Để Đảng không trở thành đảng trị
Nguyễn Huy Canh ( Hải Phòng)
Lời kêu gọi nhân dân đóng góp ý kiến cho Dự thảo sửa đổi HP1992 đã được QH, Ban soạn thảo đưa ra với lời tuyên bố cởi mở, dân chủ: không có vùng cấm, kể cả nội dung điều 4 của bản HP này.
Đã có rất nhiều ý kiến của nhân dân, của các nhân sĩ, trí thức cho bản Dự thảo ở các vấn đề quan trọng từ quyền con người, quyền sở hữu đất đai đến cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, vị trí của đảng trong HP…Có thể xem đó là ý thức, là sự quan tâm và kỳ vọng rất lớn của nhân dân vào công cuộc chuyển đổi, phát triển đất nước theo con đường dân chủ.
HP đã được chúng ta quan niệm như thế nào? Đó là bộ luật gốc, luật mẹ, luật cơ bản và có hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác không được trái với nó. Đó là những quan điểm đúng về HP, nhưng tôi cho rằng chưa đầy đủ, chưa đi vào thực chất cốt lõi của nó. Nếu không có một lí thuyết về HP dẫn đường, soi sáng những vấn đề, những nhu cầu của xã hội, cái logic vận động của đời sống hiện thực này, thì tôi e rằng lần sửa đổi HP này vẫn chưa thể đáp ứng được tâm nguyện và ước vọng sâu xa của nhân dân.
Một lí thuyết mới về HP dẫn đường không thể không đặt ra vấn đề quyền lực và mối quan hệ của quyền lực chính trị của Đảng với bản thân nó. Khi nói về vấn đề này, GS Nguyễn Đăng Dung đã có một ý kiến đúng rằng, cốt lõi của HP là ở sự giới hạn quyền lực. Tôi xin được nói thêm rằng bản chất của HP của chế độ dân chủ là quyền lực nhà nước phải là quyền lực chính trị của nhân dân trao cho, ủy thác cho . Nếu nội dung này không được khẳng định, không được làm rõ ngay từ đầu thì cũng không có vấn đề được đặt ra về sự giới hạn quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị của nhân dân trao cho nhà nước bằng HP và thông qua HP là gì? Chúng ta phải nói đến đó là quyền được quyết định, được ban hành chính sách cho những vấn đề lớn, trọng đại của đất nước về đối nội, đối ngoại; về an ninh, quốc phòng; về kinh tế, văn hóa-xã hội; về dự toán ngân sách; về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, về quản lí và bổ nhiệm cán bộ; về cơ chế kiểm soát, hạn chế quyền lực…
Nhưng có một điều làm chúng ta phải suy nghĩ, phải đặt ra bởi những khó khăn của HP khi nó va chạm, gặp phải những vấn đề gọi là nhạy cảm. Đó là quyền được quyết định những vấn đề lớn của đất nước, của xã hội đã thuộc về Đảng như một tất yếu lịch sử khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, và xây dựng chính quyền nhà nước trong suốt những năm kháng chiến, chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Một tất yếu lịch sử đã không được soi sáng bởi một trí tuệ lớn, một tư duy chính trị sâu sắc và dũng cảm khi chiến tranh đã đi qua, đất nước đã được độc lập, được tự do. Kết quả ấy, thành quả ấy đương nhiên thuộc về sự hi sinh, sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng thực tiễn và triết lí lịch sử cũng đã hiểu ra rằng thành quả ấy đầu tiên và cuối cùng cũng là của nhân dân, phải thuộc về nhân dân, thuộc về sự hi sinh xương máu của nhân dân. Sự hi sinh ấy đã đem lại cho nhân dân cái khả năng, cái tư thế của người làm chủ đất nước, của người có khả năng đưa ra được những quyết định về các vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước và của cuộc đời mình dưới sự lãnh đạo của các chính đảng, của một chính đảng. Rằng nhân dân hôm nay, kể bắt đầu từ công cuộc đổi mới diễn ra vào thập niên 80, không còn là những quần chúng theo nghĩa là những lực lượng vật chất thụ động cần có những cá nhân anh hùng, những nhà tiên tri, những vĩ nhân lịch sử, những chính đảng dẫn dắt soi đường trong hành trình vào cõi nhân sinh.
