Phạm Xuân Ðài
Đọc
Tolstoi từ thời còn đi học, thấy cuộc đời của ông
bá tước này gắn liền với điền trang Yasnaya-Polyana,
thì tôi đã hình dung điền trang ấy giống cảnh trí nơi
Natacha đã gặp André như đã tả trong Chiến
Tranh và Hòa Bình.
Nhìn lại cảnh sống ở Việt Nam từ thôn quê đến thành
thị, chẳng thấy có một cái gì tương tự như điền
trang của bá tước Tolstoi bên Nga. Giới địa chủ giàu
có của miền Bắc và Trung Việt Nam giỏi lắm xây dựng
một “dinh cơ” trong khu vườn rộng, và nếu khéo chạy
một phẩm tước của triều đình thì cũng chỉ đến
“bát phẩm, cửu phẩm,” vừa đủ để thỏa mãn thói
háo danh nơi chốn làng xã. Các đại điền chủ Nam Kỳ
thì thuộc vào đất nhượng cho Pháp, cung cách sống của
họ khá xa vời với văn hóa cổ truyền Việt Nam, họ
không hề mang những phẩm tước của triều đình, và
dinh cơ của họ dù lớn lao cũng chẳng có vẻ gì là
“điền trang” của một tầng lớp quý tộc, hiểu như
là con đẻ của một định chế quốc gia, và mang nhiều
tính cách đại diện cho những gì ưu tú thuộc văn hóa
truyền thống của đất nước.
Hai
chữ điền trang gợi cảm tưởng thơ mộng êm ả chốn
thôn quê, đồng thời cũng làm liên tưởng đến tài sản
đất đai rộng lớn và sự giàu sang của giai cấp quý
tộc Tây phương trong quá khứ. Điền trang không chỉ là
một cơ sở nhà cửa của nhà giàu ở thôn quê, mà còn
là một cách sống, một quan niệm sống của một giai
tầng được ưu đãi, mà lợi tức từ đất đai rất lớn
lao, thường là chính yếu trong sự sản của họ.
Tolstoi
là một tác giả nổi tiếng khá quen thuộc với người
đọc sách Việt Nam. Ông là một văn hào Nga của nửa sau
thế kỷ thứ 19 và sống thêm một thập niên đầu thế
kỷ 20, tác phẩm của ông được dịch sang tiếng Pháp và
theo người Pháp đi vào Việt Nam. Hồi tôi còn nhỏ,
khoảng giữa thập niên 40, tôi thấy sách Tự Lực Văn
Đoàn ở bìa sau thường giới thiệu các tác phẩm đã
xuất bản, luôn luôn có một cuốn tên là A-na Kha-Lệ-Ninh,
một quyển sách dịch của Vũ Ngọc Phan, nhưng chưa từng
được nhìn thấy cuốn ấy bao giờ. Mãi sau lớn lên tôi
mới biết đó là cuốn Anna Karénine (lối viết theo tiếng
Pháp) của Léon Tolstoi. Có thể đó là tác phẩm lớn đầu
tiên của Tolstoi được dịch sang tiếng Việt, tôi không
biết thời thập niên 30, 40 của thế kỷ trước có gây
tiếng vang nào trong độc giả người Việt không. Nhưng
tiểu thuyết Nga nói chung, và riêng Tolstoi, tôi nghĩ là
rất có duyên với người đọc Việt Nam, đặc biệt là
sau khi đất nước bị chia cắt năm 1954 thì cả miền Nam
lẫn miền Bắc đều có phong trào dịch và nghiên cứu
tìm hiểu. Tôi nhớ hồi còn đi học, khoảng cuối thập
niên 50 tôi đã đọc cuốn Viết
Và Đọc Tiểu Thuyết
của Nhất Linh và sau này mới nhận ra là cuốn đó có
ảnh hưởng rất lớn đối với tôi. Nhất Linh đặc biệt
ca tụng các tác giả tiểu thuyết Nga như Tolstoi,
Dostoievsky, và các tác giả của nước Anh như các chị em
Bronte. Ông cho rằng hai dân tộc này, đặc biệt là Nga,
có biệt tài về tiểu thuyết, các tác giả của họ nhận
xét và diễn tả cuộc đời rất trung thực và sâu sắc.
