Một vài suy nghĩ về học thuyết Mác-Lênin
Phan Thành Đạt
Le marxisme n'est pas mort, il continuera à exister (…) ce n'est pas une science mais une croyance .
(Chủ nghĩa Mác không chết, học thuyết này tiếp tục tồn tại, đó không phải là một môn khoa học mà là đức tin.)
Verdès-Leroux, Đức tin của những người thất bại, La foi des vaincus
Hiến
pháp mới sửa đổi khẳng định Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng cho chế độ chính trị hiện nay, phải chăng đây là lựa chọn đúng đắn?
Lựa chọn này của riêng đảng hay của nhân dân Việt Nam? Hiến pháp năm
1992 đánh dấu thời kì đổi mới vì hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và
Đông Âu không còn tồn tại. Chỉ còn lại 4 nước theo chế độ xã hội chủ
nghĩa, mỗi nước áp dụng mô hình này theo hoàn cảnh riêng. Tuy nhiên một
số nguyên tắc chung dễ nhận thấy ở tất cả các nước này là: Lấy hệ tư
tưởng Mác-LêNin làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của một chính đảng duy
nhất (Trung Quốc lấy chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng Mao cùng thuyết ba
đại diện của Đặng Tiểu Bình, Cuba theo chủ nghĩa Mác-LêNin và tư tưởng
José Martín, riêng Bắc Triều Tiên trong đợt sửa đổi Hiến pháp năm 2010,
đã bỏ tư tưởng Mác-LêNin lấy thuyết Juche của Kim Nhật Thành làm nền
tảng, nhưng vẫn công nhận trong Hiến pháp là Nhà nước xã hội chủ nghĩa).
Điều kì lạ là các đảng cộng sản đều có quan điểm vô thần, nhưng hệ tư
tưởng ở các nước này khiến người ta liên hệ đến một thứ tôn giáo chính
trị có 3 ngôi, được khẳng định trong Hiến pháp.
Khi
nghiên cứu các bản Hiến pháp tiến bộ của phương Tây, mỗi người đều dễ
nhận thấy các nhà lập hiến không đưa ra bất cứ một hệ tư tưởng nào làm
nền tảng cho các chính sách chính trị, xã hội. Các bản Hiến pháp dân chủ
chỉ nêu ra một số nguyên tắc mà Nhà nước cũng như công dân phải tuân
theo. Đó là bảo vệ quyền con người, bảo vệ nền cộng hòa, khẳng định chủ
quyền dân tộc, duy trì tính độc lập của ngành tư pháp...
Hệ
tư tưởng có thể phù hợp cho một giai đoạn nhất định, cho một nhóm người
nhất định nhưng không phải là suy nghĩ chung hay quan điểm của nhiều
lớp người trong xã hội vì xã hội luôn thể hiện sự đa dạng và ẩn chứa
nhiều mâu thuẫn cần được giải quyết trên cơ sở thương lượng để có thỏa
thuận chung. Chủ nghĩa Mác-Lênin liệu có phải là lựa chọn đúng đắn và
phù hợp với xu thế hiện nay? (I). Những kết quả của học thuyết này ra
sao đối với con người hôm qua và hôm nay? (II).
I. Chủ nghĩa Mác-Lênin có phải là lựa chọn sáng suốt?
Tuyên
ngôn đảng Cộng sản năm 1848 trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của
các đảng phái cực tả ở Châu Âu nửa sau thế kỉ XIX. Karl Marx và
Friedrich Engels là hai tác giả chính. Mở đầu bản Tuyên ngôn đảng Cộng
sản, hai ông viết: "Một bóng ma đang ám ảnh Châu Âu: bóng ma ấy là chủ
nghĩa cộng sản. Tất cả các cường quốc của lục địa Châu Âu già cỗi đã tập
hợp thành một liên minh thần thánh để tầm nã bóng ma ấy: Từ đức Giáo
hoàng đến Sa hoàng, Mettemich và Guizot, những người cấp tiến ở Pháp và
những viên cảnh sát ở Đức". Trong phần đầu có tiêu đề "Tư sản và vô
sản", các tác giả nhấn mạnh "Lịch sử của mọi xã hội từ xưa cho đến thời
đại chúng ta là lịch sử của các cuộc đấu tranh giai cấp". Trước hết khái
niệm đấu tranh giai cấp là từ của nhà sử học người Pháp François
Guizot, ông nhắc đến từ này đầu tiên trong giáo trình Lịch sử văn minh Châu Âu từ khi đế chế La Mã sụp đổ đến cách mạng Pháp năm 1789, được giảng dạy
tại đại học Sorbonne năm 1828. Các nhà trí thức và các nhà chính trị
như Augustin Thierry, Adolphe Thiers, François-Auguste Mignet và sau này
là Karl Marx và Friedrich Engels đều dùng lại khái niệm này.