Cái khả năng làm chủ ấy, trong tính thực tại, tính hiện thực chính là quyền lực chính trị. Nó phải là của nhân dân, thuộc về nhân dân ngay từ đầu. Nhưng tiếc rằng, như một sự trớ trêu của lịch sử, cho đến tận ngày hôm nay nhân dân chúng ta vẫn chưa có được cái điều tưởng như là logic, là hiển nhiên đó.
Điều lệ Đảng, chương 3, điều 16, Đảng đã tự qui định nội dung quyền lực chính trị này thuộc về BCHTW, BCT….Cái cấu trúc này nó được tổ chức, được thiết kế hoàn toàn khép kín với người dân. Người dân đã như một kẻ đứng ngoài, xa lạ đối với quá trình chính trị diễn ra gắn liền với đời sống xã hội, với sinh mệnh của đất nước và của chính mình. Như vậy có thể nói quyền lực chính trị của đất nước đã không thuộc về nhân dân ngay từ đầu, đã bị đảng “tước mất” dù điều 74 HP dự thảo có khẳng định: QH là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất…và, có quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước . Thực tế nhà nước chỉ còn là công cụ hiện thực hóa, thực thi hóa, thể chế hóa đường lối, chính sách, nghị quyết của đảng .Ngay cả HP, một bản văn xác nhận quyền lực tối thượng của nhân dân cũng được hiểu và đối xử như vậy. Điều ấy có nghĩa là : quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, HP là văn bản xác nhận quyền lực của nhân dân , và nhân dân trao quyền lực ấy cho nhà nước chỉ còn là một thứ giả, là vật trang trí của xã hội hiện đại .
Như vậy, nói theo ngôn ngữ HP, quyền lực chính trị của Đảng là vi hiến (mặc dù có qui định của điều 4). Nhưng tiếc rằng thể chế chính trị này đã không có được cơ quan tư pháp (hiểu theo đúng chức năng và nhiệm vụ của nó), và cũng chẳng có được một chính trị gia, một lí luận gia nào của Đảng cắt nghĩa cho được một cách minh bạch và thẳng thắn cái điều phi logic này ngoài việc cổ vũ cho Đảng phải luật hóa điều 4, hay trao quyền cho hội đồng hiến pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của TBT, hoặc tiêu cực hơn là đòi xóa bỏ nó. Đó là điều không thể làm được vì tính không khả thi của nó, cũng như những hệ lụy mà nó gây ra đối với sự lãnh đạo của Đảng cũng như với đời sống thực tiễn chính trị nước nhà trong giai đoạn hiện tại này.
Theo logic của lịch sử, của nhà nước pháp quyền hiện đại,quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân thì nhân dân phải có được 2 hành động liên tiếp sau:
Bước 1/ nhân dân trao, ủy thác quyền lực chính trị của mình cho nhà nước bằng HP, thông qua HP do chính mình viết ra bởi một Hội đồng lập hiến, và với sự tham gia của toàn dân (theo 2 công đoạn đóng góp ý kiến vào dự thảo và, trưng cầu ý dân)
Bước 2/ nhân dân tiếp tục trao các cơ quan nhà nước cho các chủ thể chính trị bằng lá phiếu của mình thông qua các cuộc bầu cử tự do. Bởi vì, các cơ quan nhà nước phải do những con người bằng xương, bằng thịt (và thông thường ở các xã hội đã phát triển) thuộc các chính đảng nắm giữ, điều hành.
Sau khi được trở thành đảng cầm quyền, thông qua việc nắm giữ và điều hành 2 cơ quan lập pháp và hành pháp, đảng sẽ thực hiện quyền lãnh đạo, quản lí của mình với quốc gia và đất nước.
Vì không thấy được cách thức tổ chức mô hình chính trị của mình là lạc hậu, không dân chủ và vi hiến, Đảng đã “vô tình” tạo ra thể chế chính trị đảng trị theo nghĩa của hình thái “quân chủ chuyên chế” đã cải biên , và do đó cũng đã tạo ra những cơ chế chính trị cho sự sản sinh và nuôi dưỡng đạo chuyên quyền, đức tham nhũng và sự giả dối, thờ ơ ở nhiều cấp, nhiều ngành.