Từ đó tôi để tâm tìm đọc các bản dịch Chiến
Tranh và Hòa
Bình,
Anna Karenina
của Tolstoi, Anh
Em Nhà Karamazov, Tội Ác và Hình Phạt,
Thằng
Ngố...
của Dostoievsky, Đỉnh
Gió Hú
của Emily Bronte... Quả nhiên tôi đã bị các tác giả Nga
chinh phục, thời thanh niên tôi bị ám ảnh bởi
Dostoievsky nhiều hơn là Tolstoi bởi lối đào sâu tâm lý
như là phù thủy của ông, nhưng càng lớn lên thì càng
cảm nhận được cái lớn lao thênh thang của tâm hồn
cũng như tiểu thuyết củaTolstoi. Chiến
Tranh và Hòa Bình
là một cái gì giống như cả cuộc đời rộng khắp, đó
là một cái bầu hồ lô thu tóm mọi sự, từ những cái
có kích thước bé tí người thường phải dùng kính hiển
vi mới nhìn thấy, đến những cảnh tượng hoành tráng
của núi non, ruộng đồng, của biến cố lịch sử và
ngay cả lòng người. Dostoievsky cho ta những khoái cảm rợn
người của bệnh lý, của những chiều sâu thăm thẳm
không thể tìm thấy trên bề mặt của cuộc đời bình
thường, trong khi với Tolstoi, ta thưởng thức những bức
bích họa tỏa ra đầy đủ hơi thở nồng ấm của mọi
cảnh huống trong đời sống. Đọc ông xong người ta cảm
thấy hai chân mình đứng trên mặt đất vững hơn, vì
cuộc đời vẫn nồng đượm quanh ta...
Sau
năm 1975, khi cuộc đời tù đày đã dần dần “ổn
định,” nghĩa là không còn ảo tưởng được thả về
trong một thời gian ngắn, hơn nữa, hoàn toàn mịt mù về
ngày về và tương lai, đám đi tù bắt đầu tìm sách vở
để đọc. Gia đình người đi cải tạo có một khuynh
hướng chung rất dễ thương trong việc chọn sách gửi
vào trại cho người thân, là chỉ gửi sách dịch của
các tác giả cổ điển trên thế giới. Hầu như chẳng
có một cuốn sách truyện nào của các tác giả miền
Bắc, loại sách mang chủ đề “xây dựng chủ nghĩa xã
hội” được sáng tác trong các “trại” viết văn, đọc
thì thấy rõ mồn một sự gượng gạo giả dối nhiều
khi khiến chính người đọc phải ngượng chín cả người.
Một số sách dịch của miền Nam cũ cũng được chấp
nhận, như các tác phẩm của Dostoievsky, của nhà văn
“tiến bộ” Mỹ John Steinbeck (Chùm Nho Uất Hận...).
Nhưng sách dịch của nhà xuất bản Văn Học Hà Nội mới
đáng kể, đặc biệt các tác giả Nga và Liên Xô bây giờ
được dịch thẳng từ nguyên bản tiếng Nga chứ không
qua bản tiếng Pháp hay tiếng Anh như miền Nam trước kia.
