Thứ Năm, 14 tháng 11, 2013

Nguyễn Sỹ Phương - Hiến pháp, khoa học, lợi ích và thực tế

Nguyễn Sỹ Phương - Hiến pháp, khoa học, lợi ích và thực tế 



TS Nguyễn Sỹ Phương CHLB Đức
I - Thước đo nào cho một văn bản Hiến pháp?
Một con sói xuống uống nước phía thượng nguồn, nhác thấy một con cừu uống nước phía hạ nguồn liền quát, sao mày dám làm đục dòng nước ta uống, ta sẽ ăn thịt mày. Câu chuyện ngụ ngôn chân lý thuộc về kẻ mạnh của phương Tây trên cho một hình ảnh giữa khoa học (ở đây là quy luật dòng chảy) và cách thức xử sự đối với khoa học đó tùy thuộc lợi ích sử dụng nó (ăn thịt con cừu).
Khác với loài vật chỉ hành động bản năng theo lợi ích, loài người có ý thức, lợi ích chỉ mới là điều kiện cần đạt tới, muốn thành công phải bảo đảm khoa học tức điều kiện đủ, không thể bất chấp khoa học như sói coi nước chảy ngược được. Hậu hoạ có thể rút ra từ câu chuyện cổ tích “Bộ quần áo mới của Hoàng đế“. Để đạt được lợi ích buộc ai cũng phải thừa nhận bộ quần áo mới, Hoàng Đế dựa vào “học thuyết“, chỉ những ai trung thành hoặc không trễ nại mới có thể nhìn thấy nó. Học thuyết đó bị phá sản làm lợi ích bộ quần áo mới cũng mất nốt, khi trẻ em vốn không bị chi phối bởi lợi ích nào cả, trông thấy, reo lên, “Hoàng Đế cởi truồng“ bác bỏ học thuyết trên. Ý nghĩa câu chuyện này còn minh chứng cho nguyên lý, thực tế là thước đo của khoa học, chứ không phải quyền lực hay lợi ích. Thừa nhận khoa học, nhưng sử dụng nó không tính kỹ tới tương quan lợi ích đạt được chắc chắn thất bại. Thuyết tương đối Einstein tới nay được cho là đúng, nhưng công thức tính vận tốc, quãng đường, thời gian của nó thực tế không dùng, ngoại trừ nghiên cứu khoa học, bởi vô nghĩa.
Khác với động vật không mang tính cá thể chỉ phân biệt giống loài, nói cách khác chết con nọ có con kia, loài người không thể lấy người nọ sống thay người kia, chết người này có người khác. Vì vậy, khái niệm lợi ích ở đây được hiểu là lợi ích từng con người cụ thể cộng lại chứ không phải lợi ích chung chung như đối với giống loài động vật; nếu không bảo đảm được nguyên lý đó càng thất bại hơn, bởi tạo ra trong lòng nó xung đột lợi ích triệt tiêu lẫn nhau. Chế độ Xã hội Chủ nghĩa Quốc gia Đức (gọi tắt Quốc xã) bị nhân loại chôn vùi là 1 thực tế, khi Hitler theo đuổi lý tưởng đẹp đẽ nhất xây dựng một dân tộc Đức thượng đẳng (được đại đa số dân Đức ủng hộ bầu lên nắm quyền), nhưng lại bằng cách tiêu diệt hết những người bị coi giá trị thấp, thiểu năng, đồng tính, người nước ngoài, ngoại lai, đảng cộng sản, và tiếp đó là các đảng đối lập khác. Chỉ tính trong 2 năm đầu Hitler cầm quyền, hơn nửa triệu người như vậy bị giết, và được giải thích, sẽ bù đắp bằng những người giá trị cao được ưu tiên sinh đẻ hàng năm (như chọn giống động vật). Chế độ thực dân là một minh chứng thời đại. Được xây dựng cả thế kỷ hầu khắp toàn cầu rốt cuộc bị lịch sử đào thải, chỉ vì chúng giương cao ngọn cờ khoa học “mọi người sinh ra đều bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền không ai có thể chối cãi được“, nhưng lại nhằm phục vụ chỉ cho lợi ích riêng chúng, bằng cách hy sinh lợi ích nước khác “tới cướp đất nước ta áp bức đồng bào ta“.