Tại sao bây giờ nền chính trị của chúng ta lại rơi vào tình huống đó, và buộc phải tính đến bước cách tân này? Bởi vì đất nước và con người, nhân dân của đất nước này đã thay đổi.Từ một đời sống, hoàn cảnh sống trên đó sở hữu tư nhân bị tuyên chiến, bị xóa bỏ như một cái gì xấu xa, ghê tởm; xã hội là một khung cảnh vô chủ của những con người vô thân, vô ngã đã bước vào một quá trình sở hữu tư nhân về tài sản, về tư liệu sản xuất được thừa nhận và phát triển mạnh mẽ sau những năm cuối của thập niên 80 của thế kỉ trước : mọi người được lo toan, được suy nghĩ làm chủ, làm giàu không hạn chế cho bản thân mình và vợ con mình; được tự do tiến hành sản xuất-kinh doanh . Đảng viên của đảng cũng được xã hội và tổ chức đảng thừa nhận trở thành những ông chủ tham gia vào quá trình bóc lột giữa người và người trong tổ chức lao động và sản xuất. Đó là một quá trình tha hóa của lịch sử chúng ta, mà chính xác ra phải gọi là một sự khắc phục : con người, lịch sử đã phải đi từ vô thân, vô ngã trở lại hữu thân, hữu ngã, có bản ngã .Qúa trình biến đổi lịch sử này cần phải được xác nhận trong đảng như một qui luật, rằng cho đến nay chúng ta đã có một bộ phận không nhỏ trở lên rất giàu có thông qua cách thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được pháp luật thừa nhận, rằng trong đảng đã có một bộ phận không nhỏ trở thành những nhà tư bản mới.
Cái quá trình khắc phục ấy, tiếc rằng đã kéo theo một bộ phận không nhỏ trong Đảng tham nhũng,thoái hóa, biến chất để trở thành lớp người giàu có bất minh.
Cái lực lượng thoái hóa ấy trong đảng do đã tìm thấy ở thể chế chuyên chế cái cơ sở lí luận và thực tiễn kinh tế cho hành động biến quyền lực của Đảng thành cơ hội, lợi ích, thành tiền bạc cho bản thân, cho vợ con, anh em của mình,cho những đ/c của mình. Điều này ngày càng trở nên rõ ràng, nghiêm trọng và đặc biệt nguy hiểm cho đảng, và đất nước bởi lịch sử nước nhà đang bị chi phối mạnh mẽ bởi qui luật đa nguyên mà chúng ta đã nhìn thấy rõ qui luật ấy đang thấm sâu vào trong lĩnh vực của các quan hệ kinh tế, của các lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường, đa thành phần.
Cơ sở lí luận cho lực lượng bảo thủ, giáo điều, thoái hóa ấy chính là cơ cấu, cơ chế quyền lực của đảng được đóng kín như một thứ quyền lực bên trong bóng tối, không bị kiểm soát, không có giới hạn bởi nó đã đứng ở bên ngoài và bên trên nhân dân, trên nhà nước, trên HP và pháp luật vẫn được giữ nguyên như thời kì vô chủ, vô ngã trong cái tình huống khắc phục khách quan (nói trên) của lịch sử và của đảng đang diễn ra mạnh mẽ.
Bộ phận quan chức không nhỏ xấu xí này cùng với những biến đổi khách quan trong đảng nói trên, đang hàng ngày hàng giờ làm cho đất nước ta suy yếu trên nhiều mặt, và Đảng tự diễn biến, chuyển hóa theo hướng xa dân, đối lập và ngày càng mất uy tín trầm trọng với nhân dân. Đảng đang rơi vào tình thế lâm nguy như nỗi lo lắng của chính TBT, của tân trưởng ban nội chính tw, và của nhiều vị lãnh đạo khác trong đảng.
Đổi mới thể chế chính trị theo hướng dân chủ là đòi hỏi bức thiết của nhân dân, và đảng trong cuộc chấn hưng đất nước. Trong nhu cầu ấy, nhiều nhân sĩ-trí thức đã nhìn thấy những mặt tích cực của mô hình chính trị đa đảng.