Vì
Tolstoi được Lenin cho là “viên đá tảng” của văn học
Nga nên nhà xuất bản Văn Học ở Hà Nội đã giới thiệu
ông rất kỹ. Tôi được đọc cuốn Hồi Ký của Tolstoi,
trong đó có một chi tiết tôi nhớ mãi đến bây giờ:
khi nhớ về thời thơ ấu, hồi ức của Tolstoi vươn tới
một điểm xa không ngờ, ông nhớ được cái cảnh và
cái cảm giác người ta tắm cho ông trong một thau nước,
khi ông mới được sáu tháng tuổi. Tôi cũng thường hay
cố hình dung những gì xa nhất trong đời mình mà mình
còn nhớ được, thì tôi đoán ký ức của tôi có thể
lộn về giỏi lắm là khoảng tôi lên bốn tuổi, trước
đó thì hoàn toàn u mê mịt mờ... Có thể Tolstoi là một
trường hợp đặc biệt, não bộ và thần kinh ông được
cấu tạo khác thường nên đến khi lớn lên vẫn hiện
ra những hình ảnh và cảm giác của con người lúc còn
rất non nớt.
Dĩ
nhiên là họ dịch Chiến
Tranh và Hòa Bình,
do một nhóm đến bảy tám người phụ trách, chia nhau mỗi
nhóm dịch một phần. Chính vì làm việc riêng rẽ như
vậy nên bản dịch không được thống nhất, văn phong
mỗi cuốn mỗi khác nhau, chỗ hay chỗ dở không đều,
thậm chí có khi cùng một nhân vật mà ở đoạn đầu
gọi cha mẹ là “bố mẹ,” đến đoạn sau lại gọi
bằng “ba má,” và giọng văn khi thì thiên về ngôn ngữ
miền Bắc, khi thì miền Trung vùng Huế. Điều này cho
thấy đối với các tác phẩm văn học lớn và dài hơi
không nên chia ra mỗi người hay mỗi nhóm lãnh dịch một
phần, vì khi ráp lại sự khác biệt ở mỗi phần sẽ lộ
ra rất rõ, dù là có thể có người nhuận sắc lại toàn
bộ nhưng chắc chắn không thể xóa đi bản sắc của
từng người dịch. Về phương diện này, tôi thấy bản
dịch Chiến
Tranh và Hòa Bình
của Nguyễn Hiến Lê ở miền Nam nghiêm túc hơn, và chắc
đó cũng là lý do cách đây vài năm Sài Gòn in lại tác
phẩm này thì chọn bản dịch của Nguyễn Hiến Lê chứ
không dùng bản của nhà xuất bản Văn Học.
Vì
ảnh hưởng của Tolstoi đối với tôi sâu đậm và dài
lâu như vậy nên khi đến Nga vào mùa hè năm 2000, nghe nói
có thể đi thăm điền trang của ông thì tôi vội sắp
xếp thì giờ để thực hiện chuyến đi mà trong thâm tâm
tôi coi như một cuộc “hành hương.”
Từ
Mạc Tư Khoa đi về hướng nam độ 200 cây số thì đến
thành phố Tula, từ Tula theo một con đường nhỏ rẽ về
hướng tây độ vài mươi cây số nữa thì đến Yasnaya
Polyana, điền trang của Tolstoi. Chúng tôi thuê một chiếc
tắc xi từ ngày hôm trước, hẹn đúng bảy giờ sáng hôm
sau đến đón. Tài xế tắc xi là một người đàn ông
trung niên Nga cao lớn phương phi, chỉ biết nói vài tiếng
Anh, mọi chuyện giao thiệp đều do anh Nguyễn Minh Cần là
người “bảo trợ” cho tôi trong chuyến Nga du này. Xe
chạy xuyên qua thành phố thủ đô giờ đi làm buổi sáng
nhưng không hề bị kẹt đường, xe cộ ở đây chưa đến
độ quá tải như nhiều đô thị khác trên thế giới. Ra
khỏi thành phố, xa lộ chạy giữa một vùng đồng quê
rộng rãi phong quang, đặc biệt ít thấy cảnh làng mạc,
có lẽ vì đất ở đây rộng quá, xen vào những cánh
đồng thường là rừng.
