Ngô Nhân Dụng - Cần đổi luật chơi trên Biển Ðông
at 6/15/2013 02:20:00 PM
Ngô Nhân Dụng
Sau bài viết về cuộc gặp gỡ giữa Tập Cận Bình với Obama ở California,
một người Việt sống ở Ðức đã góp ý kiến. Ông Âu Dương Thệ, nhà nghiên
cứu chính trị, đồng ý rằng hai nước Mỹ và Trung Quốc sẽ không thể vì
vùng Biển Ðông mà gây chiến với nhau; tuy nhiên, số phận dân tộc Việt
Nam sẽ không nhờ thế mà được yên ổn.
Ông Âu Dương Thệ nhắc lại lời Tập Cận Bình nói rằng “biển Ðông đủ rộng
cho hai nước;” ngầm hiểu là Bắc Kinh sẵn sàng chia khu vực ảnh hưởng với
Washington. Nhưng chính quyền Trung Cộng vẫn luôn nhấn mạnh rằng vùng
“Chín đoạn” gồm cả biển Ðông của nước ta thuộc “quyền lợi cốt lõi của
Trung Quốc,” không khác gì Ðài Loan và Tây Tạng. Suy ra, sách lược của
Tập Cận Bình là: Không trực tiếp đối đầu với Mỹ nhưng sẽ tìm cách để Mỹ
không thể can thiệp vào “quyền lợi cốt lõi” của họ.
Bắc Kinh phải làm gì để đạt được cả hai điều kiện, vừa đóng vai chủ nhân
ông khai thác vùng “lưỡi bò,” vừa không “gây rắc rối” để Mỹ lấy cớ can
thiệp? Tiến Sĩ Âu Dương Thệ, như nhiều người quan sát khác, đều thấy
rằng sách lược tốt nhất của họ là làm sao tóm được cả nhóm người cầm
quyền ở Việt Nam, bỏ vào trong túi! Nằm trong túi, phải giữ im lặng,
không bao giờ gây ồn ào dù bị lấn ép.
Hiện nay mỗi lần Trung Cộng lấn bước, chính quyền cộng sản ở Việt Nam
cũng được gửi văn thư lên tiếng phản đối, nhưng họ phải nói trong khuôn
khổ “quan hệ song phương.” Giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam, Nguyễn
Phú Trọng, Nguyễn Tấn Dũng hay Trương Tấn Sang luôn luôn theo đúng đường
lối song phương này, được quy định bằng “16 chữ vàng.” Chấp nhận giải
quyết các bất đồng bằng đối thoại song phương, nghĩa là chỉ được nói
chuyện như các “đồng chí, anh em,” giữa hai đảng cộng sản, giữa hai
chính quyền cộng sản. Họ không được phép nêu các bất đồng trước các hội
nghị quốc tế, cũng không được thưa kiện ra các tòa án quốc tế khi có
tranh chấp về chủ quyền. Giống như trong một gia đình mà người chồng vũ
phu đánh vợ thường xuyên, nhưng lối xóm không thể nào can thiệp vì người
vợ lúc nào cũng chỉ nhỏ nhẹ năn nỉ chồng xin tha, mà không bao giờ lớn
tiếng kêu cứu!
Chúng ta biết rằng năm 1974, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã nộp đơn thưa
kiện việc Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa ngay sau khi hải quân ta không
đủ sức giữ. Ðảng Cộng Sản Việt Nam chưa bao giờ làm một hành động tương
tự, dù Trung Cộng đã chiếm đất, chiếm đảo, và lấn áp nhiều lần.
Khi đã ràng buộc được chính quyền Cộng Sản Việt Nam trong quy tắc “song
phương” này, Bắc Kinh không phải lo có nước khác cản trở việc xâm chiếm
Biển Ðông theo lối tằm ăn dâu của họ. Chiến thuật của Trung Cộng là đặt
cả thế giới trước một chuỗi những “sự kiện đã rồi.” Mỗi tuần, mỗi tháng,
họ lấn thêm một bước bằng các hành động lấn áp. Mỗi sự kiện đã rồi này
đánh dấu một bước thắng lợi của họ, thắng thế trên thực tế hoặc trên
danh nghĩa. Họ tiếp tục tiến từng bước một trên con đường bành trướng từ
năm 1974 đến nay, đặt thế giới trước cảnh “ván đã đóng thuyền.” Năm
1988 họ chiếm thêm một số đảo ở Trường Sa, mở đường cho Mã Lai Á bắt
chước. Trong hai chục năm qua, hải thuyền của họ lấn áp, cướp bóc, giết
hại các ngư dân Việt Nam. Họ đưa tầu chiến hộ tống ngư dân Trung Quốc
vào vùng biển này. Họ đặt ra đơn vị hành chánh Tam Sa để chính thức hóa
việc chiếm đoạt Hoàng Sa và một phần Trường Sa. Họ lập sân bay, tổ chức
du lịch trên các đảo đã chiếm. Họ ngăn cấm các hãng khai thác dầu khí
không được cộng tác với Việt Nam. Họ tấn công các thuyền đánh cá để dần
dần ngư phủ Việt Nam chán nản không dám lái thuyền vào những vùng bị họ
cấm đoán.