Marx và Engels, hai tác giả của Bản tuyên ngôn đảng Cộng sản, 1848
Liệu lịch sử của mọi xã hội chỉ là đấu tranh giai cấp? Karl Marx suy luận theo nghĩa hẹp. Ông cho rằng nhân loại đã biết đến một loạt phương thức sản xuất, mỗi phương thức sản xuất dẫn đến một hình thức phân công lao động, phương pháp này sẽ dẫn đến sự đối lập giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, nhưng theo đà tiến hóa của lịch sử, các phương thức sản xuất mới xuất hiện, sẽ tạo ra sự chênh lệch giữa phân công lao động kiểu cũ và kiểu mới. Lực lượng sản xuất mới sẽ thế chỗ cho lực lượng sản xuất cũ trong các mối quan hệ sản xuất, sẽ dẫn đến sự xung đột giữa các lực lượng sản xuất. Đấu tranh giai cấp sẽ dẫn đến một hình thức sản xuất mới ra đời. Sẽ có phân công lao động mới và lịch sử lại bắt đầu.
Quan
điểm này mang nghĩa hẹp và khá hài hước. Marx đã bỏ qua tất cả các sự
kiện lịch sử khác và chỉ quan tâm đến đấu tranh giai cấp. Lịch sử phát
triển của xã hội loài người còn được tạo lập nhờ các luồng tư tưởng, các
ngành khoa học xã hội và tự nhiên như triết học, luật học, toán học, y
học, các sáng tạo vĩ đại của con người làm thay đổi xã hội, lịch sử phát
triển của xã hội còn nhờ các cuộc cách mạng về tư tưởng và đổi mới mà
không hề qua đấu tranh giai cấp, lịch sử tiến triển của xã hội cũng nhờ
các phát kiến địa lí và cả các cuộc chiến tranh... Quan điểm nhận thức
của Karl Marx và Friedrich Engels không hề chú ý đến thiện chí của con
người, ngược lại con người được xác định trong các điều kiện của các
phương thức sản xuất, kinh tế quy định lịch sử.
Tuyên
ngôn đảng Cộng sản sau này trở thành tài liệu quan trọng của tất cả các
đảng phái cực tả trên khắp thế giới. Chương trình 10 điểm được nêu ra
trong bản Tuyên ngôn, được tất cả các đảng Cộng sản tuân thủ, có sự hợp
tác chặt chẽ giữa các đảng Cộng sản ở khắp nơi, phương thức hành động
đều giống nhau và phù hợp với nội dung văn bản. Điều này này góp phần
tạo ra những sự kiện đầy biến động trong thế kỉ XX. Chủ nghĩa Mác-Lênin
hướng đến hành động, hệ tư tưởng này được chuyển từ lí thuyết sang hành
động trong thực tế.
Karl Marx chịu ảnh hưởng
của chủ nghĩa xã hội không tưởng của Saint-Simon, kết hợp với triết học
biện chứng của Hégel. Năm 1859, Charles Darwin xuất bản cuốn sách, Nguồn gốc các loài qua con đường chọn lọc tự nhiên,
lí thuyết tiến hóa trong tự nhiên đã được Karl Marx áp dụng cho quá
trình phát triển của các hình thái xã hội. Marx sinh ra vào thời kì đầu
của kỉ nguyên công nghiệp, ông quan sát các cuộc di dân từ nông thôn ra
thành thị và chứng kiến đời sống cùng khổ của giai cấp công nhân. Marx
mất năm 1883. Về chính trị, Marx không được chứng kiến quá trình xây
dựng nền dân chủ đa đảng và hình thức bỏ phiếu phổ thông, Marx cũng
không có dịp chứng kiến những tiến bộ đầu tiên về chính trị xã hội và
giáo dục phổ thông bắt buộc. Marx sống ở Anh và đã biết đến các đạo luật
đầu tiên tạo điều kiện cho người nghèo, poor laws. Nền đệ tam cộng hòa
bắt đầu hình thành ở Pháp từ năm 1870, mở đầu thời kì vàng son về dân
chủ và tự do. Các quyền cơ bản của con người về chính trị và xã hội được
bảo vệ. Các tổ chức công đoàn được thành lập để bảo vệ người lao động.