Anh
Cần ngồi phía trước cạnh bác tài, hai người trao đổi
chuyện trò suốt chuyến đi, và chỗ nào lý thú thì anh
Cần dịch cho chúng tôi nghe, và chúng tôi thỉnh thoảng
cũng góp chuyện (“chúng tôi” đây gồm có tôi và một
người bạn nữa cùng đi với tôi từ Mỹ sang). Bác tài
cho biết ông ta chưa đi đến điền trang của Tolstoi lần
nào, nhưng tỏ ra biết về tác giả này khá nhiều. Trong
một tuần lễ ở Nga, tôi để ý những hiệu sách vào
giờ tan sở buổi chiều thường đông nghẹt người, điều
đó chứng tỏ người Nga rất chú ý đến sách vở. Anh
Cần cũng cho biết “người Nga họ ham đọc sách lắm,
trình độ đọc nói chung khá cao, và họ cũng ham thích
các môn nghệ thuật khác.”
Vậy
việc ông tài xế tắc xi nói về tác phẩm Tolstoi thì
cũng không có gì lạ, cũng giống như một người Việt
Nam có học nói về truyện Kiều hay Nhất Linh, Khái Hưng.
Nhưng vẫn có điều lạ ở người tài xế này, một
chuyện rất thú vị có liên quan đến Tolstoi, và duyên
đưa đẩy thế nào hôm nay lại là người lái xe đưa
chúng tôi đi thăm nhà của văn hào. Ông ta nguyên là diễn
viên điện ảnh, do có vóc dáng rất oai vệ nên thường
đóng các vai vua chúa, quý tộc, chức sắc tôn giáo, và
chính ông đã thủ vai Nga hoàng trong phim Chiến
Tranh và Hòa Bình
quay từ tiểu thuyết cùng tên của Tolstoi do Liên Xô sản
xuất trước đây. Sau cuộc đổi đời của Liên Xô hồi
đầu thập niên 90, ông rời điện ảnh, và bây giờ kiếm
sống bằng nghề tắc xi. Tôi hỏi ông đã xem phim này do
Mỹ sản xuất chưa, ông trả lời đã xem, và cho rằng
phim Mỹ thực hiện khá đầy đủ các hình
thức
của đời sống Nga, nhưng phần tâm
hồn Nga
thì không thể hiện được bao nhiêu. Tôi tự nhủ về Mỹ
thế nào cũng phải tìm cuốn phim Chiến
Tranh và Hòa Bình
do Liên Xô sản xuất, để xem có nhận ra ông Nga hoàng
lái tắc xi này không, nhưng đã một năm rưỡi trôi qua,
ý định của tôi vẫn chưa được thực hiện.
Đọc
tiểu thuyết Nga tôi thường gặp địa danh Tula, hình như
trong Chiến
Tranh
và
Hòa Bình
cũng có, nên khi xe đến thành phố này tự nhiên tôi có
cảm tưởng quen thuộc lắm. Phố xá chẳng lấy gì làm
diêm dúa và cũng không mang một phong cách đặc biệt nào,
vì thế dễ cho người ta cảm tưởng đã bắt gặp một
lần ở đâu đó. Vì tài xế không biết rõ đường về
điền trang Yasnaya Polyana nên chúng tôi được dịp đi
xuyên theo suốt chiều dài của thành phố, để rồi phải
quay trở lại mới tìm ra đúng đường. Đó là một thành
phố kỹ nghệ khá lớn, chuyên về sản xuất vũ khí,
đường sá xưa cũ và bụi bặm, và chính điểm này đem
lại một cảm giác gần gũi cho một du khách Việt Nam.
Nhưng khi vào đường nhỏ về thôn quê thì khác hẳn,
cảnh hai bên đường xanh tươi thơ mộng, càng đi càng
vào sâu với thiên nhiên, bỏ lại ồn ào bụi bặm phía
sau.
