Gs Nguyễn Mạnh Hùng: Rất khó tin vào Tập Cận Bình – Việt Nam đã nằm trong quỹ đạo của Trung Quốc
Cũng trong cuộc phỏng vấn sẽ được chiếu trên Đài Truyền hình SBTN tối
Thứ Sáu (8/11/2013) trong Chương trình “Những Vấn Đề Việt Nam”, Giáo sư
Hùng còn giải thích tại sao Trung Quốc phải “cải tổ sâu rộng” trong thời
gian tới và có phải Việt Nam đã “nằm gọn” trong qũy đạo của Trung Quốc,
sau chuyến thăm Hà Nội của Thủ tướng Lý Khắc Cường?
Sau đây là Toàn văn cuộc Phỏng vấn:
H: Thưa Giáo sư, như ông đã biết trong tháng 10 vừa qua, hai
Lãnh tụ hàng đầu của Trung Quốc là Tổng Bí thư và Chủ tịch Nhà nước Tập
Cận Bình và Thủ tướng Lý Khắc Cường đã thăm một số nước trong vùng Đông
Nam Á và đồng thời đề nghị khối ASEAN hợp tác để “phát triển trên biển”
và cùng nhau xây dựng “Con đường tơ lụa trên biển” trong thế kỷ 21.
Ông có biết tại sao Trung Quốc lại tỏ ra tha thiết muốn hợp tác chặt
chẽ với các nước Đông Nam Á vào thời gian này và đâu là lý do khiến họ
đặt trọng tâm vào việc yêu cầu khối ASEAN “hợp tác và phát triển trên
Biển Đông”?
Đ: Đây là chiến dịch “tấn công thiện” cảm đợt 2 (second charm
offensive) của Trung Quốc theo chính sách “mềm nắn, rắn buông.” Chiến
dịch tấn công thiện cảm đợt 1 được khởi động trong những năm đầu thế kỷ
nhắm vào các nước Đông Nam Á, trùng hợp với giai đoạn George W. Bush lên
cầm quyền với chính sách ngoại giao đơn phương, áp đặt. Nó được thể
hiện qua chính sách viện trợ rộng rãi, các ưu đãi thương mại, và việc ký
kết “Hiệp ước thân thiện và thân hữu” với ASEAN song song với việc thay
cụm từ “trỗi dậy hòa bình” (peaceful rise) bằng cụm từ “phát triển hòa
bình” (peaceful rise) để giải tỏa mối lo ngại về hậu quả của sự lớn mạnh
nhanh chóng của Trung Quốc.
Tình hình này thay đổi từ khi Trung Quốc công khai công bố “Đường lưỡi
bò” trên Biển Đông (2009) và dùng vũ lực để áp đặt đòi hỏi quá đáng của
mình. Chính sách này tạo ra phản ứng bất lợi từ phía Mỹ và các nước Á
châu khác khiến họ nghiêng về Mỹ và tìm cách củng cố quan hệ quốc phòng
với Mỹ. Thêm vào đó, việc can thiệp trăng trợn và gây chia rẽ trong nội
bộ ASEAN khiến tập thể này không đưa ra được thông cáo chung kết thúc
hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Nam Vang năm 2012 khiến các quốc gia đó
cảnh giác và đoàn kết hơn trước áp lực của Trung Quốc. Tình trạng bất
lợi này là nguyên nhân dẫn đến chiến dịch “tấn công thiện cảm” đợt 2,
vớí khẩu hiệu “con đường tơ lụa” và “hợp tác để phát triển trên biển.”
Nên nhớ chính sách này chỉ được áp dụng một cách tùy tiện. Trong khi
Trung Quốc ve vãn một số các nước Đông Nam Á thì họ lại gia tăng áp lực
đối với một số nước mà Trung Quốc cho là cứng đầu và không thể lôi ra
khỏi quỹ đạo của Mỹ, như Nhật và Phi Luật Tân. Đây là chính sách “cây
gậy và củ cà rốt” vừa ve vãn vừa răn đe các nước Đông Nam Á.
H: Theo các Tài liệu mà tôi đọc được thì các nước trong Hiệp
hội 10 Quốc gia Đông Nam Á, đặc biệt là các thành viên “có tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ ở Biển Đông với Trung Quốc “gồm Việt Nam, Phi Luật
Tân, Ma Lai Á, Brunei và Nam Dương tỏ ra “rất dè dặt” với đề nghị mới
của Trung Quốc.
Theo Giáo sư thì nguyên nhân “dè dặt” của ASEAN bắt nguồn từ đâu? Vì
chưa biết bụng dạ Trung Quốc ra sao hay ASEAN cần có thời gian để suy
nghĩ?