Vậy những tiền đề khoa học nào, lợi ích nào được dùng làm thước đo, đo lường một văn bản Hiến pháp, để xem nó đúng sai chỗ nào, mức độ ra sao?
II - Tiền đề khoa học hiến pháp
Khoa học được xây dựng trên những tiền đề, nguyên lý, phạm trù, khái niệm nhất định. Khi nói đúng khoa học mặc nhiên được hiểu đúng với các tiền đề đó, hay nói cách khác tiền đề được dùng làm thước đo. Hình học phẳng đưa ra Xuất phát từ khái niệm điểm đường với tiên đề qua một điểm ngoài 1 đường thẳng chỉ có thể kẻ được 1 đường thẳng song song với đường thẳng cho trước và chỉ một mà thôi. Vì vậy khi nói các định lý hệ quả hình học phẳng đúng, thì mặc nhiên được coi đúng với các khái niệm tiên đề trên. Không thể lấy tiên đề hình học Phi Ơ-Clit: có thể kẻ được nhiều đường thẳng chứ không chỉ một để chứng minh các định lý hình học phẳng được. Cũng vậy, vật lý sơ khai đưa ra tiền đề quả đất đứng yên, chính vì vậy hệ qủa mặt trời, mặt trăng, và vũ trụ quay quanh nó là đúng, theo nghĩa đúng với tiền đề trên, còn gọi là hệ quy chiếu, trong xã hội học gọi là quan điểm. Không thiếu lịch giờ ngày tháng mùa năm xây dựng từ hồi đó đến nay vẫn dùng, đều xuất phát từ tiền đề qủa đất đứng yên. Tới vật lý cổ điển khẳng định không chỉ quả đất quay quanh mặt trời, mà mặt trời còn quay quanh trục thiên hà... do xuất phát từ tiền đề, hệ quy chiếu là hệ trục tọa độ 3 chiều cố định trong không gian. Đến vật lý tương đối đưa ra công thức tính không gian, thời gian co giãn theo tốc độ. Công thức này đúng, bởi nó được rút ra từ tiên đề: ánh sáng có tốc độ tối đa và không đổi trong mọi hệ quy chiếu, nghĩa là công thức đó đúng với tiền đề trên (không đúng với tiền đề vật lý cổ điển hay sơ khai).
Hiến pháp cũng vậy. Một văn bản Hiến pháp khoa học hay không, trước hết phải đối chiếu với những tiền đề, nguyên lý, phạm trù khái niệm của bộ môn khoa học Hiến pháp. Tuy nhiên khoa học luôn phát triển, như quang học khởi đầu đưa ra tiền đề sóng ánh sáng, tiếp theo lại khẳng định hạt ánh sáng, và ngày nay thì thống nhất ánh sáng vừa tính sóng vừa tính hạt. Khoa học Hiến pháp cũng vậy, lịch sử khởi nguồn từ năm 2300 trước Công nguyên, khi vua Urukagina ở thành phố Lagash, nước Sumer ban hành một văn bản luật lần đầu tiên trong lịch sử nhà nước nhân loại, được coi là Hiến pháp xưa nhất, qua cả một quá trình phát triển hàng ngàn năm cho ta kiến thức khoa học Hiến pháp hiện đại, được dùng làm thước đo đo lường một bản hiến pháp ban hành ngày nay có tính khoa học hay không. Theo đó, ngoại diên và nội hàm khái niệm Hiến pháp ngày nay, bao gồm các dấu hiệu:
1- Là văn bản luật. Tức mang tính chế tài, nghĩa là:
1.1- Được cơ quan dân cử ban hành;
1.2- Khi vi phạm được xét xử;
1.3- Án quyết phải được thi hành, ngoại trừ bất khả kháng.
1.4- Là thước đo pháp lý, nên nó phải đưa ra được những chuẩn mực, quy tắc xử sự, có khả năng định lượng.