Các đạo luật đầu tiên quy định về thời gian làm việc và cấm trẻ em không
được lao động ở các nhà máy vào ban đêm. Luật bảo hiểm xã hội đã được
thông qua năm 1880 dưới thời Bismarck ở Đức... Marx đã không suy nghĩ
những tiến triển tích cực đó.
Jacques Ellul, trong tác phẩm Tư tưởng Marxiste, 1992 cho rằng chính Karl Marx đã phủ nhận Tuyên ngôn đảng Cộng sản 1848,
vì Karl Marx quan sát diễn biến của công xã Paris, và suy luận đây sẽ
là Nhà nước đầu tiên của giai cấp vô sản áp dụng lí thuyết của mình. Sau
khi công xã thất bại năm 1871, Karl Marx ghi mấy dòng vào sổ: "Tôi xin
bổ sung một số điểm quan trọng, điều này có thể làm thay đổi căn bản
Tuyên ngôn đảng Cộng sản, từ nay văn bản này không còn áp dụng được
nữa".
Tây Âu sau chiến tranh thế giới thứ 2 đều
nhận thức được những nguy cơ của chủ nghĩa Mác-Lênin nhưng không dám lớn
tiếng. Có nhiều lí do để giải thích cho sự im lặng này: Sau chiến tranh
thế giới thứ 2, Châu Âu kiệt quệ, mục tiêu hàng đầu của các nước là
khôi phục kinh tế và ổn định cuộc sống. Các nước Tây Âu không muốn đối
đầu trực tiếp với Liên bang Xô viết, các nước này cũng bỏ rơi các nước
Đông Âu, sau hiệp ước Yanta kí kết giữa Stalin, Roosevelt và Winston
Churchill. Hơn 1 triệu quân của Liên bang Xô viết đóng tại các nước Đông
Âu và Đông Đức, đây là nguy cơ đe dọa thường trực với phương Tây. Những
vi phạm về nhân quyền, các biện pháp bóp nghẹt các quyền tự do, hay tin
đồn về sự tồn tại của hơn 400 goulag ở Sibéri, nơi giam giữ hàng triệu
người bị coi là chống đối Nhà nước Liên bang Xô viết. Các tù nhân phải
làm việc trong các điều kiện khắc nghiệt, nhiều người trong số họ nằm
lại vĩnh viễn tại các nghĩa trang ở các trại lao động cưỡng bức rải rác
khắp nơi. Phương Tây đều biết nhưng nhắm mắt làm ngơ vì các nhà lãnh đạo
lo sợ về một cuộc chiến khác với phe Cộng sản, phương Tây muốn hòa
bình.
Các đảng Cộng sản ở Tây Âu sau chiến
tranh có ảnh hưởng rất mạnh trong đời sống chính trị và đều ra sức bênh
vực Liên bang Xô viết và mô hình xã hội chủ nghĩa. Các lãnh tụ Cộng sản
cho rằng Liên bang Xô viết đã có công cứu Châu Âu và thế giới nhờ chiến
thắng Đức Quốc xã. Đảng Cộng sản Pháp sau chiến tranh nhận được 14 % số
phiếu ủng hộ và chiếm được nhiều ghế trong Nghị viện. Đảng này cũng nhận
được 2 triệu đôla tiền viện trợ từ Mascơva để xây dựng phong trào Cộng
sản ở Pháp, các nhà trí thức lớn như Jean-Paul Sartre, Paul Eluard,
Louis Aragon đều có cảm tình với Chủ nghĩa cộng sản. Louis Aragon tham
dự đại hội tại thánh đường Mascơva và ủng hộ việc xây dựng các goulag,
nhà văn Marxime Gorki đi thăm và động viên những người đang làm việc ở
các goulag vì mục đích giáo dục con người trong xã hội chủ nghĩa.
