Bỏ đảng, một triển vọng cho quê hương
Nguyễn Thu Trâm, 8406 (Danlambao) -
Trong những ngày qua, dư luận của người Việt trong và ngoài nước xôn
xao trước hiện tượng thoái đảng, bỏ đảng của một số đảng viên đảng cộng
sản Việt Nam. Nếu so sánh với trào lưu thoái đảng ở Trung Quốc với con
số 100 triệu đảng viên đã công khai tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản, thì số
lượng những người Việt tuyên bố ly khai khỏi đảng cộng sản Việt Nam quả
thực chỉ là một con số quá ư ít ỏi, ấy vậy mà đã tiêu tốn không ít giấy
mực của các báo chí lề dân, cũng như khá nhiều thời gian bàn qua tán
lại của nhiều người đang nặng lòng với quê hương, với đất nước và với
tiền đồ của dân tộc.
Thực ra không phải ông Lê Hiếu Đằng là người đầu tiên ly khai khỏi đảng
cộng sản, mà trước đó, từ những năm cuối thập niên 1980s và đầu thập
niên 1990s cũng đã có nhiều đảng viên, từng giữ các trọng trách trong bộ
máy quyền lực của nhà nước cộng sản như các ông Huỳnh Nhật Hải sinh năm
1943, ông Huỳnh Nhật Tấn sinh năm 1946 là hai anh em ruột, là những
người đã công khai từ bỏ đảng cộng sản vào cuối năm 1988, đồng thời hai
ông Hải và Tấn cũng từ bỏ luôn những chức vụ đang đảm nhiệm kèm theo
những tiềm năng rất lớn về quyền lực và quyền lợi: Vào thời điểm đó,
ông Hùynh Nhật Hải đang là Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Lạt
kiêm Thành ủy viên Thành ủy Đà Lạt, còn ông Huỳnh Nhật Tấn đang giữ
chức vụ Phó Giám đốc Trường Đảng tỉnh Lâm Đồng kiêm Tỉnh ủy viên dự
khuyết. Và một đảng viên kỳ cựu khác mà không ít người quen tên biết
tuổi, cũng đã công khai tuyên bố từ bỏ đảng cộng sản vào cuối năm 2009
đó là nhà văn, Ðại tá quân đội cộng sản bắc Việt Phạm Ðình Trọng. Nhưng
trong thực tế đã có khá nhiều đảng viên cộng sản khác âm thầm từ bỏ đảng
mà không cần tuyên bố.
Trở lại với hai ông cộng sản nòi Huỳnh Nhật Hải và Huỳnh Nhật Tấn, điều
gì đã khiến hai đảng viên cộng sản đầy tiềm năng của một gia đình có
truyền thống cách mạng từ trước năm 1945 lại có quyết định cao cả và quả
cảm, ly khai khỏi đảng cộng sản khi đang trên đà danh vọng và quyền lợi
cho bản thân, cho gia đình, cho con cháu đang ở trong tầm tay?
Đây chúng ta hãy lắng nghe tâm sự của hai ông trong một dịp trải lòng
với Bác Sỹ Phạm Hồng Sơn, Hội trưởng Hội Ái Hữu Tù Nhân Chính Trị Và Tôn
Giáo Việt Nam trong chuyến Nam du vào đầu tháng 12 vừa qua:
Huỳnh Nhật Hải: “Có thể nói hai anh em chúng tôi đã được “nhuộm đỏ”
từ bé. Chúng tôi đã có thiện cảm, tinh thần ủng hộ, và làm những việc có
lợi cho những tổ chức của cách mạng như Việt Minh hay Mặt trận Dân tộc
Giải Phóng miền Nam Việt Nam ngay từ khi còn rất nhỏ tuổi. Vì ba má tôi
là một gia đình tư sản ủng hộ Việt Minh tại Đà Lạt từ trước năm 1945. Ba
tôi là hội viên Công hội Đỏ và tham gia cướp chính quyền tại Đà Lạt vào
năm 1945 và sau đó trở thành đảng viên bí mật của đảng Cộng sản Đông
Dương. Hai anh trai tôi là những người đi tập kết ra Bắc sau năm 1954.