Tôi
đã đọc đâu đó là cổng của điền trang Yasnaya Polyana
hai bên có hai cái tháp, nên khi nhìn thấy là tôi biết
ngay đã đến nơi, mặc dù hai cái trụ cổng vĩ đại ấy
theo tôi không phải là hai cái tháp. Đó chỉ là cái trụ
cổng làm giả hình tháp, hay đúng hơn, hình cái điếm
canh, to lớn, vững chắc, hơi nặng nề theo phong cách Nga.
Hai trụ cổng chỉ đóng vai trò đánh dấu ngõ vào, không
có cửa đóng, nhưng khi du khách vừa qua khỏi cổng thì
có bảng chỉ dẫn ghé vào một cái ki-ốt nhỏ bên tay
trái để mua vé, vì điền trang này từ lâu đã được
nhà nước quản lý như là một bảo tàng về Tolstoi. Có
vé rồi thì mọi người có thể thong dong đi dưới hàng
cây cao bóng mát để dần vào phía bên trong, càng đi càng
thấy như mình đang lần hồi ngược đường vào quá khứ.
Viện bảo tàng nào chẳng là nơi cất giữ quá khứ,
nhưng điền trang Yasnaya Polyana là một quá khứ sống, cây
cối vẫn rì rào, ao hồ vẫn gợn sóng, và những dấu
vết thuộc đời sống của nhà văn hào vẫn còn lưu giữ
khắp nơi đúng như lúc ông còn sinh thời.
Anh
Cần kéo chúng tôi xuống bờ ao xem một cái nhà tắm lộ
thiên cất nửa trên đất nửa dưới nước, vây quanh
bằng những tấm phên có lẽ đan bằng một loại cây
leo. Bên trong, từ trên sàn gỗ có một cái cầu thang bắc
thẳng xuống nước để người đi tắm có thể xuống
ngâm mình dưới ao mà vẫn được các tấm phên che gió. Đó là nơi tắm ao trong mùa đông của Tolstoi. Tôi lấy
làm lạ cho cách tắm này, mùa đông Nga thì hẳn nhiên
lạnh lắm, vậy sao người ta vẫn có nhu cầu ra tắm
ngoài trời? Trong điền trang mênh mông này có khá nhiều
ao hồ, những nơi mà Tolstoi đã tắm táp bơi lội suốt
đời, từ khi còn niên thiếu cho đến khi râu tóc đã bạc
phơ. Năm ông sáu mươi tuổi, một lần nhà văn trẻ Anton
Tchekhov đến thăm ông, đã thấy ông nhảy ùm xuống nước
bơi nhẹ nhàng, tóc và râu bạc nổi lềnh bềnh trên làn
nước xanh. Nội cái việc tắm của Tolstoi thôi đã cho
chúng ta biết thế nào là nếp sống nơi điền trang. Thật
ra, điền trang cũng tức là thôn quê, dù là thứ thôn quê
quý tộc, sinh hoạt nơi thôn dã về căn bản thì vẫn
giống nhau. Nhất là cái việc bơi lội dưới sông dưới
hồ — một hình thức sinh hoạt con người hòa lẫn vào
với thiên nhiên nhiều nhất — thì dù anh nông nô hay ông
bá tước thì vẫn mình trần như nhộng, cùng làm những
động tác lặn hụp giống nhau. Phải chăng sự kiện đã
sinh ra, lớn lên và sống gần trọn đời tại nơi này đã
góp phần vào tư tưởng nhân đạo, bình đẳng của
Tolstoi?
Qua
một cánh rừng thì bắt đầu thấy thấp thoáng tòa dinh
thự đàng xa. Vừa thấy ngôi nhà to lớn ấy, tự nhiên
những hình ảnh đã đọc trong Chiến
Tranh và Hòa Bình
ùn ùn kéo về đầy cả tâm trí tôi, tựa hồ cuốn sách
ấy chính là cuộc đời vây quanh tác giả của nó vậy.
