Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

Ben Bland - Việt Nam: Giá phải trả 

Ben Bland, Emerging Markets
Đỗ Đăng Khoa chuyển ngữ, CTV Phía Trước
Sau một thời gian trở thành thị trường mới nổi nóng nhất tại châu Á, Việt Nam đã buộc phải kiểm tra lại tình hình thực tế khi nền kinh tế bong bóng sắp đổ vỡ. Đã bốn năm, độ co giật vẫn còn nghiệm trọng.

Thiếu thông tin trung thực

Mặc dù Trịnh Thị Huyền đã có công việc kế toán tại một công ty vận chuyển tại Hà Nội nhưng cô vẫn tiếp tục tìm kiếm việc để làm thêm.
Chồng của cô, một công nhân xây dựng, đã không thể tìm việc trong nhiều tháng vì thị trường bất động sản tại Việt Nam sụp đổ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
“Tôi rất sợ, khi mỗi ngày giá cả tiếp tục gia tăng và tôi là nguồn thu nhập duy nhất cho cả gia đình trong sáu tháng qua”, cô nói.
Sau hai thập kỷ tăng trưởng và thịnh vượng, Việt Nam trở thành một trong những thị trường mới nổi nóng nhất tại châu Á, nhưng nhiều người Việt như Huyền đã buộc phải kiểm tra lại thực tế khi nền kinh tế trở nên quá nóng trong năm 2008 và đã trải qua một loạt các cơn co giật đau đớn từ đó đến nay.
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) chỉ tăng 4,4% trong nửa năm 2012 so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số này cũng giảm mạnh từ 7% trong gia đoạn trước khủng hoảng khi chính phủ thắt chặt cung tiền cùng với nỗ lực ngăn giảm lạm phát.
Vào cuối tháng Chín vừa qua, Moody’s đã cắt giảm tín dụng của Việt Nam xuống một bậc thành B2. Đây là mức đánh giá thấp nhất mà Moody’s đã từng dành cho nước này. Đánh giá của Moody’s hiện nay thấp hơn Standard & Poor hai bậc BB- và dưới Fitch một bậc B-.
Các vụ bắt giữ gần đây đối với một số doanh nhân nổi tiếng, trong đó có Nguyễn Đức Kiên – người sáng lập ngân hàng ACB, một trong những ngân hàng tư nhân lớn nhất tại Việt Nam – về những cáo buộc phạm tội tài chính đã làm lung lay thêm nhiều vấn đề. Việc này đã tập trung tất cả sự chú ý vào sự quản lý yếu kém trong lãnh vực ngân hàng cũng như nợ quốc gia.
Với thể chế chính phủ độc tài không muốn thông báo các thông tin rõ ràng và kịp thời về các vụ bắt giữ cũng như những thông tin liên quan đến ngành ngân hàng, các nhà đầu tư nước ngoài và Việt Nam vẫn tiếp tục bày tỏ sự lo lắng về triển vọng đối với nền kinh tế nước này.
“Các vấn đề chính là hàng loạt hoạt động cho vay không hiệu quả và tài sản thị trường bất động sản đang đóng băng, với rất nhiều công ty mang nợ nặng nề”, Jonathan Pincus – người đứng đầu chương trình giảng dạy kinh tế và chính sách cho các quan chức chính phủ tại thành phố Hồ Chí Minh thuộc Đại học Harvard – cho biết.
“Ưu tiên hàng đầu là phải đối phó với các khoản nợ xấu. Nền kinh tế cần phải giải nợ, và điều này có thể mất một thời gian dài hoặc chính phủ có thể giới thiệu các chính sách để giúp tăng tốc công việc. Họ đã nói về chuyện này nhưng chưa thấy thực hiện chúng”.
Bất cứ điều gì xảy ra tiếp theo thì những thách thức đối với Việt Nam không phải là điều gì mới, và các giải pháp có thể rất khó để thực hiện.
Trong những năm nền kinh tế nước này bùng nổ trước khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) vào năm 2007, nhiều nhà đầu tư, nhà tài trợ và chính phủ đã bỏ qua các vấn đề như tham nhũng, các quy định yếu kém của nhà nước và sự thiếu đầu tư vào các lĩnh vực chủ chốt nhu y tế và giáo dục.
Khi tiền nước ngoài bắt đầu đổ vào, chính phủ đã mở rộng tín dụng rất nhanh chóng, với số tiền giá rẻ được phân bổ cho các công ty lớn thuộc nhà nước và các tập đoàn tư nhân chính trị thân hữu. Tín dụng ngân hàng như một tỷ lệ của GDP đã tăng từ khoảng 20% vào cuối những năm 1990 lên đến 136% vào cuối năm 2010, dẫn đến tình trạng Việt Nam trở thành một trong những quốc gia mang nợ nhiều nhất ở châu Á.
Phần lớn số tiền này đã được bơm vào các doanh nghiệp nhà nước không hiệu quả và đầu cơ vào thị trường chứng khoán cũng như bất động sản chứ không phải là các doanh nghiệp thực sự sản xuất sinh lời. Nhưng khi Việt Nam bắt đầu nhanh chóng đối mặt với hai cuộc khủng hoảng lạm phát và khủng hoảng tài chính toàn cầu lan rộng thì việc sụp đổ là không thể tránh khỏi.
Hai tập đoàn nhà nước khổng lồ Vinashin – công ty đóng tàu, và Vinalines – công ty vận chuyển đường biển, là hai trong những công ty nổi bật nhất đã sụp đổ trong bối cảnh nợ nần hàng tỷ đô la và đầu tư lãng phí. Hơn một chục giám đốc điều hành từ cả hai công ty này đã bị buộc tội hoặc bị kết án về các tội kinh tế và phải đối mặt với các bản án dài hạn không khoan nhượng tại Việt Nam.
Hậu quả chính trị từ thất bại đó đối với mô hình hình tăng trưởng nhanh chóng của Việt Nam hầu như đã được bịt kín trong nội bộ Đảng Cộng sản.