Sẽ
có ý kiến cho rằng chủ nghĩa Mác có cơ sở nhân đạo và có mục đích giải
phóng con người khỏi áp bức bóc lột. Tư tưởng cộng sản hướng đến một thế
giới tốt đẹp, mọi người đều bình đẳng làm theo năng lực, hưởng theo nhu
cầu. Sẽ không còn giai cấp, sẽ không còn Nhà nước và luật pháp. Con
người sẽ phát triển hoàn thiện... Những ý tưởng này luôn có sức hấp dẫn
đối với các nước thuộc địa và đặc biệt đối với tầng lớp công nhân và
nông dân có nhận thức một chiều và có hạn chế về trình độ. Vì vậy các
nhà lãnh đạo luôn vội vã xây dựng chủ nghĩa xã hội và đào tạo con người
xã hội chủ nghĩa. Quyết tâm của họ dẫn đến những hệ lụy lâu dài vì địa
ngục được lát nền từ những ý tưởng tốt đẹp (l’enfer est pavé de bonnes
intentions).
Các nhà lãnh đạo trước đây chưa
nhận thức được đầy đủ về chủ nghĩa Mác-Lênin do điều kiện hoàn cảnh lịch
sử và mức độ tri thức có hạn. Các nhà lãnh đạo hiện nay, đa số đều ý
thức được mô hình chính trị này không còn phù hợp nhưng rất khó thay đổi
vì một khi thể chế chính trị được xây dựng và củng cố trong nhiều năm,
nó sẽ tiếp tục vận hành theo một chiều hướng định sẵn. Cũng cần nhấn
mạnh ở đây, các nhà cầm quyền hiện nay là những người kế thừa những gì
đã được xây dựng từ trước, họ không phải là những người sáng lập. Để có
sự thay đổi rất cần lòng dũng cảm và tinh thần yêu nước thương dân ở họ,
cần có sự thỏa thuận giữa những nhà trí thức tiến bộ và các nhà lãnh
đạo để bảo vệ đầy đủ quyền lợi cho họ và gia đình.
Cũng
sẽ có ý kiến cho rằng chủ nghĩa Mác-Lênin luôn đúng nhưng con người áp
dụng sai. Điều này không thuyết phục, vì học thuyết này đã được áp dụng
và thất bại ở nhiều giai đoạn khác nhau của lịch sử: Thời kỳ Convention
năm 1793 ở Pháp, nhóm cực tả gồm Robespierre, Saint-Just, Danton, Babeuf
đã biến các ý tưởng của Jean-Jacques Rousseau, (một trong những người
thầy đầu tiên về chủ nghĩa cộng sản), thành hiện thực. Kết quả đã dẫn
đến những rối loạn trong xã hội và rất nhiều người oan uổng bị đưa lên
máy chém. Công xã Paris năm 1871, nơi thử nghiệm đầu tiên cho tư tưởng
của Marx, chỉ tồn tại được hơn 2 tháng. Nhà nước Liên bang Xô viết
(1917-1991) cũng như tất cả các nước Đông Âu và Trung Âu đã sụp đổ. Các
nước vệ tinh ở Châu Á và Châu Phi như Bắc Triều Tiên, Angola, Cuba đều
bế tắc về kinh tế và chính trị, cho dù học thuyết Mác-Lênin được tuân
thủ đến mức giáo điều, được vận dụng sáng tạo theo hoàn cảnh của mỗi
nước và được Liên bang Xô viết giúp đỡ nhiệt tình. Chủ nghĩa xã hội đã
để lại những vết thương lòng cho nhiều dân tộc vì những hậu quả xuất
phát từ tính không tưởng của nó.