Tư tưởng về một thể chế đa đảng không đồng nghĩa với ý muốn bác bỏ sự lãnh đạo của đcs –như những lực lượng bảo thủ vẫn gán ghép cho họ-mà nó chỉ muốn đi tìm một sự minh bạch của quyền lực, của sự cạnh tranh chính trị lành mạnh, công bằng. Nhưng có vẻ trong tư duy ấy có một sự dập khuôn về một nhà nước pháp quyền của các quốc gia tư sản đã có chiều dài phát triển hàng trăm năm mới có được.
Một sự dập khuôn như thế đã diễn ra trong suốt một chiều dài đáng buồn của lịch sử xây dựng chính quyền nhà nước, và bây giờ ta lại thấy bóng dáng của nó hiện ra trong mô hình nói trên. Chế độ chính trị đa đảng giờ đây ở VN có thể là một ảo tưởng, vì dễ dẫn đến những khoảng trống của quyền lực xuất hiện, những lực lượng, thành phần cơ hội thừa cơ nhảy ra và kéo theo đó là sự trỗi dậy của tội phạm, của bạo lực khủng bố và li khai… khó bề kiểm soát, chưa kể đến sự ngăn trở từ những xung đột lợi ích xảy ra trong bản thân đảng cũng như mối đe dọa luôn hiện hữu từ phương bắc cho dù có thời gian chuẩn bị từ 2->3 năm của những tư tưởng ấy. Phải có một bước đệm của lịch sử , một bước đi ban đầu nhằm tạo ra tư thế tâm lí trong đảng và thói quen của toàn xã hội trước khi (có thể) bước vào đời sống chính trị đa đảng phái sau này.
Từ những phân tích ở trên, tôi đề nghị:
1/ Công cuộc sửa đổi HP chỉ có thể có được thành quả như một bước ngoặt lịch sử, khi ĐCS nhất định hiểu ra được rằng: Đảng không phải , và không còn là một tổ chức có quyền lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội được mặc định theo cách như trước nữa mà chỉ là một tổ chức chính trị (thuần túy) xét trong mối quan hệ tồn tại với xã hội hiện tồn. Chỉ trở thành một tổ chức có quyền lực, có quyền được ra quyết định, được ban hành các chính sách về tất cả những vấn đề lớn, trọng đại của đất nước từ đối nội đến đối ngoại, từ kinh tế đến an ninh, quốc phòng khi đảng được người dân “thuê”, ủy quyền để trở thành đảng cầm quyền thông qua sự lựa chọn trong một bầu cử tự do có cạnh tranh giữa các đảng viên của đảng, cũng như với các ứng viên tự do qua lá phiếu bầu của nhân dân được tổ chức bởi một Hội đồng bầu cử QG.
2/ Điều đó đòi hỏi Đảng phải dũng cảm, mạnh mẽ trả lại ngay quyền lực chính trị cho nhân dân bằng cách thay đổi nhiều nội dung của Điều lệ trong đó có việc phải bỏ điều 16 chương 3, thay đổi cách thức tổ chức của mình bằng việc bỏ đi tất cả các tổ chức BCHTW, BCT, BBT…ở TW và các cấp ủy, thường vụ ở địa phương, và ở các ngành.
3/Do đó Hiến pháp phải có ít nhất một điều qui định riêng về đảng (bằng việc sửa chữa điều 4 hiện nay).
-ĐCS Việt Nam là một tổ chức chính trị-xã hội đóng vai trò thiết yếu trong chế độ.
-Trở thành đảng cầm quyền, đảng (mới được)thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lí của mình đối với quốc gia, xã hội theo qui định của Hiến pháp, pháp luật.
Những thay đổi trên đây, mặc dù cũng rất khó khăn, nhưng đó là phương án cải cách khả dĩ, tối ưu cho một cuộc chuyển biến để Đảng đi lên mạnh mẽ cùng dân tộc vào một tương lai dân chủ, nhân quyền của đất nước và, đó cũng chính là cơ sở lí thuyết và thực tiễn bước đầu cho công cuộc đổi mới mạnh mẽ HP92 nhằm làm cho nó trở thành Tuyên ngôn chính trị của chế độ chúng ta: chế độ cộng hòa-dân chủ trong một thể chế nhất đảng. Ngày 10/3/013
NHC
Tác giả gửi QC
(Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả)
Đã có rất nhiều ý kiến của nhân dân, của các nhân sĩ, trí thức cho bản Dự thảo ở các vấn đề quan trọng từ quyền con người, quyền sở hữu đất đai đến cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, vị trí của đảng trong HP…Có thể xem đó là ý thức, là sự quan tâm và kỳ vọng rất lớn của nhân dân vào công cuộc chuyển đổi, phát triển đất nước theo con đường dân chủ.