Một yếu tố nữa cũng làm cho chúng tôi ủng hộ Mặt trận là sự xuất hiện
của quân đội Mỹ tại miền Nam. Sự xuất hiện đó làm cho những người như
chúng tôi cảm thấy bị xúc phạm về chủ quyền dân tộc. Chúng tôi cảm thấy
là miền Nam đang bị người Mỹ xâm lăng và cần phải chống lại họ và chính
quyền thân Mỹ tại miền Nam.”
Huỳnh Nhật Tấn: “Tôi còn nhớ trong lá đơn xin ra khỏi đảng lúc đó tôi
có viết một câu: “Tôi không tin ĐCSVN có thể lãnh đạo đưa đất nước đạt
được những điều tốt đẹp như Đảng thường nói.”
Huỳnh Nhật Hải: “Còn trong lá đơn của tôi viết sau ông em tôi một vài
tháng, tôi nhớ đã viết là: “Tôi không còn động cơ để phấn đấu cho mục
tiêu và lý tưởng của đảng nữa.” Nhưng thực sự trong thâm tâm thì cũng
giống như ông em tôi đã nói ở trên. Tôi không tin ĐCSVN nữa. Đó là một
quãng thời gian kéo dài khoảng 5-7 năm, thông qua những quan sát, tìm
hiểu, trao đổi, bàn bạc và trằn trọc từ mỗi bản thân và gần như chỉ giữa
hai anh em chúng tôi.
Huỳnh Nhật Tấn: Có thể nói chúng tôi đi đến sự bất tín vào ĐCSVN là dựa
vào những gì chúng tôi thấy, chúng tôi gặp trên thực tế hơn là từ vấn đề
lý luận. Đó chính là những chính sách về quản lý xã hội, điều hành kinh
tế và việc tôn trọng các quyền tự do, dân chủ của người dân của ĐCSVN.
Về quản lý xã hội, ĐCSVN đã không quản lý bằng pháp luật mà bằng sự tùy
tiện, áp đặt, gần như hoàn toàn chỉ dựa theo các chỉ thị, ý muốn từ lãnh
đạo đảng. Ví dụ việc tịch thu nhà cửa, tài sản hay đưa đi “học tập cải
tạo”, thực chất là bỏ tù con người, đều không dựa trên pháp luật hay xét
xử của tòa án. Điều hành kinh tế thì lúc đó chúng tôi thấy những chính
sách rất kỳ cục và phản khoa học, ví dụ như có những chỉ thị là Đà Lạt
phải sản xuất bao nhiêu rau hay các huyện khác phải sản xuất bao nhiều
mì[i] mà không cần biết khả năng và lợi thế về thổ nhưỡng, thói quen
canh tác của người dân hoặc việc giao quyền lãnh đạo kinh tế không dựa
vào chuyên môn, kinh nghiệm mà lại dựa vào thành phần giai cấp và sự gắn
bó với đảng. Về các quyền tự do dân chủ của người dân, càng ngày chúng
tôi càng thấy thực tế lại tồi tệ và khó khăn hơn rất nhiều so với thời
Việt Nam Cộng hòa. Ví dụ như khi hoạt động trước 1975, chúng tôi đã từng
cho một số viên chức chính quyền đọc cả cương lĩnh của Mặt trận nhưng
những người đó không coi chúng tôi là thù địch, họ coi việc khác biệt
quan điểm là chuyện hết sức bình thường. Nhưng sau năm 1975 mọi thứ
không như thế nữa, tất cả mọi hoạt động, kể cả trong tư tưởng, mà khác
với quan điểm của ĐCSVN thì đều không được chấp nhận. Báo chí tư nhân,
biểu tình, bãi công, bãi thị đã hoàn toàn bị cấm ngặt mặc dù những bất
công, nhu cầu lên tiếng của xã hội hết sức bức bối. Có thể nói điều lớn
nhất để chúng tôi nhận thức lại ĐCSVN là sự độc tài toàn trị dựa trên
bạo lực và không tôn trọng những quyền căn bản của người dân.