Nhiều người trong gia đình và cả chính ông nữa, đã
được Tolstoi mô phỏng để xây dựng nhân vật, thì cái
điền trang này cũng vậy, đã xuất hiện nhiều lần
trong tiểu thuyết của ông.
Năm
Tolstoi mười chín tuổi thì anh em ông bắt đầu chia gia
tài, và chính ông xin phần hoa lợi kém nhất, là điền
trang này và một số ruộng khoảng một ngàn rưỡi hecta
với hơn ba trăm nông nô, và chàng thanh niên trong một
thời gian đã tự mình cai quản dinh cơ ruộng đất với
quan niệm sống một đời lành mạnh đạo đức gần
thiên nhiên. Ngôi nhà mà chàng đã sống là một tòa biệt
thự rất lớn bâygiờ vẫn còn nguyên vẹn, kiểu cách
tương đối giản dị, có lẽ để hợp với cảnh thôn
quê. Quanh nhà chỉ có vài bãi cỏ chứ không có vườn
tược trồng hoa hay cây ăn trái, và tiếp đó là rừng.
Ở
cửa vào Bảo tàng — tức là vào nhà Tolstoi — người
ta để một đống dép bằng da sống, kích thước rất
to, khách cứ để nguyên giày mà đi thêm dép trước khi
vào thăm bên trong, chắc là nhằm bảo vệ sàn nhà. Hình
thù những đôi dép khá đặc biệt, to bè bè và rộng
thênh thang, nhưng có giây rất dài để có thể quấn
quanh mắt cá chân mấy vòng và buộc lại thì rất chắc,
không dễ sút ra như người ta tưởng. Tôi có cảm tưởng
những đôi dép này là nhái theo kiểu của nông dân Nga,
để tạo cho cuộc viếng thăm của khách một cung cách
thôn dã. Vào thăm trong nhà phải mua vé, và người ta còn
cho biết nếu muốn chụp ảnh thì phải trả thêm năm
chục rúp nữa.
Tòa
nhà được giữ gìn nguyên vẹn như hồi còn Tolstoi, vào
thăm trong nhà tức là thăm đúng cái không gian sống của
ông. Cách bài trí sang nhưng không xa hoa kiểu cách. Nhìn
những hình ảnh thân mật trong cuộc sống của nhà văn,
như phòng ăn, tủ sách, bàn viết, giường ngủ... người
ta cảm thấy như mọi cái vẫn còn giữ hơi ấm của sinh
hoạt hàng ngày của ông, hình ảnh ông dường vẫn ra vào
đâu đây. Chứng cớ của đời sống ấy thật quá và
được lưu giữ đầy đủ. Trên bàn làm việc cái ống
bút và tập giấy vẫn còn đấy, như chỉ chờ chủ nhân
ngồi vào sáng tác. Phòng ăn đã được bày bàn, đĩa,
dao muỗng khăn ăn đầy đủ đợi ông ra dùng bữa. Và
cái giường ngủ gọng đồng nhỏ hẹp của Tolstoi với
chiếc gối cao, khăn trải giường chạy những hoa văn
hình kỷ hà khá cổ điển, trên chiếc bàn đêm có chiếc
đồng hồ nhỏ và một cây nến cháy dở, mọi thứ có
lẽ y nguyên như lúc bốn giờ sáng ngày 28 tháng Mười
năm 1910, là lúc ông thức dậy và bỏ nhà ra đi, lần
cuối. Năm ấy ông 82 tuổi, bị nhiều dằn vặt khổ sở
do bà vợ mang lại, cuối cùng quyết định bỏ
nhà
ra đi, và mất ở nhà ga Astapovo ngày 7 tháng 11.