HP đã được chúng ta quan niệm như thế nào? Đó là bộ luật gốc, luật mẹ, luật cơ bản và có hiệu lực pháp lí cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác không được trái với nó. Đó là những quan điểm đúng về HP, nhưng tôi cho rằng chưa đầy đủ, chưa đi vào thực chất cốt lõi của nó. Nếu không có một lí thuyết về HP dẫn đường, soi sáng những vấn đề, những nhu cầu của xã hội, cái logic vận động của đời sống hiện thực này, thì tôi e rằng lần sửa đổi HP này vẫn chưa thể đáp ứng được tâm nguyện và ước vọng sâu xa của nhân dân.
Một lí thuyết mới về HP dẫn đường không thể không đặt ra vấn đề quyền lực và mối quan hệ của quyền lực chính trị của Đảng với bản thân nó. Khi nói về vấn đề này, GS Nguyễn Đăng Dung đã có một ý kiến đúng rằng, cốt lõi của HP là ở sự giới hạn quyền lực. Tôi xin được nói thêm rằng bản chất của HP của chế độ dân chủ là quyền lực nhà nước phải là quyền lực chính trị của nhân dân trao cho, ủy thác cho . Nếu nội dung này không được khẳng định, không được làm rõ ngay từ đầu thì cũng không có vấn đề được đặt ra về sự giới hạn quyền lực nhà nước.
Quyền lực chính trị của nhân dân trao cho nhà nước bằng HP và thông qua HP là gì? Chúng ta phải nói đến đó là quyền được quyết định, được ban hành chính sách cho những vấn đề lớn, trọng đại của đất nước về đối nội, đối ngoại; về an ninh, quốc phòng; về kinh tế, văn hóa-xã hội; về dự toán ngân sách; về cách thức tổ chức bộ máy nhà nước, về quản lí và bổ nhiệm cán bộ; về cơ chế kiểm soát, hạn chế quyền lực…
Nhưng có một điều làm chúng ta phải suy nghĩ, phải đặt ra bởi những khó khăn của HP khi nó va chạm, gặp phải những vấn đề gọi là nhạy cảm. Đó là quyền được quyết định những vấn đề lớn của đất nước, của xã hội đã thuộc về Đảng như một tất yếu lịch sử khi Đảng lãnh đạo nhân dân giành được chính quyền, và xây dựng chính quyền nhà nước trong suốt những năm kháng chiến, chiến tranh chống giặc ngoại xâm.
Một tất yếu lịch sử đã không được soi sáng bởi một trí tuệ lớn, một tư duy chính trị sâu sắc và dũng cảm khi chiến tranh đã đi qua, đất nước đã được độc lập, được tự do. Kết quả ấy, thành quả ấy đương nhiên thuộc về sự hi sinh, sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng thực tiễn và triết lí lịch sử cũng đã hiểu ra rằng thành quả ấy đầu tiên và cuối cùng cũng là của nhân dân, phải thuộc về nhân dân, thuộc về sự hi sinh xương máu của nhân dân. Sự hi sinh ấy đã đem lại cho nhân dân cái khả năng, cái tư thế của người làm chủ đất nước, của người có khả năng đưa ra được những quyết định về các vấn đề lớn, hệ trọng của đất nước và của cuộc đời mình dưới sự lãnh đạo của các chính đảng, của một chính đảng. Rằng nhân dân hôm nay, kể bắt đầu từ công cuộc đổi mới diễn ra vào thập niên 80, không còn là những quần chúng theo nghĩa là những lực lượng vật chất thụ động cần có những cá nhân anh hùng, những nhà tiên tri, những vĩ nhân lịch sử, những chính đảng dẫn dắt soi đường trong hành trình vào cõi nhân sinh.
Cái khả năng làm chủ ấy, trong tính thực tại, tính hiện thực chính là quyền lực chính trị. Nó phải là của nhân dân, thuộc về nhân dân ngay từ đầu. Nhưng tiếc rằng, như một sự trớ trêu của lịch sử, cho đến tận ngày hôm nay nhân dân chúng ta vẫn chưa có được cái điều tưởng như là logic, là hiển nhiên đó.