Đ: Lãnh đạo các nước ASEAN không ngây thơ và dễ tin. Họ dè dặt vì
muốn chờ xem hành động cụ thể của Trung Quốc như thế nào. Sư dè dặt này
bắt nguồn từ kinh nghiệm của họ với những hành vi lấn lướt của Trung
Quốc trong thời gian qua, với đòi hỏi về lãnh thổ và lãnh hải quá đáng
của Trung Quốc, cũng như quan tâm của họ về ý đồ thực sự của nước này
qua chương trình canh tân quân sự, gia tăng nhanh chóng khả năng tấn
công của Trung Quốc.
Tuy nhiên, sự dè dặt của các nước ấy cũng khác nhau về mức độ. Trong
những nước mà ông kể thì Indonesia không có tranh chấp Biển Đông với
Trung Quốc và họ còn muốn đóng vai trò trung tâm trong vùng Ấn Độ-Thái
Bình Dương (Indo-Pacific) chứ không phải chỉ trong vùng Á châu-Thái Bình
Dương. Tương đối họ không ngại Trung Quốc trừ khi Trung Quốc làm hại
đến sự đoàn kết ASEAN và vai trò trung tâm của ASEAN (ASEAN centrality)
mà Indonesia là một thành phần chủ lực. Đối với bốn nước còn lại, tranh
chấp biển đảo với Trung Quốc của Brunei và Mã Lai Á không gay gắt bằng
tranh chấp biển đảo với Trung Quốc của Việt Nam và Phi Luật Tân cho nên
sự dè dặt của hai nước sau này cũng lớn hơn.
H: Trong Bài diễn văn đọc trước Quốc hội Nam Dương ngày 3/10
vừa rồi, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nói rằng: “Trung Quốc và các
nước ASEAN như môi với răng, cùng gánh vác trách nhiệm giữ gìn hòa bình
và ổn định của khu vực… Chúng ta cần phải từ bỏ tư duy Chiến tranh Lạnh,
tích cực đề xướng quan niệm mới về an ninh tổng hợp, an ninh chung, an
ninh hợp tác, cùng nhau giữ gìn hòa bình và ổn định của khu vực”.
Ông thấy đề nghị này của họ Tập có “nghiêm chỉnh không”? Ông có thấy
là giới lãnh đạo mới của Trung Quốc không còn có ý đồ “bá quyền” như
thời “Diều hâu-Bá đạo” Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình không?
Đ: Bài diễn văn của ông Tập rất khéo với nhiều hứa hẹn đường mật.
Mục đích chính của nó là khuyến cáo cần tránh chiến tranh lạnh, vì
chiến tranh lạnh sẽ đưa đến thế đối đầu, liên minh quân sự, tranh vùng
ảnh hưởng khiến Trung Quốc có thể lâm vào thế bị Mỹ vây chặn với chính
sách be bờ mới (containment).
Còn ý đồ bá quyền là ý đồ tự nhiên của nước lớn mạnh nhất trong vùng, không lãnh tụ Trung Quốc nào tránh được hấp lực của nó.
Diều Hâu hay hòa bình?
H: Thưa Giáo sư Hùng, cũng trong Bài Diễn văn ấy, ông Tập Cận
Bình cũng nói:”Về một số bất đồng và tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và
quyền lợi biển giữa Trung Quốc và một số nước Đông Nam Á, hai bên cần
phải trước sau như một kiên trì giải quyết bằng biện pháp hòa bình, xử
lý thoả đáng thông qua đối thoại bình đẳng và hiệp thương hữu nghị, giữ
gìn đại cục của quan hệ song phương và ổn định của khu vực.”
Ông có lạc quan khi thấy ông Tập Cận Bình đã khẳng định dùng “biện
pháp hòa bình”, thay vì võ lực để giải quyết tranh chấp và như vậy phải
chăng họ Tập đã kìm chế được phe Diều hâu hiếu chiến ở Trung Quốc vẫn hô
hào sử dụng võ lực để đánh chiếm cho thật nhanh các quần đảo còn lại
trên Biển Đông, phần lớn thuộc chủ quyền của Việt Nam?
Đ: Đề nghị kể trên của ông Tập không có gì hoàn toàn mới, nó chỉ
nhắc lại lập trường và cam kết cũ. Chừng nào mà Trung Quốc chưa chính
thức bãi bỏ “Đường lưỡi bò” và tương quan lực lượng giữa Trung Quốc với
các quốc gia tranh chấp không đồng đều thì khó có thể có sự “xử lý thỏa
đáng” thông qua “đối thoại bình đẳng được.”
