Hồ Trường An - Nguyễn Chí Thiện với tập truyện Hỏa Lò
at 11/30/2013 11:23:00 AM
Hồ Trường An -
Cái tên Nguyễn Chí Thiện
đã được kiều bào biết đến từ khi nhà xuất bản Thời Tập, vào năm 1980 tung ra
thi tập Tiếng vọng từ đáy vực của
anh. Rồi vào năm 1981, nguyệt báo Văn Nghệ Tiền Phong tung ra thi tập Bản
chúc thư của người Việt Nam’ (một tựa khác của Tiếng vọng từ đáy vực’’ của anh).
Vào năm
2002, Tổ Hợp Xuất Bản Miền Đông Hoa Kỳ trình làng quyển tập truyện Hỏa lò của Nguyễn Chí Thiện. Tôi thắc mắc, tại sao anh Nguyễn không viết
hồi ký như Bùi Tín, như Vũ Thư Hiên mà lại viết truyện ngắn? Có lẽ trong thâm
tâm, tôi tin rằng anh Nguyễn viết truyện ngắn không lưu loát và sắc sảo bằng
viết hồi ký. Viết hồi ký chúng ta chỉ cần kể lể sự việc sống thực có sẵn. Còn
viết truyện ngắn, truyện dài thì từ một sự thực, nhà văn phải dùng óc tưởng
tượng dựng nên một vài hoạt cảnh và một vài bối cảnh. Đã vậy, nhà văn còn phải
miêu tả những gì mà đương sự đang nêu ra (tả người, tả cảnh, tả vật, tả luôn
tâm trạng của mọi nhân vật cùng mọi diễn biến v.v...).
Nhưng Hỏa lò làm tôi ngạc nhiên: Nguyễn Chí Thiện thừa
sức viết truyện ngắn với một kỹ thuật điêu luyện. Trên văn đàn hải ngoại, chúng
ta không thiếu gì các cây bút tố Cộng, trong đó có Nguyễn Ngọc Ngạn ăn khách nhất. Nhưng Ngạn viết văn quá ít,
còn kể truyện thì nhiều. Có nhiều khi anh không cần viết văn mà chỉ kể chuyện
rặc ròng, cho nên đương sự không làm thỏa mãn độc giả sành điệu lắm. Anh làm
cho độc giả nghĩ rằng anh là một người ghi chép (un chroniqueur) rất hay, rất
duyên dáng hơn là một nhà văn thuần túy. Trái lại, Nguyễn Chí Thiện nắm bắt rất
vững vấn đề viết văn bắt nguồn từ thần trí sáng tạo mãnh liệt của mình. Sang
lãnh vực viết truyện ngắn, anh làm cho chúng ta có cảm tưởng anh đã quen tay xử
dụng văn chương từ lâu xa rồi.
Hỏa lò gồm 7 ttruyện ngắn: Đàn bò
sữa, Một lựa chọn, ‘Tạc tượng, Những bài ca cách mạng, Phùng Cung, Sương buồn ôm kín non
sông’’, Trăng nước sông Hồng.
Theo tác
giả thì:
Hỏa lò gần Trung ương
nhất
Con
người gần địa ngục nhất
Nhưng qua
sự trình bày và diễn tả của tác giả và
thì cảnh ngộ của tù nhân còn bi
đát và tệ hại hơn nữa. Con người trong cái địa ngục đó thua cả con vật bởi sự
hành hạ cay nghiệt của bọn quản giáo và bọn cai tù. Chúng ta hãy nghe nhân vật
mà tác giả gọi là ‘‘lão già’’, một tù
nhân có tiết tháo và khí phách trong truyện
Tạc tuợng’kể cho viên tù trưởng phòng:
-- Nhà tù thực dân, đế quốc, hiệu quả kém
lắm. Bọn cộng sản không sợ. Chúng coi nhà tù là một trường học. Mà là trường
học thật! Nhiều tên vào không biết tiếng Pháp. Ra tù, đã đọc được sách báo
Pháp. Chúng còn còn có cả tổ chức đảng,
kết nạp cả đảng viên trong tù. Chúng mở lớp huấn luyện chính trị, học tập văn
hóa. Ăn uống đầy đủ, sách báo không tthiếu. Mày cứ đọc những cuốn hồi ký của
chính mấy lãnh tụ cộng sản kể lại sinh hoạt trong tù của họ thì rõ. Thời Nga
hoàng, Lê-nin bị đày ba năm ờ Si-bê-ri. Y đọc sách, viết sách, câu cá, săn bắn,
cưới cả vợ ! Vì thế có ra tù, vào tù, chúng cũng không sợ. Lại nổi tiếng anh
hùng cách mạng! Rút kinh nghiệm đó, cộng sản xây dựng một trại tù kinh hồn,
táng đởm, tiêu diệt mọi sinh lực, mọi ý chí. Thực chất là những trường bắn im
lìm, không tiếng súng. Những lò thiêu
không cần lửa điện. Thằng nào sống sót ra được, mười năm sau, ngủ ở nhà
với vợ vẫn còn thấy ác mộng._
(trang 93)
Đa số
tù nhân, khi còn ở ngoài nhà tù cũng bị tước đoạt sự tự do về các mặt vật chất,
tinh thần, tư tưởng... Nhưng đó là một nhà tù rộng lớn, còn có không khí để họ thở, còn có không gian rộng để họ xoay
trở, đi lại. Nhưng nếu có ai phê bình
chế độ và lỡ xúc phạm chế độ dù vô tình đi nữa cũng đều bị thảy vào tù. Sự tước
đoạt tự do thể chất ở trong tù là kết quả thảm khốc của sự phát biểu tự do. Nhà
tù theo nghĩa đen quá hạn hẹp nên tù nhân dễ bị kiểm soát, dễ bị khống chế, bị
ngược đãi hơn. Họ bị trừng phạt không nương tay của bọn quản giáo và bọn công
an.Trong khi nhà tù ở ngoài cuộc sống là một nhà tù theo nghĩa bóng, nghĩa
tượng trưng nên con người ở trong đó vẫn còn chút tự do tối thiểu.