Điều lệ Đảng, chương 3, điều 16, Đảng đã tự qui định nội dung quyền lực chính trị này thuộc về BCHTW, BCT….Cái cấu trúc này nó được tổ chức, được thiết kế hoàn toàn khép kín với người dân. Người dân đã như một kẻ đứng ngoài, xa lạ đối với quá trình chính trị diễn ra gắn liền với đời sống xã hội, với sinh mệnh của đất nước và của chính mình. Như vậy có thể nói quyền lực chính trị của đất nước đã không thuộc về nhân dân ngay từ đầu, đã bị đảng “tước mất” dù điều 74 HP dự thảo có khẳng định: QH là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất…và, có quyền quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước . Thực tế nhà nước chỉ còn là công cụ hiện thực hóa, thực thi hóa, thể chế hóa đường lối, chính sách, nghị quyết của đảng .Ngay cả HP, một bản văn xác nhận quyền lực tối thượng của nhân dân cũng được hiểu và đối xử như vậy. Điều ấy có nghĩa là : quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, HP là văn bản xác nhận quyền lực của nhân dân , và nhân dân trao quyền lực ấy cho nhà nước chỉ còn là một thứ giả, là vật trang trí của xã hội hiện đại .
Như vậy, nói theo ngôn ngữ HP, quyền lực chính trị của Đảng là vi hiến (mặc dù có qui định của điều 4). Nhưng tiếc rằng thể chế chính trị này đã không có được cơ quan tư pháp (hiểu theo đúng chức năng và nhiệm vụ của nó), và cũng chẳng có được một chính trị gia, một lí luận gia nào của Đảng cắt nghĩa cho được một cách minh bạch và thẳng thắn cái điều phi logic này ngoài việc cổ vũ cho Đảng phải luật hóa điều 4, hay trao quyền cho hội đồng hiến pháp kiểm tra, giám sát hoạt động của TBT, hoặc tiêu cực hơn là đòi xóa bỏ nó. Đó là điều không thể làm được vì tính không khả thi của nó, cũng như những hệ lụy mà nó gây ra đối với sự lãnh đạo của Đảng cũng như với đời sống thực tiễn chính trị nước nhà trong giai đoạn hiện tại này.
Theo logic của lịch sử, của nhà nước pháp quyền hiện đại,quyền lực chính trị thực sự thuộc về nhân dân thì nhân dân phải có được 2 hành động liên tiếp sau:
Bước 1/ nhân dân trao, ủy thác quyền lực chính trị của mình cho nhà nước bằng HP, thông qua HP do chính mình viết ra bởi một Hội đồng lập hiến, và với sự tham gia của toàn dân (theo 2 công đoạn đóng góp ý kiến vào dự thảo và, trưng cầu ý dân)
Bước 2/ nhân dân tiếp tục trao các cơ quan nhà nước cho các chủ thể chính trị bằng lá phiếu của mình thông qua các cuộc bầu cử tự do. Bởi vì, các cơ quan nhà nước phải do những con người bằng xương, bằng thịt (và thông thường ở các xã hội đã phát triển) thuộc các chính đảng nắm giữ, điều hành.
Sau khi được trở thành đảng cầm quyền, thông qua việc nắm giữ và điều hành 2 cơ quan lập pháp và hành pháp, đảng sẽ thực hiện quyền lãnh đạo, quản lí của mình với quốc gia và đất nước.
Vì không thấy được cách thức tổ chức mô hình chính trị của mình là lạc hậu, không dân chủ và vi hiến, Đảng đã “vô tình” tạo ra thể chế chính trị đảng trị theo nghĩa của hình thái “quân chủ chuyên chế” đã cải biên , và do đó cũng đã tạo ra những cơ chế chính trị cho sự sản sinh và nuôi dưỡng đạo chuyên quyền, đức tham nhũng và sự giả dối, thờ ơ ở nhiều cấp, nhiều ngành.