Thiếu 1 trong 4 dấu hiệu trên không phải là 1 văn bản luật, một văn bản hiến pháp như vậy thiếu tính khoa học.
2- Không phải tất cả văn bản luật thoả mãn 4 dấu hiệu trên đều là hiến pháp mà chỉ văn bản luật gốc, tức thoả mãn các dấu hiệu:
2.1- Các luật khác phải phù hợp với nó, hay dẫn xuất từ nó;
2.2- Được dùng làm thước đo để đo lường các văn bản luật khác và hành xử của cơ quan công quyền có đúng với nó hay không. Đây chính là giá trị sử dụng pháp lý của Hiến pháp. Theo Mác “Đường tàu không có tàu chạy thì gọi là thanh sắt“; hiến pháp cũng vậy, nếu không bao giờ được sử dụng làm thước đo trên, thì cũng có nghĩa không có giá trị sử dụng pháp lý, chỉ mang ý nghĩa tư tưởng của một bản tuyên ngôn hay nghị quyết của một tổ chức, không được coi là Hiến pháp về mặt khoa học.
Do chưá đựng 2 dấu hiệu 1 và 2 mà Hiến pháp Đức đã được sử dụng để xét xử 80.046 vụ bị cáo buộc sai Hiến pháp trong vòng 40 năm 1951-1990 và lên gấp đôi 151.424 vụ trong 15 năm nước Đức thống nhất 1990-2005.
2.3- Đối tượng điều chỉnh của nó là các mối quan hệ pháp lý về cơ cấu tổ chức nhà nước, giữa các nhánh quyền lực và các cấp, những quyền và trách nhiệm quan trọng nhất của chúng, các chuẩn mực quy tắc xử sự cả nội dung lẫn thủ tục phải thực hiện khi ra quyết định, những giới hạn quyền lực không được phép vượt qua.
2.4- Xuất phát từ 3 dấu hiệu trên, nên hiến pháp: chỉ có thể sửa khi điều khoản đó bị thực tế chống lại tới mức, không thay đổi không thể được, thông thường do quốc hội thực hiện; chỉ có thể thay hoàn toàn thông qua hội nghị đại biểu hay quốc hội lập pháp, khi thay đổi thể chế (bằng hoà bình hay bạo lực).
III - Tiền đề khoa học về chính trị, nhà nước
Đối tượng điều chỉnh liên quan tới nhà nước, nên một văn bản hiến pháp khoa học hay không còn phải xem xét dưới góc độ khoa học chính trị, nhà nước. Gần 200 quốc gia trên thế giới, được khoa học chính trị phân loại theo hình thức hiến định (constitutional form), thành nhóm Cộng hòa (republic) 137 nước (trong đó có Việt Nam), 38 nước Quân chủ lập hiến (constitutional monarchy), 6 nước Quân chủ chuyên chế (absolute monarchy). Phân loại theo nguồn gốc quyền lực (power source) có bốn loại hình: Dân chủ (rule of the people – Democracy, gồm 25 quốc gia dân chủ đầy đủ, 53 dân chủ khiếm khuyết Flawed democracy, chiếm chừng 1/3 thế giới, không có Việt Nam), Quân quyền (monarchy), Thần quyền (theocracy), Chuyên quyền (authoritarianism). Phân loại theo ý thức hệ, sẽ có loại hình nhà nước Xã hội Chủ nghĩa và không Xã hội Chủ nghĩa.
1- Loại hình Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa dựa trên tiền đề:
1.1- Về chính trị, nhà nước với cả 3 nhánh quyền lực cùng toàn xã hội đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
1.2- Về kinh tế theo mô hình quản lý tập trung trên nền tảng công hữu tư liệu sản xuất.
1.3- Về tư tưởng, văn hóa lấy học thuyết Mác Lê-nin làm nền tảng chính trị. Hiến pháp Xã hội Chủ nghĩa được coi là đúng với tiền đề khoa học chính trị, khi đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu trên.