*
*
*
Ở
truyện ngắn Đàn bò sữa, chúng ta chứng kiến phòng nhốt những nữ tù nhân,
trừ cô giáo ra, đều thuộc thành phần bất hảo. Cô giáo này là vợ một chàng chiến
binh làm ‘‘nghĩa vụ quốc tế’’ bỏ xác (vì bị trúng mìn) trên đất
Căm-pu-chia. Cô chỉ kêu khóc cái chủ nghĩa đó giết chồng cô. Thế là cô bị nhốt
vào ngục Hỏa Lò và đã làm đơn xin ân xá hai lần rồi mà đơn vẫn chưa được cứu
xét. Cô sinh con trong tù. Đứa bé ốm đau quặt quẹo vì thiếu sữa làm các nữ tù
nhân khác cảm thông đau xót.
Đương
ở ngoài bước vào phòng như bước vào lò hấp. Phòng nữ tuy không quá đông như các
phòng nam, nhưng cũng chật ních. Mùi cầu tiêu, mùi mồ hôi, mùi máu mù ghẻ lở,
lậu, giang mai, kinh nguyệt, quện vào nhau, lan tỏa. Tệ hơn phòng nam. Các ả
đói meo, gầy teo, da dẻ nhăn nheo, ghét bẩn, đầu tóc bù xù. Những đường cong
tuyệt mỹ trở thành những đường thẳng
khẳng khiu, không thể gọi là phái đẹp được nữa. Trừ những những mụ tham ô, buôn bán, và dăm bảy ‘‘nữ
quái’’ trấn lột của người khác mà ăn là
còn chút có da, có thịt.
Buổi chiều đếm tù xong, mụ quản
giáo khóa phòng lại. Trong phòng, gần hai trăm ả, kẻ cởi quần, kẻ cởi
áo, nằm, ngồi ngổn ngang, lấy những miếng giẻ con, thấm máu mủ, ghẻ lở cho
nhau. Mấy mụ tự giác, mấy nữ quái, phanh
ngực, ngồi ở đầu phòng, gần cửa, chuyện trò.
(trang 23)
Trong
số gần 200 nữ tù nhân, nhưng tác giả chỉ
đưa ra 3 nhân vật chính và thêm thằng bé, một nhân vât tí teo chỉ biết khóc
quấy nhưng không có nói một câu. Trong 3 nữ nhân vật chính, ngoài cô giáo ra,
có mụ trưởng phòng vốn là cựu đảng viên nhờ làm việc hộ lý cho các chuyên gia y
tế Tiệp-khắc. Sau đó mụ được Đảng cho lấy chồng, nhưng mụ nhúng tay vào vụ tham
ô 20 tấn gạo mà bị tội. Còn nữ nhân vật thứ ba là một nữ quái bị tội vì ra vào
sứ quán để ‘‘phò Tây’’ (ngủ với Tây), lại còn bị gán tội gián điệp.
Nữ
quái thương xót thằng bé thiếu sữa nên tính ngủ với tên công an để được một hộp
sữa. Cô ta để cho hắn sờ soạng bộ ngực của mình. Nhưng tên này chì sờ nắn rồi
nuốt lời. Cô ta nghĩ kế gài bẫy hắn. Lần sau, khi hắn thò tay qua song sắt
để mân mê nắn bóp ngực cô thì nhanh như
cắt cô tháo chiếc đồng hồ Seiko của hắn. Cô hăm he hắn nếu hôm sau hắn không
đem 6 hộp sữa lại thì cô sẽ đem đồng hồ trình Ban Giám Thị. Thế là thằng bé có
sữa để bồi dưỡng. Rồi trong vòng một
tháng lại có thêm 3 thằng võ trang đến nộp sữa cho nữ quái.
Thằng bé nỗi rôm sẩy vì thời tiết nóng.
Nó chết. Cô giáo hóa điên, bị đưa tới trại giam người điên ở Châu Quỳ, Gia Lâm.