Nói rằng Tập Cận Bình đã củng cố được quyền lực của mình thì đúng, còn
bảo rằng ông kiểm soát được “phe Diều hâu hiếu chiến” thì không đúng
hẳn. Tôi không nghĩ rằng việc “hô hào xử dụng võ lực để đánh chiếm thật
nhanh” các đảo còn lại trên Biển Đông phản ánh lập trường của một phe có
thế lực trong Bộ Chính Trị của Trung Quốc, nhất là của phe quân đội,
như nhiều nhà bình luận suy đoán. Trong tổ chức chính trị của các đảng
cộng sản nói chung và của đảng cộng sản Trung Quốc nói riêng thì “chính
trị là thống soái,” quân đội luôn luôn phải ở dưới quyền kiểm soát của
lãnh đạo chính trị. Nếu đó là áp lực của quân đội thì tại sao Trung Quốc
lại đấu dịu ở Đông Nam Á trong khi làm găng với Nhật ở Bắc Á?
H: Thưa Giáo sư, ông là Chuyên viên về Chính trị và Ngoại giao
Quốc tế tại Đại học George Mason, ông đánh giá về “con người Hòa Bình”
của Tổng Bí thư đảng CS Trung Quốc Tập Cận Bình như thế nào sau khi nghe
họ Tập nói câu này trước Quốc hội Nam Dương ngày 3/10 vừa qua: “Trung
Quốc sẽ kiên định bất di bất dịch đi con đường phát triển hòa bình, kiên
định bất di bất dịch thi hành chính sách ngoại giao hòa bình độc lập và
tự chủ, kiên định bất di bất dịch thi hành chiến lược mở cửa cùng có
lợi cùng thắng. Sự phát triển của Trung Quốc là sự lớn mạnh của lực
lượng hòa bình thế giới, là sự tăng cường cho năng lượng dương hữu nghị,
mang lại cơ hội phát triển chứ không phải là đe dọa cho châu Á và thế
giới.”?
Đ: Ở Hoa Kỳ, nếu Tổng Thống Franklin Roosevelt có thể bỏ chủ
thuyết Monroe coi Mỹ là thống soái ở Mỹ châu La tinh để thay thế nó bằng
chính sách “láng giềng thân thiện” (good neighborliness) thì người ta
cũng có thể hy vọng Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình thật tâm muốn thay
đổi chính sách ngoại giao của Trung Quốc như lời ông nói.
Tuy nhiên, ta cũng nên nhớ rằng các hành động lấn lướt, khiêu khích gần
đây của Trung Quốc, như cát giây cáp của tàu Việt Nam và khuynh đảo sự
đoàn kết của ASEAN trong hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 2012 ở Nam Vang,
đều đã xảy ra trong nhiệm kỳ của ông Tập.
Nói đến lời hứa, tôi xin nhắc đến tuyên bố chắc nịch của Ayatollah Ali
Khameini. Nhà lãnh đạo tôn giáo tối cao của Iran từng xác quyết rằng
Iran sẽ không bao giờ chế tạo bom nguyên tử vì hành động này không những
“vô ích, nguy hiểm” mà còn là một “cái tội,” không phù hợp với kinh
Quran (kinh thánh của Hồi giáo). Cho đến giờ phút này, tôi tin lời của
ông Khameini hơn lời hứa của ông Tập.
Trung Quốc cải tổ và Việt Nam
H: Thưa Giáo sư, Hội nghị Trung ương 3 Khóa 18 của đảng Cộng
sản Trung Quốc sẽ diễn ra từ ngày 09 đến 12 tháng 11 này, theo đó một kế
họach được gọi là “cải tổ toàn diện và sâu rộng” nhất từ Cuộc cải cách
33 năm trước dưới thời Đặng Tiểu Bình sẽ được đem ra thảo luận.
Ông đánh giá như thề nào về quyết định cải tổ lần này và tại sao Trung Quốc lại cần phải có một cuộc “cải tổ sâu rộng” như vậy?
Đ: Trước hội nghị trung ương 3 năm nay của đảng Cộng Sản Trung
Quốc, có nhiều tin đồn về “cải tổ toàn diện và sâu rộng” xuất phát từ
ngay những người thân cận với ông Tập Cận Bình; họ cho rằng những cải tổ
trung ương 3 khóa 18 lần này nếu không quan trọng hơn thì cũng không
kém những cải tổ do Đặng Tiểu Bình đề xuất tại trung ương 3 khóa 11.