Chúng
tôi không thể đi thăm hết 32 phòng trong dinh thự này, mà
chỉ đến một số phòng Tolstoi đã sống, ở đó trưng
bày, hay đúng hơn là còn giữ nguyên các đồ dùng hằng
ngày của ông. Những phòng còn lại thì trước kia dành
cho khách khứa, trong đời của ông có nhiều khách đến
thăm lắm. Với tư cách là nhà văn, tên tuổi của ông
vang lừng bốn bể, văn nhân tài tử đến với ông đã
đành rồi, ông lại có thêm rất nhiều “đệ tử” đi
theo tư tưởng nhân đạo bất bạo động của ông lui tới
nhà ông liên tục. Ông nổi tiếng đến nỗi thời bấy
giờ người ta gọi ông là “đệ nhị Sa-hoàng,” và
điền trang của ông đã biến thành một loại tiểu triều
đình vô cùng
tấp
nập!
Cách
dinh cơ chính không xa là một ngôi nhà khác trước kia là
trường học Tolstoi lập ra để dạy dỗ con cái nông nô.
Đây cũng là một bảo tàng nữa, trưng bày nhiều thứ
liên quan đến tác giả Chiến Tranh và Hòa Bình và thời
đại của ông, đặc biệt có cả một cái máy ghi âm
thời đầu thế kỷ 20, mà nhờ một máy khuếch âm của
ngày nay, người ta có thể cho khách nghe giọng nói của
Tolstoi đã được thu từ thời ấy.
Thăm
nhà của nhà đại văn hào với bao nhiêu dấu vết xưa
còn tồn giữ dĩ nhiên là một việc rất cảm động và
hữu ích, nhưng đi lang thang trong những khu rừng trong điền
trang của ông mới thật là thích thú. Cây cao vút rì rào
như nước Nga từ một thế kỷ qua chẳng có gì thay đổi,
những chuyện cách mạng, nội chiến, độc tài,
thanh
trừng, trại tập trung, đi đày Sibérie... như là những
chuyện thuộc về một thế giới khác, còn đây là cõi
của Tolstoi. Tại điền trang này Tolstoi đã sinh ra, lớn
lên và cư ngụ phần lớn đời của mình, nơi nhà văn
hào viết nên những tác phẩm bất hủ và suy nghĩ, tự
đấu tranh để tu thân và lập thuyết cứu đời. Tại
đây nhà văn đã đến với Phật giáo, đã viết ra tư
tưởng bất bạo động, và chính những điều ông viết
đã ảnh hưởng lớn đến Gandhi, người đem thuyết bất
bạo động vào đấu tranh thực tiễn.
Sau
khi ông mất ở Astapovo, người ta đưa thi thể ông về
mai táng tại điền trang. Điều gây bất ngờ lớn lao
nhất cho một người đến thăm điền trang của Tolstoi
chính là ngôi mộ ông. Nó đơn giản quá sức, đến độ
như một ngôi mộ hoang, hệt như Nguyễn Du đã tả sè
sè nấm đất bên đàng, rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa
xanh.
Cỏ
trên mộ ông thì xanh tốt chứ không có vàng (có lẽ vì
chưa đến mùa thu), nhưng đúng là ngôi mộ bên đàng, và
chỉ là một nấm đất đơn sơ thấp thấp, nằm ngay bên
một lối đi hun hút trong rừng, dưới một tàng cổ thụ,
không mộ bia, không một viên đá viên gạch. Ngoài một
cái nấm nhỏ bé nhô lên khỏi mặt đất, không có một
công trình nào do bàn tay con người can thiệp vào nơi an
nghỉ cuối cùng của nhà văn. Ông hoàn toàn hòa nhập vào
thiên nhiên quanh ông, thiên nhiên của
ông
nếu ta muốn đem một chút gì gọi là sở hữu vào đây.