Câu chuyện thê thảm; nhưng trong bạo
hành bạo lực vẫn sáng lên đâu đó tình người. Căn tánh, bản năng của con người
Cộng Sản đi ngược giáo điều khô cứng và không tưởng của chủ nghĩa của họ. Bọn
cán bộ cộng sản tin tưởng và thường hay đề cao giáo điều của bọn chúng, nhưng
sống và hành động khác hẳn giáo điều; bọn hắn vẫn tham lam, lừa đảo, đạo đức
giả, bén nhạy với sự cảm ứng của nhục dục... Trái lại, ở lớp cặn bã xã hội có
những kẻ có thiện căn như cô nữ quái. Cô ta làm sáng rực niềm tin cho những ai
nhìn cuộc đời qua khía cạnh xấu xa, tiêu cực. Những kẻ có tấm lòng trong sáng
này sống rất chân thành. Họ làm việc thiện theo sự hướng dẫn của thiên lương,
của tấm lòng cảm thông thâm thúy đối với kẻ đồng cảnh ngộ với mình, nhất là kẻ
này bị dồn tới bức tường cuối cùng. Họ không hay nói chuyện đạo đức, nhưng họ
sống bằng tấm lòng nhân đạo, một khía cạnh của đạo đức. Cái nhục cảm của câu
chuyện gần gũi với cái không khí (ambiance) trong truyện ngắn Chí Phèo của
Nam Cao: tàn nhẫn mà thương tâm. Nhưng lạ thay, cái nhục cảm trong Đàn bò sữa
không khơi dậy cảm ứng dục tình người đọc. Trái lại nó chiếu sáng rực trong
cõi thưởng ngoạn của chúng ta tấm lòng nhân ái và sự hy sinh cao cả của một phụ
nữ bụi đời. Còn cái nhục cảm trong Chí Phèo tuy vẫn là động cơ thúc đẩy
hai nhân vật chính (Chí Phèo và Thị Nở) đến chỗ bộc lộ hết bản năng thầm kín
của họ và đưa họ đến thảm kịch, Nhưng khi đọc xong truyện ngắn của Nam Cao lẫn
truyện ngắn của Nguyển Chí Thiện, độc giả không còn bàng hoàng với cái hâm hấp
dục tình lảng vảng trên những dòng diễn
biến của câu chuyện, mà họ lại cảm thấy tấm lòng mình ray rứt mối thương tâm.
*
* *
Truyện ngắn Một lựa chọn được diễn
tả dưới hình thức lá thư hay là một câu chuyện kể của một tù nhân viết từ bệnh
xá Hỏa lò cho nhân vật mà đương sự
gọi bằng chú.
Tù nhân này (tức là nhân vật xưng cháu
mắc bệnh lao) cùng nằm cuối phòng với hai kẻ mắc bệnh lao khác và với một kẻ
mắc bệnh tim. Bốn người chia nhau 2 cái giường. Phòng chỉ có 6 cái giường, bệnh
nhân thuộc loại lưu manh, trộm cắp ngoài xã hội. Khi vào tù, họ không được tiếp
tế, không có áo ấm. Bệnh nhân nằm trong bệnh xá như nằm trong nấm mồ tạm thời,
đợi ngày được đem chôn vĩnh viễn. Đa số mang chứng kiết lỵ dễ chết và
chết mau hơn bệnh lao và bệnh tim. Trong
số 6 tên bị chứng kiết lỵ có mặt trong truyện thì đã có 3 tên chết. Lại có một
tên mắc bệnh giang mai, chưa chết vì bệnh gốc của mình mà lại chết vì bệnh kiết
lỵ.
Cảnh đói lạnh trong bệnh viện được tác
giả diễn tả bằng một bút pháp gọn gàng và trong sáng, nhưng nó như những vết
roi độc địa quất mạnh lên một chế độ vô nhân đạo, làm độc giả bần thần
xốn xang.
... Ba thằng ho lao chúng cháu ngồi chùm chăn, ôm lưng nhau. Cả bệnh xá ngồi
như vậy. Trừ gã đau tim và vài gã quá
yếu. Tất cả chúng cháu đều run lẩy bẩy. Chẳng khác gì đang lên cơn sốt rét.
Những cái chăn chỉ đủ cho con bệnh đắp qua, thối khẳn, hàng năm mới được nhúng
nước qua loa, gọi là giặt. Chúng cháu vẫn phải chùm kín mặt, kín đầu. Rét từ
trong xương, trong tủy rét ra. Rét như kim đâm vào da thịt nứt nẻ, ghẻ lở. Giá
có thanh củi đốt lên sẽ xua tan cái lãnh
khí, lẫn tử khí. Sinh khí sẽ được duy trì, sưởi ấm. Ao ước thế, giống
như giữa mùa đông mà ao ước mùa hè, giữa
đêm đen mà ngưỡng vọng mặt trời. Nửa
đêm, thằng ôm lưng cháu tự nhiên nấc mấy cái, thổ máu ra vai cháu. Chúng cháu tung chăn, dìu nó ra
thùng phân. Nó ộc tới nửa lít máu. Máu
đỏ tươi, vón lại từng cục như những miếng phổi tung tóe ...
(trang 42)
Kẻ đau tim chết, ba bệnh nhân ho lao chậm khai báo với quản
giáo để được có 4 suất cơm. Cả ba chia suất cơm của kẻ vừa chết.
... Cơm chia xong, tên tự giác phụ trách
bệnh xá khóa cửa lại. Bọn kiết lỵ, tháo tỏng ăn loáng một cái đã hết, uống mỗi
thằng một ca nước cho đầy. Đó là phuơng pháp chống đói của chúng cháu. Nước
lạnh ngắt. Chúng cháu rét run lên, ngồi ôm lưng nhau chùm chăn, đợi bữa chiều.
Ba thằng ho lao chúng cháu ngồi quây lấy xác chết. Bốn suất cơm để trước mặt.
Cháu vốn tin là con người có linh hồn, nên lầm rầm khấn, mời linh hồn tên chết
về dùng cơm, và tha tội chúng cháu. Suất cơm gian lận được chia đều. Ấm bụng
hơn một chút. Ông chú chưa bị đói triền miên bao giờ, nên không bao giờ hiểu
nổi tầm quan trọng của thìa cơm trong cảnh tù tội. Phạng nhau vỡ sọ cũng vì nó.