II. Những hậu quả của chủ nghĩa Mác-Lênin
Viện sĩ hàn lâm Pháp Jean-François Revel trong tác phẩm Cuộc thao diễn vĩ đại, la grande parade, (trang 163, 164) nhà
xuất bản Plon năm 2000 đã thuật lại câu chuyện của Max Weber và Joseph
Schumpeter bàn về chủ nghĩa xã hội, dựa theo tài liệu nghiên cứu của
Karl Jasper về Weber. Weber là nhà xã hội học có ảnh hưởng lớn nhất thế
kỉ XX, người sáng lập ra ngành xã hội học biện giải. Ông chịu ảnh hưởng
của Marx, nhưng cũng là người phê phán những sai lầm của Marx.
Schumpeter là nhà kinh tế lớn của thế kỉ, ông từng là học trò của Weber,
sau này trở thành giáo sư kinh tế tại Đại học Havard, cả hai người đều
có chung văn hóa Đức như Marx.
Hai người gặp
nhau ở một quán café ở Vienne, hai người quen khác là Ludo Moritz
Hartmann và Felix Somary cũng có mặt ở đó. Schumpeter khẳng định ông rất
vui mừng về cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Nga. Lí tưởng xã hội chủ
nghĩa từ nay không còn trên giấy nữa mà đang trở thành hiện thực, nhìn
thấy được. Weber tỏ ra khó chịu và đáp lại: "Chủ nghĩa cộng sản đang
phát triển ở Nga và sẽ gây ra nhiều tội lỗi, lí thuyết này sẽ dẫn đến sự
đói nghèo và những thảm họa khủng khiếp.» Schumpeter cự lại vẻ mỉa mai:
"Nếu mọi việc diễn ra như thế, đó có thể là thí nghiệm tuyệt vời làm
sao". Weber đáp lại với giọng rất bực mình:"Thí nghiệm được thực hiện
với hàng núi xác người". Schumpeter đáp trả vẻ khó chịu: "Chúng ta có
thể ví như công việc của bất kì phòng giải phẫu nào". Hai người tiếp tục
tranh luận gay gắt, mọi cố gắng hướng sang chuyện khác đều thất bại.
Weber càng ngày càng nói to và tỏ ra giận dữ. Schumpeter im lặng, thỉnh
thoảng lại chọc thêm mấy câu khiêu khích. Những người khác lắng nghe với
vẻ tò mò đến khi Weber đứng lên và nói: "Tôi không muốn nghe gì thêm
nữa", ông bỏ đi và quên cả mũ. Hartmann theo sau và cầm mũ cho Weber.
Schumpeter ở lại quán café vừa cười vừa nói: "Làm sao ông ấy có thể to
tiếng như thế". Là nhà kinh tế, Shumpeter nghĩ rằng sự phá sản một mô
hình kinh tế thể hiện sự sai sót của lí thuyết. Với quan điểm của một
nhà xã hội học, Weber cho rằng một lí thuyết không tưởng không bị bác
bỏ, ngay cả khi việc thực hiện nó dẫn đến thất bại. Weber mất năm 1920,
ông không có dịp chứng kiến những diễn biến của lịch sử. Schumpeter sang
Mỹ, ông mất năm 1950, nên cũng không kiểm nghiệm được những suy nghĩ
của mình, tuy nhiên sau này suy nghĩ của ông khác đi, ông bác bỏ hoàn
toàn quan điểm của Rosa Luxembourg và Lênin về chủ nghĩa đế quốc.
Hermann
Rauschning một cựu quan chức cao cấp của Đức quốc xã đã thuật lại những
cuộc thảo luận của ông với Hitler trong tác phẩm Hitler đã nói với tôi, Hitler m’a dit,
xuất bản tại Pháp năm 1939, sau khi Rauschning trốn sang Pháp và sau đó
sang Anh định cư. Hitler tuyên bố với Rauschning: "Tôi không chỉ là
người chiến thắng chủ nghĩa Mác, tôi còn là người thực hiện nó. Tôi đã
học được ở chủ nghĩa Mác rất nhiều, tôi không che giấu điều đó. Không
phải học các chương chán ngắt về lí thuyết đấu tranh giai cấp hay về chủ
nghĩa duy vật lịch sử, cũng không phải học điều vô lí mà ông ấy gọi là
giới hạn lợi tức hay những thứ nhảm nhí khác. Điều mà tôi quan tâm và
học được ở những người Marxist là phương pháp của họ. Tôi rất coi trọng
vai trò của những nhân viên bán hàng vặt vãnh, những thư kí đánh máy
chữ. Toàn bộ chế độ Đức quốc xã ẩn chứa nơi họ. Ông hãy nhìn kĩ: Các
hiệp hội thợ thuyền, các chi bộ ở các xí nghiệp, các đoàn người diễu
hành đông đảo, những tờ truyền đơn được viết ra theo cách đặc biệt để
giác ngộ quần chúng. Tất cả những phương thức đấu tranh chính trị mới
này gần như đều do những người Cộng sản nghĩ ra. Tôi chỉ cần nắm lấy
những phương pháp đó, phát triển lên một bước và như thế là tôi có được
công cụ mà chúng ta cần", (trang 96).