Tại sao bây giờ nền chính trị của chúng ta lại rơi vào tình huống đó, và buộc phải tính đến bước cách tân này? Bởi vì đất nước và con người, nhân dân của đất nước này đã thay đổi.Từ một đời sống, hoàn cảnh sống trên đó sở hữu tư nhân bị tuyên chiến, bị xóa bỏ như một cái gì xấu xa, ghê tởm; xã hội là một khung cảnh vô chủ của những con người vô thân, vô ngã đã bước vào một quá trình sở hữu tư nhân về tài sản, về tư liệu sản xuất được thừa nhận và phát triển mạnh mẽ sau những năm cuối của thập niên 80 của thế kỉ trước : mọi người được lo toan, được suy nghĩ làm chủ, làm giàu không hạn chế cho bản thân mình và vợ con mình; được tự do tiến hành sản xuất-kinh doanh . Đảng viên của đảng cũng được xã hội và tổ chức đảng thừa nhận trở thành những ông chủ tham gia vào quá trình bóc lột giữa người và người trong tổ chức lao động và sản xuất. Đó là một quá trình tha hóa của lịch sử chúng ta, mà chính xác ra phải gọi là một sự khắc phục : con người, lịch sử đã phải đi từ vô thân, vô ngã trở lại hữu thân, hữu ngã, có bản ngã .Qúa trình biến đổi lịch sử này cần phải được xác nhận trong đảng như một qui luật, rằng cho đến nay chúng ta đã có một bộ phận không nhỏ trở lên rất giàu có thông qua cách thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được pháp luật thừa nhận, rằng trong đảng đã có một bộ phận không nhỏ trở thành những nhà tư bản mới.
Cái quá trình khắc phục ấy, tiếc rằng đã kéo theo một bộ phận không nhỏ trong Đảng tham nhũng,thoái hóa, biến chất để trở thành lớp người giàu có bất minh.
Cái lực lượng thoái hóa ấy trong đảng do đã tìm thấy ở thể chế chuyên chế cái cơ sở lí luận và thực tiễn kinh tế cho hành động biến quyền lực của Đảng thành cơ hội, lợi ích, thành tiền bạc cho bản thân, cho vợ con, anh em của mình,cho những đ/c của mình. Điều này ngày càng trở nên rõ ràng, nghiêm trọng và đặc biệt nguy hiểm cho đảng, và đất nước bởi lịch sử nước nhà đang bị chi phối mạnh mẽ bởi qui luật đa nguyên mà chúng ta đã nhìn thấy rõ qui luật ấy đang thấm sâu vào trong lĩnh vực của các quan hệ kinh tế, của các lợi ích kinh tế trong nền kinh tế thị trường, đa thành phần.
Cơ sở lí luận cho lực lượng bảo thủ, giáo điều, thoái hóa ấy chính là cơ cấu, cơ chế quyền lực của đảng được đóng kín như một thứ quyền lực bên trong bóng tối, không bị kiểm soát, không có giới hạn bởi nó đã đứng ở bên ngoài và bên trên nhân dân, trên nhà nước, trên HP và pháp luật vẫn được giữ nguyên như thời kì vô chủ, vô ngã trong cái tình huống khắc phục khách quan (nói trên) của lịch sử và của đảng đang diễn ra mạnh mẽ.
Bộ phận quan chức không nhỏ xấu xí này cùng với những biến đổi khách quan trong đảng nói trên, đang hàng ngày hàng giờ làm cho đất nước ta suy yếu trên nhiều mặt, và Đảng tự diễn biến, chuyển hóa theo hướng xa dân, đối lập và ngày càng mất uy tín trầm trọng với nhân dân. Đảng đang rơi vào tình thế lâm nguy như nỗi lo lắng của chính TBT, của tân trưởng ban nội chính tw, và của nhiều vị lãnh đạo khác trong đảng.
Đổi mới thể chế chính trị theo hướng dân chủ là đòi hỏi bức thiết của nhân dân, và đảng trong cuộc chấn hưng đất nước. Trong nhu cầu ấy, nhiều nhân sĩ-trí thức đã nhìn thấy những mặt tích cực của mô hình chính trị đa đảng.