Đến trưa, cháu muốn gọi báo việc gã đau tim chết. Thằng bạn ho lao tham lam,
muốn tối mới báo. Làm thêm một suất chiều nữa. Cháu cuơng quyết không nghe.
Cháu sợ nhỡ phát hiện, quản giáo sẽ mang cùm vào, cùm chân lại. Ở bệnh xá mọi
vi phạm nội quy, như hút thuốc lào chẳng hạn đều bị cùm hằng tuần, kể cả đang
ốm nặng. Có thằng đã chết trong cùm...
(trang 44)
Trong hai tên bạn ho lao của nhân vật
xưng cháu, một tên còn ở lại bệnh viện, còn tên ho ra máu cùng nhân vật xưng
cháu bị chuyển trại. Dọc đường, tới Phủ Lý, tên ho ra máu vì xe bị dằn xóc nên
ộc ra hàng lít máu nên phải thiệt mạng. Nhân vật xưng cháu được đưa đến trại
Thanh Phong. Ở đây, đương sự được các tù ngụy quân bị giam ở đó cưu mang, cho
thuốc, cho ăn vì họ được gia đình tiếp tế. Đương sự được sống sót nhờ tình
thương của các ngụy quân đó. Bốn năm sau, anh ta được tha, rồi lập gia đình.
Anh ta đã trải qua một thời sống dở chết dở nên có quan niệm như sau:
... Cháu tù hai lần. Tổng cộng là mười năm. Nhà tù đã dạy cháu chịu
đựng, kiên nhẫn. Cháu rất quý cuộc sống. Xét cho cùng, sống vẫn hơn chết. Nhưng
phải thành thực nói với ông chú, nếu bây giờ bảo cháu phải chịu mười năm tù
ngục đằng đẵng, khổ nhục hơn con bò, con lợn, cháu cương quyết chọn cái chết.
(trang 45)
Truyện ngắn này viết bằng
thuyết thoại (la naration) chứ không
bằng miêu tả (la description). Lại
nữa, nếu nó được viết bằng hình thức lá thư thì lá thư không thể viết ở tại
bệnh viện Hỏa Lò, hay viết khi nhân vật xưng cháu khi còn ở trong nước. Nó phải
viết khi đương sự thoát ly ra hải ngoại vì thư từ của tù nhân dù là cựu tù nhân
đi nữa dưới chế độ Xã hội Chủ nghĩa vẫn bị kiểm duyệt gắt gao.
Nguyễn Chí Thiện khi vào tù
mới biết rõ chân tướng của những bại
binh mà bọn Cộng sản gán cho danh từ ‘‘ngụy quân’’. Nhân vật xưng cháu được đưa
về trại Thanh Phong tức là trở về cõi sống dù là cõi sống bị đóng khung, bị đè
nén bởi bạo quyền, bởi sự báo thù một
chế độ thời quá khứ ở Miền Nam Việt Nam. Ở đây, anh ta được những kẻ trước kia
ở bên kia giới tuyến với anh, không phải là những con quỷ đội lốt người như bọn
Cộng Sản đã từng tuyên truyền. Trong cảnh nhục nhằn cơ cực, họ vẫn giữ tấm lòng
tương thân tương trợ; căn tánh tốt lành của họ vẫn còn nguyên vẹn. Có kẻ vì
quẳng cho nhân vật xưng cháu kia một chút bo bo mà bị cùm kẹp. Trong nghịch
cảnh, cái con người thánh thiện của họ không bị bức tử, không bị che mờ để rồi
có dịp mà bừng dậy để thắp sáng tình người.
*
* *
Truyện ngắn thứ ba là
Tạc tượng. Cũng vẫn là phòng giam ở ngục Hỏa Lò. Ở đây, tên tù trưởng có
kinh nghiệm lấy uy lẫn lấy ân để cai quản bọn tù vốn là bọn lưu manh và là bọn
trộm cướp ở ngoài đời. Ngoài các tên tự giác, tên thọt, tên trưởng phòng và các
tù nhân khác, đặc biệt có một viên kỹ sư được đào tạo bên Pháp xin về Việt Nam
để phục vụ đất nước. Anh ta bị tù vì dám góp ý với các tên chóp bu ở nhà máy
Trần Hưng Đạo về vụ cải tiến lề lối làm việc. Hắn ta bị tròng vào đầu tội phá
hoại uy tín của giới lãnh đạo nhà máy, tội khích động các công nhân nhà máy. Và
nhất là tội làm gián điệp. Ông chấp pháp bảo rằng sang Pháp sung sướng nhưng
tại sao anh ta lại về đây? Ngoài ra còn có tên thợ sửa đồng hồ dạo bị tội vì đã
rao ‘‘hồ hỏng, hồ vỡ, sửa chữa’’. Rao theo kiểu đó là xúc phạm anh linh ‘‘Hồ
chủ tịch’’, có dụng ý xấu.