Tranh cổ động vẽ hình các lãnh tụ cộng sản thời Liên bang Xô viết
Nhiều sự kiện đau thương đã diễn ra trong thế kỉ XX, như chiến tranh, nạn đói...Trong các năm 1932-1933, 6 triệu người Ucraina chết đói, do một nghị quyết của Bộ Chính trị, đứng đầu là Stalin. Quyết định này cấm người nông dân Ucraina không được rời bỏ làng quê, đồng thời Nhà nước tiến hành trưng thu lương thực của người dân. Tin về nạn đói đang hoành hành ở Ucraina đến tai một số nhà lãnh đạo Châu Âu. Edouard Herriot, nghị sĩ đảng cực tả được Stalin mời sang Liên bang Xô viết và đến Ucraina giám sát tình hình. Con tàu đưa viên nghị sĩ đầu đất (cách gọi của viện sĩ hàn lâm Jean-François Revel) đi đến một số nơi, gặp gỡ người dân và nhận thấy không hề có nạn đói. Edouard Herriot nhận xét với báo chí: "Tôi chỉ nhìn thấy những vườn rau ở các nông trang được trồng trọt và chăm sóc cẩn thận, với hệ thống tưới tiêu đáng khâm phục, nếu ai đó bảo tôi có nạn đói ở Ucraina, hãy cho phép tôi nhún vai từ chối". Viên nghị sĩ đầu đất không hề biết, trước khi đoàn đến các nơi đã có chuẩn bị sẵn, bánh mì đã được phân phát từ ngày hôm trước, mọi thứ đã được dọn dẹp ngăn nắp. Với chính sách tuyên truyền của Stalin, Edouard Herriot không hề biết những gì xảy ra.
Mao áp dụng chính
sách đại công nghiệp thực hiện bước nhảy vọt về kinh tế, đã dẫn đến nạn
đói kinh hoàng trong những năm 1958 đến 1961. Khoảng 15 triệu người
Trung Quốc chết đói, theo thống kê của Nhà nước, trong thực tế con số
này có thể lớn hơn. Với kế hoạch sản xuất gang thép phục vụ cho phát
triển công nghiệp, hàng triệu người đã buộc phải rời bỏ đồng ruộng để
phục vụ cho các ngành công nghiệp nặng. Sản xuất nông nghiệp được thực
hiện trong các hợp tác xã, khiến sản lượng rất thấp. Do quản lí điều
hành yếu kém cộng với tình hình mất mùa do thiên tai, đã dẫn đến nạn
đói. Người dân ở nhiều nơi tập trung ở các kho lương thực của Nhà nước
và khẩn khoản: "Đảng Cộng sản và chủ tịch Mao, hãy cứu lấy chúng tôi". Ở
hai vùng, kho lương thực đã được mở ra cứu đói cho dân, ở đó không có
người chết. Tại những nơi khác, cán bộ chỉ nghĩ đến cách tự cứu mình,
bằng cách giao đủ sản lượng cho Nhà nước, ở những nơi đó, có nhiều người
chết đói. Mao nói với những người thân cận: "Không có báo chí đưa tin,
không có nạn đói". Đã xảy ra hiện tượng ăn thịt đồng loại để sống sót ở
Trung Quốc. Năm 1980, Trung Quốc đã tiến hành kiểm điểm và đưa ra kết
luận. Nguyên nhân nạn đói 70 % là do yếu tố con người, 30 % do thiên tai
mất mùa.