Tư tưởng về một thể chế đa đảng không đồng nghĩa với ý muốn bác bỏ sự lãnh đạo của đcs –như những lực lượng bảo thủ vẫn gán ghép cho họ-mà nó chỉ muốn đi tìm một sự minh bạch của quyền lực, của sự cạnh tranh chính trị lành mạnh, công bằng. Nhưng có vẻ trong tư duy ấy có một sự dập khuôn về một nhà nước pháp quyền của các quốc gia tư sản đã có chiều dài phát triển hàng trăm năm mới có được.
Một sự dập khuôn như thế đã diễn ra trong suốt một chiều dài đáng buồn của lịch sử xây dựng chính quyền nhà nước, và bây giờ ta lại thấy bóng dáng của nó hiện ra trong mô hình nói trên. Chế độ chính trị đa đảng giờ đây ở VN có thể là một ảo tưởng, vì dễ dẫn đến những khoảng trống của quyền lực xuất hiện, những lực lượng, thành phần cơ hội thừa cơ nhảy ra và kéo theo đó là sự trỗi dậy của tội phạm, của bạo lực khủng bố và li khai… khó bề kiểm soát, chưa kể đến sự ngăn trở từ những xung đột lợi ích xảy ra trong bản thân đảng cũng như mối đe dọa luôn hiện hữu từ phương bắc cho dù có thời gian chuẩn bị từ 2->3 năm của những tư tưởng ấy. Phải có một bước đệm của lịch sử , một bước đi ban đầu nhằm tạo ra tư thế tâm lí trong đảng và thói quen của toàn xã hội trước khi (có thể) bước vào đời sống chính trị đa đảng phái sau này.
Từ những phân tích ở trên, tôi đề nghị:
1/ Công cuộc sửa đổi HP chỉ có thể có được thành quả như một bước ngoặt lịch sử, khi ĐCS nhất định hiểu ra được rằng: Đảng không phải , và không còn là một tổ chức có quyền lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội được mặc định theo cách như trước nữa mà chỉ là một tổ chức chính trị (thuần túy) xét trong mối quan hệ tồn tại với xã hội hiện tồn. Chỉ trở thành một tổ chức có quyền lực, có quyền được ra quyết định, được ban hành các chính sách về tất cả những vấn đề lớn, trọng đại của đất nước từ đối nội đến đối ngoại, từ kinh tế đến an ninh, quốc phòng khi đảng được người dân “thuê”, ủy quyền để trở thành đảng cầm quyền thông qua sự lựa chọn trong một bầu cử tự do có cạnh tranh giữa các đảng viên của đảng, cũng như với các ứng viên tự do qua lá phiếu bầu của nhân dân được tổ chức bởi một Hội đồng bầu cử QG.
2/ Điều đó đòi hỏi Đảng phải dũng cảm, mạnh mẽ trả lại ngay quyền lực chính trị cho nhân dân bằng cách thay đổi nhiều nội dung của Điều lệ trong đó có việc phải bỏ điều 16 chương 3, thay đổi cách thức tổ chức của mình bằng việc bỏ đi tất cả các tổ chức BCHTW, BCT, BBT…ở TW và các cấp ủy, thường vụ ở địa phương, và ở các ngành.
3/Do đó Hiến pháp phải có ít nhất một điều qui định riêng về đảng (bằng việc sửa chữa điều 4 hiện nay).
-ĐCS Việt Nam là một tổ chức chính trị-xã hội đóng vai trò thiết yếu trong chế độ.
-Trở thành đảng cầm quyền, đảng (mới được)thực hiện vai trò lãnh đạo, quản lí của mình đối với quốc gia, xã hội theo qui định của Hiến pháp, pháp luật.
Những thay đổi trên đây, mặc dù cũng rất khó khăn, nhưng đó là phương án cải cách khả dĩ, tối ưu cho một cuộc chuyển biến để Đảng đi lên mạnh mẽ cùng dân tộc vào một tương lai dân chủ, nhân quyền của đất nước và, đó cũng chính là cơ sở lí thuyết và thực tiễn bước đầu cho công cuộc đổi mới mạnh mẽ HP92 nhằm làm cho nó trở thành Tuyên ngôn chính trị của chế độ chúng ta: chế độ cộng hòa-dân chủ trong một thể chế nhất đảng. Ngày 10/3/013
NHC
Tác giả gửi QC
(Bài viết thể hiện quan điểm của tác giả)
nguồn:http://quechoa.vn/2013/03/11/de-dang-khong-tro-thanh-dang-tri/
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001