Huỳnh Nhật Hải: Sau khi cùng tìm hiểu, trao đổi, bàn luận chúng tôi nhận
thấy tình trạng mất tự do, phi dân chủ hay có thể nói là cuộc sống kìm
kẹp, đau thương của nhân dân, của giới trí thức sau chiến thắng
30/04/1975 ở miền Nam hoàn toàn là sự lặp lại y nguyên tình trạng ở miền
Bắc sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 – thời kỳ mà ông Hồ Chí Minh
vẫn hoàn toàn ở trên đỉnh cao quyền lực.
…Và khi nhắc đến ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi cả hai ông đều được trở
lại thành, được sum họp với gia đình, bạn bè và họ mạc, sau khi đoàn
quân của đảng các ông đã cưỡng chiếm được toàn miền Nam, thì cả hai ông
Huỳnh Nhật Hải và Huỳnh Nhật Tấn đều có chung một tâm trạng là BUỒN
Huỳnh Nhật Hải: Buồn. Nếu không có cuộc chiến tranh tương tàn
giữa hai miền trước 1975 thì dân tộc này không có cái bất hạnh, đau khổ
như ngày hôm nay.
Huỳnh Nhật Tấn: Buồn. Một ngày quá buồn. Cái chiến thắng 30/04
chỉ đem lại một sự áp bức trên mọi phương diện cho nhân dân, đất nước và
lại nặng nề hơn cả thời Pháp thuộc.
Và lý do mà cả hai ông Huỳnh Nhật Hải và Huỳnh Nhật Tấn đã từ bỏ đảng
cộng sản khi đang còn trên đỉnh cao của danh vọng và quyền lực bởi cả
hai đều đã nhận ra được lầm lỗi của mình qua những tâm sự đắng cay thế
này:
Huỳnh Nhật Tấn: Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết
của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại
sự đau khổ hiện nay. Và nếu xét về những căn bản để bảo đảm tự do cho
nhân dân và độc lập cho dân tộc thì tôi cũng đã vô tình góp công sức đưa
những người mang danh là “cách mạng” nhưng thực chất là vì quyền lực
tới phá bỏ một chế độ đã được xây dựng trên những căn bản về tự do, dân
chủ và nhân bản tại miền Nam Việt Nam.
Huỳnh Nhật Hải: Bây giờ nhìn lại, con đường chúng tôi đã đi trước 1975
là một con đường sai lầm. Sự nhiệt huyết lúc đó của chúng tôi đã đem lại
bất hạnh hơn là hạnh phúc cho dân tộc.
...Trở lại với trường hợp thoái đảng của ông Lê Hiếu Đằng, khác hẳn với
bối cảnh ly khai khỏi đảng cộng sản của hai ông Hải và Tấn, Ông Lê Hiếu
Đằng thoái đảng trên giường bệnh, khi biết mình đã gần đất xa trời, khi
biết mình chắc chắn sẽ không còn nhận được chút ân sủng gì nữa của đảng,
và điều đáng tiếc là ông Đằng vẫn chưa nhận ra tội lỗi của mình đối với
đồng bào, với dân tộc khi đi theo cộng sản để mang lại đau thương, tang
tóc cho quê hương cho nòi giống, thậm chí ông Đằng vẫn còn ngộ nhận
hành động xâm lược miền Nam của cộng sản Bắc Việt là “Giải Phóng Dân
Tộc” nên dẫu đã từ bỏ đảng nhưng vẫn chưa hề ăn năn: “Tôi tên Lê Hiếu
Ðằng là đảng viên đảng CSVN, hơn 40 tuổi đảng. Nay tôi tuyên bố công
khai ra khỏi đảng CSVN vì: Ðảng CSVN bây giờ không còn như trước (đấu
tranh giải phóng dân tộc) mà đang suy thoái biến chất, thực chất chỉ là
đảng của những tập đoàn lợi ích, trở thành lực cản cho sự phát triển đất
nước, dân tộc. Ði ngược lại lợi ích dân tộc, nhân dân. Tôi xin xác định