Bắc Triều Tiên, dưới thời Kim Nhật
Thành cũng phải hứng chịu nạn đói khốc liệt năm 1990, do thiên tai và do
chính sách tự cấp tự túc được nhà lãnh đạo này để xướng. Không có con
số chính xác về số lượng người chết đói, nhưng rất nhiều người Bắc Triều
Tiên mất đi người thân trong nạn đói này. Một số người đã thành công
đào thoát được sang Nam Triều Tiên.
Một sự kiện
đau thương khác diễn ra năm 1933 trên đảo Nazino. Chính quyền Liên bang
Xô viết đưa một đoàn 6000 người, (4000 người sau đó đã chết), chủ yếu
là những người được đánh giá là phần tử phản cách mạng và bất phục tùng
chế độ, tới đảo Nazino, trên sông ở Sibéri, cách Tomsk khoảng 600 km về
phía bắc. Với một số nông cụ, một lượng bột mì để làm bánh, do không có
lò làm bánh mì tại chỗ, họ lấy nước sông, trộn với bột mì để ăn. Kết quả
là bệnh kiết lị xuất hiện. Sau một vài tuần, bạo lực đã diễn ra để
tranh giành lương thực, một số vụ ăn thịt người đã xảy ra. Đảo Nazino,
được người dân địa phương mệnh danh là đảo ăn thịt người. Các nhà lãnh
đạo đã tiến hành kiểm điểm những người chịu trách nhiệm. Vụ việc này
được giấu kín trong nhiều năm. Năm 2000, các tổ chức xã hội ở Nga đã có
các hoạt động tưởng nhớ các nạn nhân trên đảo Nazino.
Nạn đói chỉ tồn tại ở các nước xã hội chủ nghĩa, không có ở các nước dân chủ.
Hình bìa cuốn sách, Đảo của những kẻ ăn thịt người của Nicolas Werth
Kết luận
Chủ
nghĩa Mác-LêNin đem lại những bi kịch cho nhiều dân tộc trên thế giới.
Việc công nhận học thuyết này là nền tảng cho chế độ chính trị ở Việt
Nam, là không hề phù hợp với văn hóa và truyền thống tốt đẹp của người
Việt Nam. Vì sao các nhà lãnh đạo lại chọn học thuyết Mác-LêNin và trang
trọng ghi vào bản Hiến pháp mới sửa đổi? Vì sao lời mở đầu bản Hiến
pháp chỉ dành ba dòng như khúc nhạc dạo đầu để nói về lịch sử và truyền
thống của Việt Nam trong suốt gần 3000 năm, còn những ý tứ quan trọng và
mục đích của Hiến pháp được các nhà lập hiến dành hẳn 13 dòng khác
trong lời mở đầu để nói về lịch sử của 68 năm thời hiện đại và về chủ
nghĩa xã hội. Bản Hiến pháp sửa đổi lặp lại từ "nhân dân" đến 166 lần,
giống như Hiến pháp của các nền dân chủ nhân dân hay dân chủ hình thức ở
Liên bang Xô viết và Đông Âu trước đây. Nhưng suy nghĩ kĩ, văn bản này
in đậm dấu ấn của đảng Cộng sản.
Dù Karl Marx
và LêNin không được công nhận là những danh nhân văn hóa thế giới và
không phải là người Việt Nam nhưng vẫn được nhắc đến trong Hiến pháp.
Các nhân vật lịch sử xuất sắc như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, những nhà văn
hóa lớn của dân tộc được l’UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế
giới, lại không được nhắc đến. Nền văn hóa Việt Nam đã tồn tại suốt mấy
nghìn năm. Những truyền thống tốt đẹp của cha ông đã được giữ gìn qua
bao nhiêu thử thách và biến cố lịch sử, phải trở thành nền tảng cho Hiến
pháp, kết hợp với những giá trị dân chủ tự do của nhân loại tiến bộ.
P.T.Đ.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Tài liệu tham khảo
- La grande parade, Jean-François Revel, de l’Académie française, Plon 2000.
- Pensées et idées politiques, Nathanie Blanche-Noël, Faculté de droit etscience politique de l’Université de Bordeaux.
- La pensée marxiste, Jacques Ellul, IEP de Bordeaux, 1992.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 07:20
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/12/mot-vai-suy-nghi-ve-hoc-thuyet-mac-lenin.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001