Khi Trung Cộng tiếp tục lấn dần, lấn dần mà chính quyền Việt Nam không
công khai phản đối trước mặt thế giới, cũng không lên tiếng trong các
hội nghị, không nạp đơn kiện ra tòa án quốc tế (như Phi Luật Tân đã
làm), thì các nước khác trong vùng, kể cả nước Mỹ, không có lý do nào để
can thiệp. Như vậy là Bắc Kinh có thể đạt được hai mục tiêu một lúc:
Lấn chiếm Biển Ðông mà không gây tranh chấp với Mỹ, vẫn mặc nhiên công
nhận Mỹ là một đấu thủ có mặt trong sân chơi Ðông Nam Á.
Trong cuộc chơi lớn trong vùng này, nhu cầu chiến lược của Trung Cộng là
gì? Trước hết, họ cần bảo vệ con đường thông thương qua Eo biển
Malacca, giữa Singapore và Indonesia. Dầu khí và nguyên liệu cung cấp
cho nền kinh tế Trung Quốc tùy thuộc con đường huyết mạch này. Trung
Cộng không thể bỏ qua bài học lịch sử Ðại Chiến Thứ Hai. Năm 1941 Nhật
Bản phải tấn công xuống Ðông Nam Á; do đó phải gây chiến với Mỹ, cũng vì
con đường tiếp tế này bị Anh, Mỹ ngăn cản. Ðầu năm 1944 quân đội Nhật
Bản bắt đầu thua trận, cũng vì tất cả các tầu chở nguyên liệu và dầu khí
qua đây bị chặn lại. Gia tăng các căn cứ hải quân trong vùng là một bảo
đảm nguồn tiếp liệu cho kinh tế Trung Cộng.
Nhưng các cường quốc Ðông Bắc Á như Nhật Bản, Nam Hàn, cũng đều cần con
đường biển qua vùng Ðông Nam Á, tại sao không nước nào bày những trò lấn
áp hung hãn như Trung Cộng đã thi hành đối với Việt Nam? Vì các nước
trên không sợ họ bị Mỹ ngăn cản. Họ đều là đồng minh của Mỹ, trong khi
Trung Cộng vẫn coi Mỹ là một đối thủ, từ sau cuộc chiến tranh Cao Ly năm
1950. Giữa Mỹ và Trung Cộng còn một mâu thuẫn lâu dài là Ðài Loan. Ðể
củng cố sức mạnh trước khi phải đối đầu trực tiếp với Mỹ, có thể trong
thế kỷ tới, Trung Cộng sẽ bành trướng trong vùng Ðông Nam Á, dùng đó làm
một nơi thử thách. Vừa để thăm dò phản ứng của Mỹ, Ấn Ðộ, vừa đe dọa
các đồng minh của Mỹ trong vùng này. Hơn nữa, trong cuộc chơi lớn này,
Trung Cộng có thể dùng Việt Nam làm nơi thí nghiệm các chiến thuật lấn
lướt, ép buộc, xâm chiếm, trước khi đem thử áp dụng với các nước Ðông
Nam Á khác. Họ đã thử một lần, với Phi Lật Tân, áp dụng các chiến thuật
đã dùng ở Việt Nam.