đây là quyết định của tôi”.... Và khi ngồi viết những lời này thì
chúng tôi nhận được thông tin ông Lê Hiếu Đằng đã bị hôn mê sâu sau
nhiều tháng dài điều trị tại bệnh viện. Chắc chắn là sự tồn tại của ông
Đằng trên thế gian này chỉ còn tính bằng giờ, bằng khắc ngắn ngũi mà
thôi. "Hổ tử lưu bì, nhân tử lưu danh": Vâng hổ chết để da, người ta
chết để tiếng... Sinh ra và lớn lên ở miền Nam tự do, được hưởng thụ nền
giáo dục khai phóng và nhân bản của Việt Nam Cộng Hòa với đầy đủ và
trọn vẹn những quyền làm người mà Thương Đế đã ban cho, nhưng như loài
dơi không chấp nhận ánh sáng mà chỉ thích nghi với đời sống nơi tối tăm,
u trệ, Lê Hiếu Đằng cùng một số nhân sỹ trí thức Miền Nam từng ăn cơm
quốc gia, thờ ma cộng sản đã chối bỏ ánh sáng của Tự Do, Dân Chủ của
Miền Nam mà đi tìm sự tăm tối u mê nơi chế độ cộng sản và cũng chính Lê
Hiếu Đằng cùng đồng đảng đã mang cái tối tăm u trệ và đau thương tang
tóc cho quê hương, cho dân tộc. Chẳng biết sự quay đầu quá muộn màn của
Lê Hiếu Đằng có giúp rửa đi phần nào những vết dơ tội lỗi của ông đối
với người dân Nam, đối với chính thể Việt Nam Cộng Hòa hay không, bởi
chắc chắn với những tội lỗi của ông và của những kẻ ăn cơm quốc gia mà
thờ ma cộng sản, tuổi tên của ông và của đồng đảng sẽ phải lưu xú muôn
đời. Chỉ mong rằng, những kẻ cùng thuyền cùng hội với Lê Hiếu Đằng sớm
quay đầu trước khi quá muộn.
Dù vậy, cũng phải khách quan mà thừa nhận rằng việc thoái đảng của ông
Lê Hiếu Đằng ít nhiều đã tạo được hiệu ứng đối với một số đảng viên trẻ
như tiến sỹ Phạm Chí Dũng và Nha Sỹ Nguyễn Đắc Diên… là hai đảng viên đã
công khai từ bỏ đảng cộng sản với những tuyên bố mà ở một chừng mực nào
đó cũng có thể giúp làm thức tỉnh lương tri của những người cộng sản,
những người đang đặt quyền lợi của giai cấp, của bản thân lên trên quyền
lới của tổ quốc, của dân tộc, rằng: “Tôi chính thức từ bỏ đảng Cộng sản
Việt Nam bởi tất cả những gì mà đảng Cộng sản thể hiện vai trò 'lãnh
đạo toàn diện' trong ít nhất một phần tư thế kỷ qua đã khiến cho tôi,
cũng như nhiều đảng viên khác, đi từ thất vọng đến tuyệt vọng về lý trí
lẫn tình cảm vì đảng Cộng sản hiện thời chỉ còn mang bóng hình và hơi
thở của các nhóm lợi ích” (Tiến Sỹ Phạm Chí Dũng). Và “Khi vào đảng tôi
đã từng thề, rằng tuyệt đối trung thành với đảng. Nay, tôi thà phản bội
lời thề trung thành với đảng còn hơn phải theo đảng mà phản bội lại
quyền lợi dân tộc, dân sinh, dân chủ, dân quyền mà lẽ ra dân tộc tôi
phải được hưởng từ 38 năm về trước.” (Bác Sỹ Nguyễn Đắc Diên) Hy vọng
cùng với những tâm tư đó, những đứa con một thời lầm lạc của dân tộc sẽ
nhận ra "con đường bác đi là con đường bi đát", mà sớm quay về để chung
tay cùng cả dân tộc trong công cuộc Khai Dân Trí, Chấn Hưng Khí và Hậu
Dân Sinh vì sự tồn vong của giống nòi Lạc Việt.
Mong lắm thay
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.fr/2013/12/bo-ang-mot-trien-vong-cho-que-huong.html#.Uq3yDSfpyRA
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001