Ngoài ra, có kẻ mới vào là
một lão già có tiết tháo, có khí phách. Tiểu sử của lão mơ hồ. Lão bị buộc tội
là đã hoan hô Hoàng Văn Hoan, hoan hô đại quân Trung Quốc sẽ sang giải phóng
Việt Nam. Nhưng lão không nhận tội đó. Tên chánh giám thị lại còn bảo rằng lão
ương ngạnh chống đối với các cán bộ. Nhưng lão đính chánh:
-- Tôi
chống đối là
chống đối Chủ nghĩa Mắc-lê, chống đối cái chế độ xây dựng trên chủ
nghĩa ấy. Đó chỉ là một sự bất
đồng về quan điểm chính trị. Ở một xã hội dân chủ bình thường, tôi không
thể bị
bắt giam. Mục tiêu của tôi là thế. Chứ không phải là vào Hỏa Lò này để
chống lại mấy ông quản lý trại giam. Tôi ở đây gần ba năm, chưa bao giờ
vi phạm nội quy, chưa bao giờ có lời nói hoặc thái độ nào coi thường
các cán bộ. Có thể chỉ vì tôi không
xưng cháu với các ông ấy, nên bị coi là bướng bỉnh. Hôm nay, nhân gặp
ông đây,
tôi xin nói thẳng. Mục đích cải tạo là để tội phạm trở thành người tốt,
có nhân
cách. Phạm nhân luôn xưng cháu với các cán bộ có khi ít tuổi hơn họ
nhiều, là
họ tự bỏ mất nhân cách của họ. Cần phải cấm, không cho họ xưng hô quỵ
lụy như thế. Nghĩa là bắt họ phải tự trọng, giữ
lấy tư cách làm người. Sau đó mới cải tạo thói hư, tật xấu của họ được.
(trang 53)
Bên bọn cai tù gồm có tên
chánh giám thị, tên quản giáo, các tên công an võ trang v.v... Cảnh tù được thu
gọn vào căn phòng giam đầy nhóc người. Một số tù nhân phải bị nhét vào nhà mét
(tức là cầu tiêu). Suốt ngày, ba đợt tù từ các nhà giam ở các quận Hai Bà, Đống
Đa, Hoàn Kiếm, Ba Đình chuyển về. Do đó mà 20 người mới vào phải dựa vào tường
mà ngủ, đêm sau sẽ có người thay thế. Ngủ kiểu đó được gọi là tạc tượng.
Căn phòng giam bẩn thỉu,
chật chội, ngột ngạt. Bọn quản giáo thì hà khắc. Cách quản chế ẩm thực biến con
người thành thú vật, lúc nào cũng chỉ nghĩ tới ăn uống. Tên tù trưởng (tức là
viên trưởng phòng giỏi việc cai trị tù nhân) vốn quyền biến, biết áp dụng ân uy đúng chỗ, đúng lúc nên anh
ta làm cho việc an ninh trật tự trong phòng giam được thi hành nghiêm chỉnh. Sự
xuất hiện của lão già làm viên tù trưởng vui mừng vì có bậc đàn anh tâm giao
khả kính. Hắn gọi lão là đại ca, đối xử rất thành thực, cung kính và thân ái.
Ở truyện ngắn này, có tên
tù được gia đình tiếp tế. Sau khi lãnh lương thực, hắn mở ra ăn thì tên quản
giáo sai hai tên tự giác khám mình mẩy
hắn ta. Tới khi vạch hậu môn hắn ta ra, chúng bắt gặp cục thuốc lào bọc
ni-long. Thế là quà tiếp tế bị tịch thu. Tên quản giáo bắt nhét cục thuốc lào
vào mồm nạn nhân, may nhờ có lão già can thiệp nên lệnh tên quản giáo được thu
hồi.
Ở đây thú hút thuốc lào được
các tù nhân chiếu cố đặc biệt. Tên tù trưởng lươn lẹo với các tên quản giáo
(bắt nọn, bắt thót bọn chúng ở thói tham nhũng) để có thuốc lào. Sự xuất hiện
của lão già làm phòng giam dễ thở hơn. Với kinh nghiệm trong nhà tù, với niềm
thông cảm bao la, lão dàn xếp để cho những kẻ không được tiếp tế hưởng lây một
ít thực phẩm. Vắng mặt bọn quản giáo và bọn công an, tên tù trưởng và lão cùng các
tù nhân bày thuốc lào ra hút. Tên tù trưởng và lão già tương đắc nhau nên họ ưa
tâm tình với nhau:
... Đêm mãi rồi cũng phải sáng. Chỉ cần một
phần dân số như đại ca với em, thì độc tài phát-xít, độc tài cộng sản, chẳng
thằng độc tài nào cai trị nổi ! Cộng sản
làm chủ đất tnước, cũng như em đây làm chủ căn phòng này, là nhờ có bạo lực.
Nhưng kinh nghiệm xương máu cho bọn đầu gấu chúng em biết cai trị bằng bạo lực
chỉ hữu hiệu nhất thời, không bền. Ở các phòng khác,‘‘đảo chính’’, đâm chém xảy
ra luôn. Em sở dĩ nắm chính quyền được ở đây đã bảy tháng nay, mà không xảy ra
bạo loạn, là vì em giới hạn việc dùng bạo lực. Em không trấn lột ai, không lừa
bịp ai, không đàn áp vô lý ai, xử phạt nghiêm minh. Nhiều khi còn che chở, giúp
đỡ bọn rận rệp, tạo điều kiện cho tất cả được thoải mái đôi chút. Khi có nhiều
thuốc lào, em vẫn phát cho cả phòng. Thằng nào ốm yếu, em miễn cho khỏi nằm nhà
mét. Không để thằng nào bắt nạt thằng nào. Do đó, chúng sợ em mà không căm
thù em. Em hơn cộng sản là ở chỗ đó! Cộng sản chỉ thuần túy dùng lừa bịp, áp
chế, bạo lực. Chúng lừa bịp một cách
trắng trợn, bạo lực một cách quá đáng. Chúng tồn tại không lâu nữa đâu. Đó là
điều chắc chắn.
-- Không ngờ đầu óc mày thông minh như vậy.