Vâng, đây là đất của ông, nên mộ ông tuy giống mộ
hoang nhưng không phải là mộ hoang. Cả điền trang này là
nơi ông sống và nơi ông chết, khi sống thì cả điền
trang là nhà ông, khi chết thì cả điền trang là mộ ông,
cần gì phải dựng bia xây mộ nữa? Những giòng chữ đại
loại: Nơi
đây an nghỉ nhà đại văn hào...
mà đặt nơi đây có lẽ chỉ mang lại cảm giác buồn
cười. Chẳng có văn hào, nhà tư tưởng nào ở đây. Chỉ
có một Con Người nằm dưới gốc cây, nghe gió rì rào
trong cây, và xa xa, tiếng sóng vỗ nơi vô số ao hồ. Sách
vở, sự nghiệp xin để lại ngoài kia, ngoài thế giới
mà loài người còn đang tiếp tục sống, để người ta
đọc, người ta cười, khóc, và người ta tranh luận...
Còn
ở đây, con người lớn lao ấy đang yên nghỉ.
Suốt
trong mấy mươi năm nước Nga sống trong chế độ cộng
sản, có thể điền trang này của Tolstoi là nơi duy nhất
không có bàn tay phá phách của “cách mạng.” Sự nghiệp
của Tolstoi chỉ là chữ nghĩa và ý tưởng, nhà cửa
ruộng vườn và rừng cây này chỉ như là kỷ niệm ông
trao lại cho đời sau, nó hiện diện nơi này như làm
chứng cho cuộc đời một người luôn luôn muốn đem lại
những gì tốt đẹp cho kẻ khác. Ông là một nhà văn rất
lớn, nhưng hơn thế nữa, ông mang một nỗi khao khát sửa
đổi thế giới quanh ông bằng những cải cách, vừa xã
hội vừa trong tâm hồn con người.
Từ
những dòng chữ trong Viết
Và Đọc Tiểu Thuyết
của Nhất Linh cho đến nước Nga và điền trang
Yasnaya-Polyana của Tolstoi đối với tôi đều là những cơ
duyên đầy sung sướng, có thể cách nhau rất xa trong
không gian và thời gian, nhưng cũng có thể chỉ là một,
tất cả chỉ dồn vào một cái chớp mắt trong lòng tôi.
Nếu không có Nhất Linh liệu tôi có đến với Tolstoi
như tôi đã đến không? tôi có bị thôi miên bởi ông
phù thủy Dostoievsky, có cảm động say mê cơn mưa
trong bình minh
của Pautopsky, có trò chuyện với bác sĩ Zhivago? (1).
Chuyến đi Nga của tôi ngẫm lại là một chuyện phải
tới, dù là lần đầu tiên mà thực chất là một chuyến
“về lại” một chốn xưa cũ của lòng tôi; riêng cuộc
đi về điền trang Yasnaya-Polyana thì gọi là “hành hương”
cũng được tuy là hơi có vẻ cường điệu theo kiểu tôn
giáo không hợp với tạng người của tôi, hoặc gọi là
về thăm một chỗ quen biết xưa thì đúng với thực chất
hơn. Đứng bên mộ Tolstoi tôi cảm thấy lòng thanh thản
như đối diện với một cái gì lớn lao mà giản dị,
như kiểu gần một vị chân tu. Dưới tàng cây gió thổi
bên cạnh nấm đất mộc mạc, tôi như tiếp xúc được
toàn bộ tính chất sâu xa, khoan dung, hồn hậu của
Tolstoi cũng như bao tác giả Nga khác, họ đã sinh ra, viết
lách trên mảnh đất này mà tác phẩm của họ gần gũi
với cả nhân loại. Đó là một khoảnh khắc lạ lùng
nhất trong đời tôi. Một khoảnh khắc thiên thu.
(1)
'Trò chuyện với bác sĩ Zhivago' là tên một bài viết của
tác giả.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2012/08/pham-xuan-ai-ve-tham-tolstoi-o-ien.html?utm_source=BP_recent
--------------------------------------------------------------------------------
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để
xả stress
Sẽ xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001