2- Loại hình nhà nước dân chủ đầy đủ ngược lại xây dựng và hoạt động trên tiền đề:
2.1- Các đảng không nằm trên xã hội hay nhà nước để lãnh đạo nó, mà chỉ là những bộ phận khác nhau trong nhân dân, phản ảnh ý nguyện chính trị các bộ phận khác nhau trong nhân dân, nhằm tham chính (được bầu vào quốc hội), chấp chính (được lập chính phủ, gọi là cầm quyền) để thực hiện ý nguyện đó.
2.2- Kinh tế thị trường.
2.3- Tư tưởng đa nguyên.
2.4- Hiến pháp họ vì vậy, có chức năng kép một mặt tạo dựng nhà nước theo mô hình tam quyền phân lập với các chuẩn mực, quy tắc xử sự cho từng cơ quan quyền lực. Mặt khác phải đưa ra những quy phạm bảo đảm quyền lực đó được giới hạn bởi quyền cơ bản. Áp dụng cơ chế bảo hiến nhằm bảo đảm chức năng tối thượng của hiến pháp, trên cơ sở những chuẩn mực quy tắc xử sự trong hiến pháp, tuyên phán một văn bản luật vi phạm hiến pháp phải đình chỉ, hay sửa đổi hiến pháp sai không có hiệu lực. Quyền lập hiến thuộc về nhân dân. Vì vậy, bản hiến pháp đầu tiên hay thay hoàn toàn phải thông qua hội nghị đại biểu hay quốc hội lập hiến và cần được dân phúc quyết hoặc hình thức tương đương. Sửa điều luật cần được thông qua cơ quan lập hiến với đa số áp đảo.
Để dẫn chứng cho phân loại trên, có thể tham khảo các quốc gia điển hình: 1- Ở các quốc gia Hồi giáo như Afghanistan, Iran, Mauretanien, Sudan, Pakistan…, hiến pháp đều dựa trên nền tảng kinh Koran (loại hình thần quyền). Như “Hiến pháp Cộng hoà Hồi giáo Iran phấn đấu tạo dựng các định chế văn hoá, xã hội, chính trị và kinh tế Iran theo các nguyên tắc cơ bản và quy ước đạo Hồi“. Định chế đó thừa nhận vai trò lãnh đạo tinh thần của giáo chủ, nhà nước nhân danh Hồi giáo quyết định trực tiếp mọi hoạt động văn hoá xã hội chính trị kinh tế, và người dân có bổn phận chấp hành. 2- Hiến pháp Mỹ, loại hình dân chủ, chỉ thừa nhận 2 chủ thể, theo nguyên lý, người dân chứ không phải đảng phái hay tôn giáo hay vua chuá, là chủ nhân nhà nước, có toàn quyền định đoạt nhà nước, chứ không phải ngược lại. “Chính phủ lập ra được trao quyền lực chính đáng dựa trên ý chí nhân dân; bất cứ lúc nào nếu chính quyền phá vỡ những mục tiêu trên, nhân dân đều có quyền thay đổi hoặc loại bỏ chính quyền đó lập nên chính quyền mới“. 3- Thụy Điển là một Vương quốc, quân chủ lập hiến. Nhưng nguyên lý “tất cả quyền lực nhà nước đều từ nhân dân“ được hiến pháp họ quy phạm hoá chi tiết, hơn bất kỳ nhà nước dân chủ nào, đứng số 1 thế giới, “Quyền lực người dân Thụy Điển (chứ không phải nhân dân chung chung) được hình thành từ tập hợp các ý kiến biểu đạt tự do, quyền biểu quyết ngang nhau, nhà nước trung ương và cơ quan hành chính điạ phương phải biến thành hiện thực (chứ không phải chung chung dân chủ gián tiếp và trực tiếp)“. 4- Hiến pháp Liên Xô 1977 sửa lần cuối năm 1990 được xây dựng dựa trên nền tảng ý thức hệ: “Cách mạng tháng 10 đã tạo dựng được nền chuyên chính vô sản, lập ra nhà nước kiểu mới Xô Viết là công cụ chính bảo vệ thành quả cách mạng, xây dựng chủ nghĩa xã hội“, “đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đội tiên phong của nhân dân“. 5- Hiến pháp Trung Quốc năm 1982, sửa đổi ngày 14.3.2004, cũng dựa trên ý thức hệ như Liên Xô, bổ sung đặc thù Trung Quốc: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc, được dẫn dắt bởi chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, học thuyết Đặng Tiểu Bình, và thuyết Ba Đại diện...“. Mỗi loại nhà nước trên xây dựng trên tiền đề chính trị đặc trưng cho loại nhà nước đó, không thể lấy tiền đề loại nhà nước này để làm thước đo đánh giá nhà nước khác và theo đó hiến pháp họ, có đúng khoa học về chính trị nhà nước hay không.
