị
kìm chặt bởi những kẻ cầm quyền quyền mà tầm nhìn thì chỉ thấp như con
kiến, và lòng dạ thì bé xíu không hơn một cái cây tăm – như thế?
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.com/2013/01/be-nhu-mot-cay-tam.html#more
=====================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001