Nhận định của mày đúng lắm. Nhưng cái ‘‘không lâu’’ của lịch sử nhiều khi bằng
cái ‘‘quá dài’’ của đời người. Hy vọng lớp tuổi mày sẽ được ngày mai tươi đẹp.
Lớp con cháu sẽ được cứu vớt.
-- Cũng nhờ đại ca chỉ bảo trước kia. Bản
chất em vốn không phải là thằng lưu manh. Em có bao giờ trộm cắp của tư nhân
đâu. Em toàn đột các kho hàng của nhà nước. Chúng nó cướp của dân, em cướp lại
chúng một tí. Thấm thía gì! Nhưng từ khi gặp đại ca, em đã đi làm nghiêm chỉnh.
Em tự kiểm điểm, em còn thấy mình lương thiện gấp vạn lần bọn lãnh tụ Đảng!
-- Ở một xã hội bình thường, mày có thể
trở thành một nhân tài vì mày thông minh. Nhưng thực tế của xã hội cũng dạy cho mày những kiến thức
quý báu mà nhiều đại trí thức không có. Xét cho cùng, cuộc sống là cuốn sách vĩ
đại nhất. Tất cả cuốn sách khác đều sao chép từ nó...
(các trang 77, 78)
Nguyễn Chí Thiện dù mô tả cảnh ngục tù
với cái thực chất ‘‘địa ngục chốn trần
gian’’ nhưng anh không hoàn toàn dồn tù nhân đến tận đầu mút của đau khổ, tuyệt
vọng đâu. Lâu lâu, anh ‘‘xả xú báp’’ để cho nỗi khổ đau bớt căng phồng trái tim và lồng ngực. Lão già
và viên tù trưởng gặp nhau để tìm đôi chút tâm tình, và tìm được bạn đồng tâm
tương ứng, có thể làm cho độc giả cảm thấy các tù nhân được xoa dịu những cay
cực của thể xác. Có vậy tinh thần của tù nhân được an ủi ở hiện tại và trong
những ngày sắp tới. Có vậy, dù cuộc sống không cho họ một chút lạc quan thì
những cách cư xử của viên tù trưởng cùng sự
giúp đỡ và can thiệp của lão già giúp họ tự thắp lấy ánh sáng ở nội giới
mình. Và cũng nhờ vậy, họ đủ can đảm đương đầu với mọi trắc trở sắp tới và đủ
can đảm chịu đựng để được sống sót.
Cảnh bi thảm nhất là một tên tù nửa đêm
rên rỉ thống thiết đòi nước cam, nước chanh đá, cháo gà và gọi ‘‘sao em không tiếp tế cho anh?’’ (sic).
Sáng ra, cả phòng phát giác hắn đã chết. Thì ra, trong cơn hấp hối, hắn chỉ còn
nhớ tới cái ăn ngon mà suốt thời gian trong cảnh tù đày hắn không được hưởng
những món mà hắn đã từng mơ ước. Dư hương và dư vị miếng ngon gợi nên nỗi thèm
khát bị dồn ép tới tận đáy thẳm của tiềm thức mà thường nhật hắn có thể nén
nhịn, không dám bộc lộ ra. Nhưng trong phút lâm chung, những cái dồn nén từ tâm
khảm trồi lên bình diện ý thức. Sự kềm hãm như cái đập nước yếu ớt bị nước cuốn
phăng.
Tên tù chết trần truồng. Tên thọt cho xác chết cái quần. Gã ‘‘hồ hỏng,
hồ vỡ’’ cho hắn cái áo. Lão già và viên tù trưởng cảm động trước nghĩa cử ‘‘thố
tử hồ bi’’ ấy, thưởng cho cả hai ‘‘kéo một hơi tới lăn đùng ra’’ (sic).
Cái chết của kẻ bất hạnh
vắn số làm cho những kẻ còn sống sót ngồi gần lại với nhau. Cho nên:
... Tù
trưởng tuyên bố:
-- Tối nay
cho tất cả bọn bay mỗi đứa bắn một phát.
Tất cả ồ
lên nhau nhau:
-- Hoan hô
tù trưởng! Hoan hô tù trưởng!
Một tên
khoái quá la lớn:
-- Tù
trưởng muôn năm!
Tù trưởng
mắng:
-- Muôn
năm ở đây để bỏ mẹ tao à! Chúc đéo gì lại chúc kiểu ấy!
Cả phòng
cười ầm lên vui vẻ.
(trang 97)
Xác chết phải được đưa về
bệnh viện Bạch Mai hoặc bệnh viện Việt Đức. Thì ra, mọi xác chết ở ngục
Hỏa Lò phải đưa tản khắp các bệnh viện ở Hà Nội. Con số tử vong ở nhà
tù phải được
bảo mật. Nhà cầm quyền không dám cho dân chúng biết con số tù nhân bị
chết ở
nhà tù vì bọn Cộng Sản sợ bị để lộ ra
chính sách cai tù tàn ác của chúng. Chỉ cần đưa xác các tù nhân về bệnh
viện,
bọn chúng có thể đổ hô là tù nhân chết vì bệnh và trước khi chết họ được
bệnh
viện săn sóc tử tế.