Cần sân chơi cạnh tranh công bằng

Một số kinh tế gia và nhà đầu tư nhìn thấy niềm hy vọng giữa cơn bĩ cực trong cuộc khủng hoảng đang diễn ra, tranh cãi rằng đây là dấu hiệu cho thấy chính phủ đang chuẩn bị đối đầu với các vấn đề mà đất nước phải đối mặt.
“Chúng tôi rất lạc quan về quyết tâm của chính phủ trong việc làm sạch các khoản nợ xấu cũng như cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước và đầu tư công”, Trinh Nguyễn, một kinh tế gia trong khu vực châu Á thuộc Ngân hàng HSBC tại Hồng Kông cho biết. “Câu hỏi là liệu điều này sẽ sớm diễn ra như thế nào”.
Mặc dù chính phủ tập trung hỗ trợ khu vực kinh tế nhà nước, nhưng nền kinh tế Việt Nam đã năng động hơn rất nhiều và chủ yếu dựa vào đầu tư nước ngoài cũng như lĩnh vực sản xuất – hai lĩnh vực chính đã giúp giữ nền kinh tế phát triển.
Cạnh tranh xuất khẩu quần áo và hàng điện tử của Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển bất chấp sự sụt giảm tại các nước phát triển khác.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng gần đây đã cắt giảm mục tiêu tăng trưởng năm nay xuống còn 5,2% vì tình hình đã trở nên xấu đi.
Với lịch sử gần đây và mức phát triển của các nước láng giềng như Indonesia, nơi được dự báo sẽ có mức tăng trưởng ở khoảng 6% trong năm nay thì Việt Nam không có nhiều điều để tự hào.
Nhưng Việt Nam có thể sống với mức tăng trưởng thấp trong một vài năm tới nếu chính phủ nước này học được những bài học đúng từ khả năng phục hồi của khu vực sản xuất. Nếu nước này thúc đẩy một sân chơi công bằng có sự cạnh tranh và tăng năng suất trong thời gian trung hạn thì cả nước có thể tận dụng lợi thế tự nhiên của lực lượng lao động trẻ, giá rẻ, và vị trí chiến lược giữa Trung Quốc và phần còn lại của Đông Nam Á.
“Chúng tôi nghĩ tăng trưởng vẫn còn ở mức thấp trong hai năm tới”, Trinh Nguyễn nói. “Tuy nhiên, nếu Việt Nam thực hiện các cải cách như dự đoán thì nền kinh tế nước này có thể trở nên tốt hơn để cạnh tranh khi nền kinh tế toàn cầu hồi phục”.
Bài báo có thêm các chi tiết được bổ sung bởi Nguyễn Phương Linh tại Hà Nội.
Nguồn: Emergin Markets
© Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC 2012
_________________________

Cầu Nhật Tân - Bức tranh ảm đạm sau Hội nghị Trung ương

Trong buổi gặp Chủ tịch nước hôm 13/10, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Vũ Tiến Lộc cùng các doanh nhân tiêu biểu cả nước đã báo cáo với Chủ tịch nước:“trong 9 tháng đầu năm 2012 đã có trên 40.000 doanh nghiệp phải giải thể và ngừng hoạt động. Số doanh nghiệp còn lại hoạt động trong tình trạng khó khăn chật vật”.