IV - Tiền đề khoa học logic
Hiến pháp được thể hiện bằng văn bản, vì vậy phải bảo đảm khoa học logic hình thức. Logic học đòi hỏi các phạm trù khái niệm sử dụng phải mang tính phổ quát, nghĩa là nằm trong hệ thống khoa học thế giới, không thể thay đổi nội hàm và ngoại diên của nó, càng không thể mâu thuẫn với các khái niệm phổ quát hiện có, như Hà Tây gọi “tép là tôm“, hay Nghị Lộc Nghệ An phát âm thường mất dấu, gọi cà là “ca có cuống“ và cá là “ca có đuôi“. Đặc biệt không được phép vi phạm nguyên lý “bài trung“: chỉ hoặc đúng hoặc sai, không thể vừa đúng vừa sai, hay đánh tráo khái niệm, không thể lấy nội hàm dân chủ đưa vào khái niệm phi dân chủ và ngược lại chẳng hạn.
V - Tiền đề lợi ích
Khoa học hiến pháp đã chỉ ra có nhiều loại hiến pháp. Câu hỏi được đặt ra tại sao các quốc gia lại chọn loại hiến pháp này mà không chọn loại hiến pháp khác? Câu trả lời: do lợi ích quyết định. Chính vì thế, lời mở đầu Hiến pháp I Ran khẳng định: “nó phù hợp với tâm niệm cộng đồng Hồi giáo“. Hiến pháp Trung Quốc cũng vậy, “quần chúng nhân dân các dân tộc Trung Quốc tiếp tục giữ vững chuyên chính vô sản, biến Trung Quốc thành một nước xã hội chủ nghĩa. (Thực tế đúng thế không lại thuộc lĩnh vực điều tra xã hội học). Lợi ích (từng được Mác sử dụng làm tiền đề giải thích quy luật vận động của các hình thái kinh tế xã hội nhân loại đã qua, từ chiếm hữu nô lệ tới phong kiến, tư bản) không phải một khái niệm bất biến, mà luôn phát triển, từ chế độ nô lệ, phong kiến, lợi ích chỉ dành cho thiểu số (vua bảo thần tử thần bất tử bất trung) đến ngày nay cho tất cả (mọi công dân đều bình đẳng), từ khởi thủy chỉ mang nghĩa tồn tại (mọi người sinh ra đều có quyền sống) tới ngày nay bao gồm tổng hợp mọi lợi ích kinh tế, văn hoá, tinh thần, dân sự, chính trị... (có quyền lựa chọn chế độ chính trị, kinh tế, lập tham gia đảng phái..). Vì vậy khi dùng để đo lường hiến pháp, khái niệm lợi ích phải được hiểu theo kiến thức khoa học ngày nay, cho tất cả mọi người và trên mọi lĩnh vực.
*(Kỳ tiếp: Chế độ chính trị nhìn dưới góc độ khoa học và lợi ích)
N.S.P.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Admin gửi hôm Thứ Năm, 07/11/2013 
nguồn:https://danluan.org/tin-tuc/20131106/nguyen-sy-phuong-hien-phap-khoa-hoc-loi-ich-va-thuc-te
======================================================================
Hiến pháp, khoa học, lợi ích và thực tế



TS Nguyễn Sỹ Phương CHLB Đức
(Tiếp theo kỳ trước)
Phần II- Chế độ chính trị nhìn dưới góc độ khoa học và lợi ích
I) Nhìn dưới góc độ khoa học chính trị.