*
* *
Truyện ngắn thứ tư có cái
tựa Những bài ca cách mạng. Nhân
vật chánh là gã giáo viên bị nhốt trong Hỏa Lò 21 tháng. Gã dạy môn Trung văn
(tiếng Trung Quốc). Vào thời kỳ Trung Quốc và Việt Nam gây hấn nhau, cái tội vô
lý bỗng trút lên đầu hắn. Tác giả trình bày tội trạng hắn như sau:
Vào nằm Hỏa Lò, gã mới
nhận ra tuy là sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa nhiều năm, gã vẫn chưa hiểu
sâu sắc về chế độ. Gã không ngờ rằng việc gã giỏi Trung văn, đọc báo, nghe đài
Trung Quốc, giao thiệp với người hàng xóm Trung-Hoa, như gã vẫn làm từ mấy chục
năm trước, nay bỗng trở thành trọng tội. Gã đã thiếu nhạy bén trước những bước
ngoặt của lịch sử. Khi tình nghĩa đào viên Trung Việt đã tan tác, đáng lẽ gã
phải sống khác. Sai lầm của gã là ở chỗ
đó. Vợ chồng gã chia lìa cũng là ở chỗ
đó.
(các trang 130, 131)
Gã giáo viên bị buộc tội
không điềm chỉ kẻ nào dám bôi chữ ‘‘Ta’’
trên hàng chữ Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta để biến thành ‘‘một câu
phản động cực kỳ láo xược’’ (sic) do tên chấp pháp buộc tội. Cái tẩy nẩy cái
ung. Gã còn bị buộc tội dám cho rằng
định luật bảo tồn năng lượng là của Lavoisier tìm ra trước, trong khi tên chấp
pháp khẳng định luật ấy do nhà bác học Lomonosov phát minh ra. Gã còn bị buộc
tội: ‘‘Khi nhìn tranh thằng Quan Vân
Trường, hắn còn tấm tắc ca ngợi lòng trung kiên của nó, tuy thân ở Tào, nhưng
lòng vẫn ở Hán. Ý đồ muốn khích động quần chúng noi gương thằng Quan Vân
Trường, thân tuy ở Việt Nam, mà lòng ở Trung Quốc...’’ (sic).
Vào tù, gã giáo viên gặp
tên quản giáo vốn là học trò cũ của mình. Tên này tuy tỏ ra hách dịch nhưng vẫn
nới tay cho ông thầy cũ của mình, chẳng phải hoàn toàn nặng nghĩa thầy trò mà
phần lớn là y ta muốn tìm hiểu về kiến thức, văn hóa nên nhờ gã giảng dạy những
điều mà y ta thắc mắc.
Ngày 30 Tết, các tù nhân
được tiếp tế. Đang lúc họ ăn uống thì bọn công an vũ trang bất nhân tập kích
bất thần để tịch thu các thức ăn ngon của tù nhân để đem về nhà ăn. Mọi người
đều uất ức. Một tên tù ca sĩ hô hào mọi người cùng hát cho đỡ buồn. Đây là
những bài ca cách mạng mà thời ‘‘kháng chiến chống Tây’’ thường được hát. Những
bài hát đó trước kia có ý nghĩa thiêng liêng về vụ cổ động tinh thần độc lập tự
do, bây giờ trở thành mỉa mai lại chế độ Cộng Sản. Bài Quốc tế ca có những câu như sau :
Vùng lên, hỡi các
nô lệ thế gian!
Vùng lên, hỡi ai
cơ khổ bần hàn!
Và đây là bài Diệt Phát-xít
:
Nào nhà tù, nào
trại giam, biết bao nhiêu cực hình...
Diệt Phát- xít với bầy chó đê hèn của
chúng...
Để chờ
ngày trả mối thù chung.
Và đây là bài Chiến sĩ lục
quân Việt Nam :
Lời
kêu thiên thu phá hết lao tù!
Giết hết quân
thù!
Tù nhân dùng bài mà bọn ’‘cách mạng’’ thuờng suy tôn để xỏ xiêng lại bọn chúng theo
kiểu‘‘gậy ông đập lưng ông’’,‘‘đạp gai lấy gai mà lể’’ (tiếng Bắc gọi là
nhể ). Thế là bọn công an vũ trang xông vào dùng báng súng A K đánh đập tù nhân
một cách dã man. Gã tù nhân được mệnh danh là ‘‘gã thuốc phiện’’ vốn là đảng
viên, cựu đại úy quân đội hăm he tố cáo bọn công an cướp lương thực của tù nhân
để chè chén. Thế là tên thượng úy công an phải giảng giải. Bọn tù mới được yên thân. Gã thuốc phiện (tức là buôn
thuốc phiện lậu) vào dịp Tết chỉ ao ước là nếu Trời đất thay đổi, lũ công an sẽ
vào tù, đương sự sẽ là ‘‘cai ngục nhỏ bé’’.
Mấy bài hát này chứng tỏ
chế độ Cộng Sản làm những gì mà họ đã từng chửi bới, công kích. Và theo vết
chân của chế độ Phát-xít, họ bày ra những hình thức bạo lực khác, thiên biến
vạn hóa bạo lực để những kẻ chóp bu của đảng cấp thống trị dễ bề củng cố quyền
lực và bóc lột dân chúng. Quyền lực là mục đích tối thượng của họ, tất cả sự áp
chế của họ đều trở thành phương tiện.