Sản xuất kinh doanh đình đốn, thất nghiệp trầm trọng, tiền vốn ngập hết vào bất động sản

Theo thống kê chính thức của Bộ Kế hoạch Đầu tư: tính riêng năm 2011 đã có tới 53.000 doanh nghiệp đóng cửa và phá sản, và gần 40.000 doanh nghiệp lâm vào cảnh tương tự trong 8 tháng đầu năm 2012. Con số này gần bằng một nửa con số các doanh nghiệp đóng cửa và phá sản kể từ năm 1986 tới nay. Đáng lo hơn hoạt động của các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị trường cũng không khá hơn. Thống kê cho thấy hầu hết các doanh nghiệp đã giảm công suất hoạt động, thậm chí nhiều doanh nghiệp chỉ còn tồn tại hình thức bởi không tiêu thụ được sản phẩm, lượng hàng tồn kho cao. Nếu tính trung bình các doanh nghiệp này giảm công suất 20% tương đương với khoảng 150.000 doanh nghiệp nữa đóng cửa và phá sản. Số người thất nghiệp do doanh nghiệp thu hẹp sản xuất, kinh doanh lên đến hàng triệu người.
Do kinh tế khủng hoảng, người dân đã tự thắt lưng buộc bụng. Hàng hóa do đó không tiêu thị được. Hàng triệu tỷ đồng vốn đang bị chôn trong hàng hóa tồn kho, trong đó hàng tồn bất động sản lớn nhất. Tính riêng ở Hà Nội và Sài Gòn, thị trường bất động sản có tới trên 70.000 căn hộ đang bị ế. Ít nhất có tới 140 nghìn tỷ đồng đang bị chôn, mà phải mất hàng chục năm sau may ra mới có cách xử lý.
Báo cáo của Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia ước tính, khu vực bất động sản đã được các ngân hàng bơm gần 350 nghìn tỷ đồng, một số vốn khổng lồ tương đương trên 17 tỉ USD. Đó là chưa tính các dự án “ma” được các ngân hàng cho đội tên khác nhưng vốn vẫn chảy vào bất động sản mà không thể thu hồi được.
Một nhà nghiên cứu kinh tế cho biết, nếu tính cả dự án “ma”, tổng vốn đang chôn vào bất động sản ước khoảng trên 30 tỉ USD trên địa bàn cả nước. Toàn bộ các doanh nghiệp bất động sản đều rơi vào tình trạng không bán được hàng, không thu được tiền vốn, đang ngập sâu trong nợ ngân hàng và hoàn toàn đủ điều kiện phá sản.
Nhìn ra khu vực công, tình hình cũng không sáng sủa hơn. Năm 2011, tổng số nợ vốn đầu tư của 63 tỉnh và thành phố là 91.273 tỷ đồng của 47.209 dự án; trong đó, nợ vốn các công trình xây dựng cơ bản đã hoàn thành là 25.423 tỷ đồng, nợ vốn của 20.921 dự án đang triển khai là 65.850 tỷ đồng, dãn tiến độ 41 dự án với tổng số vốn là 38.320 tỷ đồng. Hậu quả của tình trạng trên, không gì khác là số phận hẩm hiu của các doanh nghiệp và người lao động. Đang có nhiều doanh nghiệp “chết” hoặc “chờ chết” vì không thu được món nợ này.