Nếu Việt Nam bị khuất phục thì kế hoạch bành trướng của Trung Cộng trong
cả vùng Ðông Nam Á sẽ thành công hơn một nửa. Kinh nghiệm từ năm 1974,
1988, cho họ thấy là đối với Việt Nam thì cứ tiến tới, mỗi bước tiến
thêm thì chân họ càng vững chơn. Họ không cần một chính quyền Việt Nam
“thân Trung Quốc,” vì chỉ cần người “thân” khi đối xử ngang hàng với
nhau. Ðối với Trung Cộng thì ở Việt Nam chỉ cần có những người đó “sợ”
họ là đủ. Mỗi lần bị Trung Cộng “nắn gân,” cho tới nay Cộng Sản Việt Nam
đều cắn răng nhịn nhục, như Phạm Văn Ðồng (1958), Nguyễn Văn Linh
(1992) đã làm. Các kinh nghiệm đó khiến cho Trung Cộng khinh thường, sẵn
sàng dùng Việt Nam làm nơi thí nghiệm các hành động xâm lấn, trước khi
áp dụng cho các nước khác trong vùng.
Một lý do khác khiến Trung Cộng muốn kiểm soát vùng Lưỡi Bò, Cửu Ðoạn
Tuyến, là họ tin rằng chung quanh quần đảo Trường Sa có nhiều mỏ dầu
khí. Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng của Mỹ, trong vùng Biển Ðông số
lượng dự trữ dầu khoảng bảy tỷ thùng, nhiều lắm là 20 tỷ; tương đương
với số dầu dự trữ của Trung Quốc bây giờ. Nhưng các nhà khảo sát Trung
Quốc lại đoán rằng trữ lượng dầu trong vùng phải lớn gấp mười lần, tới
200 tỷ thùng; con số lớn hơn số dự trự của Canada (175 tỷ) và gấp đôi
Kuwait. Do đó, họ tin là nếu khai thác được cả vùng lưỡi bò thì số dầu
sản xuất ở đây, đại đa số trong quần đảo Trường Sa; mỗi năm có thể cung
cấp một phần tư nhu cầu năng lượng của Trung Quốc, trong hàng thế kỷ
nữa. Hiện Việt Nam vẫn kiểm soát nhiều hòn đảo nhất trong vùng Trường
Sa. Vì thế, lấn áp được Việt Nam thì sẽ dần dần chiếm được quyền khai
thác tài nguyên dầu khí trong cả vùng.
Ðối với nước Mỹ, quốc gia nào làm chủ các mỏ dầu khí trong vùng này cũng
không quan trọng. Họ chỉ cần bảo đảm tất cả đều cùng theo luật chơi
kinh tế, tức là tự do trao đổi, tự do ký hợp đồng, tự do cạnh tranh.
Trong 30 năm nữa, nước Mỹ sẽ không còn lệ thuộc vào dầu lửa như hiện
nay, vì các nguồn năng lượng mới đang được tìm tòi, khai phá, trên khắp
cả thế giới. Và trong tương lai ngay các xe hơi cũng sẽ không lệ thuộc
máy chạy bằng xăng nữa. Nhưng dù nước nào làm chủ các mỏ dầu, dù công ty
nào trúng thầu khai thác mỏ, thì cho tới nước Mỹ vẫn đứng đầu trong
việc cung cấp các dịch vụ kỹ thuật cho công nghiệp dầu khí; mà trong
tương lai chắc cũng khó nước nào theo kịp. Cho nên nước Mỹ có thể cứ
khoanh tay đứng ngoài các cuộc tranh chấp ở Biển Ðông.
Cuối cùng, chỉ có người Việt Nam phải lo bảo vệ các quyền lợi của mình
trong vùng Biển Ðông. Mà cho tới nay, người Việt thấy rõ ràng mình đang
bị thiệt thòi.
Cho nên, tất cả mọi người Việt Nam đều thấy đã tới lúc quan hệ giữa nước
mình và Cộng Sản Trung Hoa phải thay đổi. Phải đổi luật chơi giữa Việt
Nam và Trung Quốc.
Nhưng thay đổi như thế nào? Làm sao để Trung Cộng phải chấp nhận thay
đổi? Chúng ta có thể theo gương một nước, là Miến Ðiện. Miến Ðiện cũng
từng theo một thứ chủ nghĩa xã hội, từng đóng vai một chư hầu của Cộng
Sản Trung Hoa trong gần hai thế hệ. Bây giờ, họ giao thiệp theo các quy
tắc mới. Mà Cộng Sản Trung Hoa vẫn phải chấp nhận. Chúng ta sẽ xem Miến
Ðiện thay đổi luật chơi như thế nào.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/06/ngo-nhan-dung-can-oi-luat-choi-tren.html
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001