Cảnh địa ngục trần gian
trong Hỏa lò được thể hiện ở cảnh giam cầm trong cát-xô qua câu truyện
của tên trùm đầu gấu kể cho gã giáo viên nghe:
Tên trùm đầu gấu kéo ống
quần lên:
-- Ông anh
nhìn vào cái sẹo ở cổ chân em đây thì
biết. Gân đứt, thọt mẹ nó rồi, không chữa được. Cát-xô ở phía góc Hỏa Lò, đằng
kia kìa. Có hai lần tường bọc. Ban ngày phải bấm đèn pin, mới nhìn được. Vào
cát-xô chỉ được mặc quần đùi! Không được mang theo bất cứ thứ gì, kể cả khăn
mặt. Bọn em nằm trên nền xi-măng. Thực tế là trên một bể chứa phân. Phía dưới
chân là một rãnh nước. Ngày đêm một mùi thum thủm, khắm khú bao trùm. Mỗi ngày
chỉ ăn được một bữa. Chúng em gọi là ăn ‘‘dồn toa’’ , hai bữa làm một. Ăn bốc, không thìa, không bát. Cơm đựng trong
túi ni-lông. Không có bô. Đi ngoài ngay lên chỗ mình nằm. Rồi tay bốc phân, ném xuống rãnh. Hồi đó,
cách đây hai năm, phụ trách cát-xô là một thằng quản giáo trung úy lùn, mắt
híp. Chúng em gọi là ‘‘thằng Híp’’. Ở cát-xô có tám lỗ cùm bằng bê-tông nham
nhở. Lỗ số 8 là lỗ khốn nạn nhất. Em bị
đưa chân vào lỗ đó. Khi ba thằng chúng em để cổ chân vào lỗ cùm rồi, nắp cùm là
thỏi bê-tông dài ba thước, được ập xuống. Một thằng tự giác đứng ở trong
coi. Thằng Híp ra ngoài khóa cùm. Nó nhảy lên nắp cùm, bên kia tường, để nắp
cùm sập hẳn xuống, rồi khoá lại. Khi nó nhảy, nó cười như một thằng điên. Còn
chúng em thì rú lên, ngất đi. Cổ chân bị nghiền vỡ. Em cùm lỗ số 8 nên chỉ có
12 tiếng là được đổi sang lỗ khác. Cùm ở
cát-xô lâu nhất là một tuần. Sức người không chịu quá nổi. Có tên đến ngày thứ
ba đã toi mạng.
(các trang 118, 119)
Tác giả Nguyễn Chí Thiện cho
rằng ở ngục Hỏa Lò con người gần với con vật nhất. Có lẽ anh nghĩ rằng các tù
nhân trong hoàn cảnh mà nhu cầu của dạ dày, nhu cầu của thân xác bị bức bách
tối đa, cho nên mọi bản năng thú tính của họ bị bóc trần ra. Nhưng chúng ta còn
có thể nghĩ thêm: ở Hỏa Lò, bọn cai tù gồm những tên quản giáo và những tên
công an vũ trang vì nắm được quyền lực khống chế những kẻ yếu thế hơn mình cho
nên bản năng tàn bạo của chúng được dịp hiển lộ, con ác quỷ tiềm phục ở nơi
chúng được dịp thoát cũi xổ lồng... Đảng và nhà nước của Xã hội Chủ nghĩa rất
cần cái bản năng tàn ác của kẻ thống trị lẫn cái bản năng hèn nhát của kẻ bị thống trị (của bọn tự giác chẳng hạn)
để củng cố nền tảng của chủ nghĩa được xây dựng trên bạo lực của chúng.
Trong truyện ngắn Những bài ca cách
mạng, chúng ta được thấy có sự hiện diện con trai của nhà thơ Nguyễn Xuân
Sanh (ông Sanh trong nhóm Xuân Thu Nhã Tập vào thời tiền chiến). Tên này can
tội trộm cắp ở sứ quán (tác giả không nói sứ quán của nước nào). Hắn đã vào tù
nhiều lần, nhưng có bố hắn vốn là công an tìm cách can thiệp cứu hắn. Hắn cho
biết vài hôm sau hắn sẽ được phóng thích để trở về nhà ăn Tết. Và hắn còn cho
biết thêm hiện giờ thằng con trai của Huỳnh Tấn Phát cũng bị nhốt ở phòng 12 vì
tội xách súng đi ăn cướp, và cũng như hắn, tên quý tử họ Huỳnh này cũng đã phạm
tội nhiều lần rồi, lần nào cũng được tha sau khi bị cầm tù một thời gian ngắn
như hắn.
Riêng về gã giáo viên được tên quản giáo
vốn là học trò cũ của gã hứa sẽ nhờ bố của hắn (vốn là thiếu tướng công an) can
thiệp và cứu xét việc của gã. Nhưng:
... thoạt nghe, gã cũng khấp khởi hy
vọng. Nhưng suy nghĩ một tí gã thấy đó là chuyện hão huyền. Các vụ gọi là chính
trị, không ai dại can thiệp hộ hết, ngay cả anh em ruột thịt. Những Huỳnh Tấn
Phát, Nguyễn Xuân Sanh xin xỏ được cho con của họ, vì con họ chỉ đi ăn cắp, ăn cướp. Nếu là chính trị,
những loại ‘‘Chủ tịch cây cảnh’’, ‘‘Nhà thơ mật thám’’ đó làm sao dám hé răng!
Gã nhớ hồi gã mới bị bắt, nằm xà lim 1, người ta có dẫn Huỳnh Tấn Phát tới thăm
hai buồng kỷ niệm Hoàng Văn Thụ, Trần Đăng Ninh. Y đến một cái là cắm đầu đi ngay. Không dám nhìn ngang
nhìn ngửa. Không dám đưa mắt tới buồng khác.
(trang 131)
(Còn tiếp một kỳ)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/11/ho-truong-nguyen-chi-thien-voi-tap.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001