Lý do cần có những cải tổ quan trọng vì mức độ phát triển kinh tế của
Trung Quốc bị khựng lại trước tình hình kinh tế toàn cầu không có gì là
khả quan. Cải tổ của Đặng Tiểu Bình đã đi hết chu kỳ của nó. Mô thức
phát triển cũ dựa vào xuất khẩu dùng nhân công rẻ để sản xuất hàng rập
khuôn hàng nước ngoài không hữu hiệu nữa khi giá nhân công Trung Quốc
gia tăng và khả năng tiêu thụ hàng Trung Quốc ở bên ngoài giảm. Nhiều
kinh tế gia cho rằng mô thức phát triển mới của Trung Quốc phải dựa vào
tiêu thụ nội địa và vào khả năng sáng tạo và phát minh, nhưng khó có thể
khuyến khích sáng tạo trong một môi trường chính trị kiểm soát, thông
tin bưng bít. Nhu cầu cải tổ chính trị một cách sâu rộng thì có, làm thế
nào để cải tổ mà vẫn giữ được ổn định chính trị là một thử thách lớn
cho trung ương 3.
Ngay trong trung tâm quyền lực của Trung Quốc cũng có những đề nghị cải
tổ mạnh bạo. Thông Đốc Ngân Hàng Trung Ương Chu Tiểu Xuyên hô hào cải tổ
lãnh vực tài chính. Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Triển thuộc Quốc Vụ Viện
(Hội đồng Nội các) đề nghị giảm đặc quyền kinh tế của các xí nghiệp quốc
doanh, cho nông dân quyền mua bán ruộng đất, và cho chính quyền địa
phương rộng quyền hơn trong việc thu thuế và sử dụng thuế. Những cải tổ
này không những chỉ đụng chạm đến tín điều căn bản của Xã hội Chủ nghĩa
mà còn đụng chạm đến đặc quyền đặc lợi của nhiều người trong giới lãnh
đạo Trung Quốc. Đó là những quyết định nhức nhối mà trung ương 8 của
đảng Cộng sản Trung quốc phải cứu xét và chọn lựa.
H: Sau cùng, xin Giáo sư bình luận về Thỏa hiệp mới về “hợp
tác trên biển” giữa Việt nam và Trung Quốc vừa công bố trong Tuyên bố
chung tại Hà Nội ngày 15/10/2013, tiếp theo sau chuyến thăm 2 ngày của
Thủ tướng Lý Khắc Cường. Tôi muốn hỏi ông rằng, có phải thỏa hiệp Hà Nội
đã đáp lại mong muốn của Bắc Kinh như những gì hai ông Tập Cận Bình và
Lý Khắc Cường đã nói trong các chuyến du hành Đông Nam Á của họ trong 2
tuần lễ đầu tháng 10 vừa qua?
Đ: Lần trước ông (Chủ tịch Nhà nước) Trương Tấn Sang đi Trung
Quốc (19/06/2013) để ký kết “Chương trình hành động giữa Chính phủ Việt
Nam và Chính phủ Trung Quốc về việc triển khai quan hệ đối tác hợp tác
chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc.” Lần này ông Cường thăm Việt
Nam, ký tuyên bố chung làm “sâu sắc thêm hợp tác chiến lược toàn diện”
giữa hai nước. Về ngôn từ thì vẫn “16 chữ vàng, 4 tốt, hợp tác cùng phát
triển, để ý đến đại cục, xử lý thỏa đáng các vấn đề tồn tại, dễ trước
khó sau…” Về bản chất thì những cam kết này chỉ nhằm xây dựng quan hệ
chằng chịt giữa hai nước và hai đảng về mọi phương diện, mọi cấp bậc,
qua cả những dự án xây cất đường xá và phương tiện giao thông nối liền
hai nước và chương trình nối kết thế hệ thanh niên hai nước, khiến Việt
Nam khó thoát khỏi quỹ đạo của Trung Quốc không những bây giờ mà còn
trong tương lai
Riêng vấn đề “hợp tác cùng phát triển trên biển,” tuyên bố chung chỉ đưa
ra những nguyên tắc đàm phán. Cụ thể là cam kết “kiểm soát tốt những
bất đồng trên biển, không có hành động phức tạp, mở rộng tranh chấp” và
tìm kiếm các “biện pháp có hậu quả để kiểm soát tranh chấp.” Đó chỉ là
những lời hứa. Mà lời hứa thì không mất tiền mua. -/-
(6/11/2013)
nguồn:http://danlambaovn.blogspot.de/2013/11/gs-nguyen-manh-hung-rat-kho-tin-vao-tap.html#.Unz8rieAWRA
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001