Doanh nghiệp Nhà nước - những con nợ khổng lồ

Doanh nghiệp Nhà nước hiện sử dụng vốn tín dụng chiếm tới khoảng 70% tổng số nợ xấu, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Ngoài ra, nợ xấu của khu vực tập đoàn, tổng công ty chiếm tới 30 – 35% tổng dư nợ của khối này trong vay nợ từ hệ thống ngân hàng thương mại.
Tổng dư nợ đó của 12 tập đoàn kinh tế Nhà nước lên tới gần 218.740 tỷ đồng, theo Đề án tái cấu trúc khu vực doanh nghiệp Nhà nước của Bộ Tài chính năm 2012. Trong đó dư nợ lớn nhất thuộc về Tập đoàn Dầu khí (PVN – 72.300 tỷ đồng), Điện lực (EVN-62.800 tỷ đồng), Than và Khoáng sản (Vinacomin – 19.600 tỷ đồng).
Ngoài khu vực ngân hàng, nợ xấu của khu vực doanh nghiệp đang “rất lớn” ở Ngân hàng Phát triển (VDB). Chẳng hạn, Vinashin vay ưu đãi VDB gần 300 tỷ đồng lãi suất bằng 0% để hỗ trợ trả lương và phụ cấp; EVN được vay hơn 5.000 tỷ đồng. Còn trong các năm trước đó, Vinalines cũng vay VDB để phát triển tàu mới; Xi măng Đồng bành vay 290 tỷ đồng…
Hiện nay, nợ của các tập đoàn, tổng công ty… chiếm độ 75 – 80% tổng dư nợ của Ngân hàng Phát triển VDB. Các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù số lượng thấp hơn doanh nghiệp tư nhân nhưng nợ thuế cũng khổng lồ. Con số nợ thuế chưa trả của các DN Nhà nước chiếm khoảng 13% trên tổng số nợ thuế.
Khối các ngân hàng thương mại cũng không khá hơn. Bởi lẽ, giữa năm 2012 NHNN công bố tỷ lệ nợ xấu của Việt Nam là 8,6% tổng dư nợ nghĩa là vào khoảng 202 nghìn tỷ đồng, nhưng trên diễn đàn Quốc hội, Thống đốc NHNN lại thông báo con số 10%, và dư luận lại đánh giá có thể ở mức cao hơn 10%. Gánh nặng này thật sự đã đè gần bẹp khả năng phát triển của nền kinh tế vì vốn là một trong những điều kiện tiên quyết của hoạt động doanh nghiệp.

DNNN nợ nần chồng chất, nhà nước dùng tiền của dân đứng ra trả nợ thay

Những số liệu mới nhất cho thấy khu vực DNNN hiện đóng góp vào 70% nợ xấu của toàn hệ thống tín dụng, trong đó các tập đoàn kinh tế, tổng công ty chiếm 53% số nợ xấu. Nếu ước tính nợ xấu của hệ thống là 10% tổng dư nợ tín dụng, như theo công bố của NHNN, thì nợ xấu của khu vực DNNN sẽ ước khoảng 200 nghìn tỷ đồng và nợ xấu của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty sẽ vào khoảng 153 nghìn tỷ đồng.
Còn một khối nợ lớn nữa là khối nợ do Nhà nước bảo lãnh cho các doanh nghiệp vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài. Hiện, Bộ Tài chính chưa có con số chính xác nhưng ước tính tổng nợ loại này khoảng 7-10 tỉ USD và nhiều con nợ là các doanh nghiệp nhà nước đã mất khả năng trả nợ. Gần đây nhất, với tư cách là người bảo lãnh, Bộ Tài chính đã phải đứng ra trả 3,5 triệu USD cho ngân hàng ANZ thay cho Xi măng Đồng Bành, trả nợ vốn vay đầu tư đến hạn của Vinaincon tại Ngân hàng BNP Paribas, với số tiền 4,2 triệu Euro.

Hậu quả

Những món nợ trong nợ ngoài, những cú ảo thuật rót đi rót lại hiện đã ngốn của quốc gia khoảng 65-70 tỉ USD. Đây thực sự là những cú đấm chí mạng khiến nền kinh tế quốc dân chao đảo, ngã gục không gượng dậy được. Nhân dân thì không có công ăn việc làm, mất thu nhập, đối mặt với lạm phát, giá cả leo thang, đời sống ngày càng cùng cực. Hơn lúc nào hết, Việt Nam đang bị xoáy vào một cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất kể từ 1985, đang phải đối mặt với nhiều thách thức cả bên trong lẫn bên ngoài.
Theo blog Cầu Nhật Tân
Admin gửi hôm Thứ Hai, 15/10/2012 
nguồn:http://danluan.org/tin-tuc/20121015/ben-bland-viet-nam-gia-phai-tra
==================================================================
Chú ý: Nhấn vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
          Sẽ xóa những comment nói tục
          Thinhoi001

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001