Với lời mở đầu và chương I Chế độ chính trị gồm 13 điều, Dự thảo Hiến pháp nước ta năm 1992 sửa đổi năm 2013 (HPSD 2013), tương tự Hiến pháp các nước khối XHCN, như Hiến pháp Liên Xô sửa năm 1990, Hiến pháp CHDC Đức sửa năm 1974, Hiến pháp Trung Quốc sửa năm 2004, Hiến pháp Triều Tiên sửa năm 1993, Hiến pháp Cu Ba sửa năm 2002..., đều dựa trên tiền đề Nhà nước XHCN (xem Phần I, mục II, điểm 1).
Theo khoa học chính trị và hiến pháp tổng kết, phần mở đầu hầu hết hiến pháp các quốc gia đều nhắm vào lý do nó ra đời và mục đích nhà nước, dưới dạng tuyên ngôn; rất ngắn như Hoa Kỳ chỉ khoảng 60 chữ, Pháp chừng 80 chữ. Ở các nước XHCN, để giải thích cho mục đích nhà nước XHCN ưu việt hơn thế giới còn lại, Hiến pháp Trung Quốc lên tới 1000 chữ, Hiến pháp Liên Xô trên 800 chữ, ngoại trừ hiến pháp Triều tiên mở đầu chỉ 11 chữ, ngắn nhất thế giới: “Nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên muôn năm!“, nằm ngay trên dòng tít nhằm khẳng định trực tiếp tiền đề hiến pháp họ: “Hiến pháp Xã hội Chủ nghĩa CHDCNN Triều Tiên“. Ở ta, HPSĐ 2013, mở đầu cũng dài tới 300 chữ, (khoảng 1/3 so với Liên Xô, Trung Quốc) nhưng phần mục đích nhà nước cũng chỉ chiếm đúng 13 chữ: “Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh“ vốn là mục đích trường cửu mặc định của bất kỳ quốc gia nào. Phần lý do ra đời với 25 chữ “Thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam...“, cũng chính là tiền đề của toàn bộ bản HPSĐ 2013. Vì vậy để đánh giá HPSĐ 2013 đúng hay sai theo phân loại của khoa học chính trị, thì phải lấy Cương lĩnh đó làm thước đo. Thước đo đó được ghi trong Cương lĩnh gồm những luận điểm đóng vai trò tiên đề sau:
- “Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ nghĩa xã hội“.
- “Chủ nghĩa tư bản... về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công“.
- “Theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội“.
- “Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử“.
- “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân“. - “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo“.
- “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện“.
- “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo“.
- “Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp“.
- “Tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương“.
- “ Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc... Lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động“.
- “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân... chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật“.
Đối chiếu với Cương lĩnh trên, cho thấy HPSĐ 2013, Chương I “Thể chế chính trị“ đã được trình bày dưới dạng cô đọng nhất hoặc trích đúng nguyên văn cương lĩnh, đảm bảo đúng tính khoa học đối với loại hình nhà nước Xã hội Chủ nghĩa đã được khoa học chính trị phân loại.
II) Nhìn dưới góc độ khoa học hiến pháp và logic.
Tuy nhiên việc trích nguyên văn, đúng với khoa học chính trị chưa hẳn đã đúng với khoa học hiến pháp. Bởi đã là văn bản luật thì hiến pháp phải đưa ra ra được những chuẩn mực, quy tắc xử sự, tức thước đo pháp lý, có khả năng định lượng, nếu không bản hiến pháp đó thiếu tính khoa học pháp lý. Trụ cột của chương này là 2 khái niệm: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa“ ở Điều I, và khái niệm “Đảng Cộng sản Việt Nam...“ ở Điều 4.
1- “Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa“ là một khái niệm phổ quát được xác định rõ nội hàm và ngoại diên trong chính trị kinh tế học, bắt buộc phải có ít nhất 5 dấu hiệu: Đảng cộng sản lãnh đạo; nhà nước quản lý; kinh tế kế hoạch hóa; phân phối theo lao động; tư tưởng Mác Lê Nin. Khái niệm “Nhà nước pháp quyền“ cũng phổ quát vậy. Nội hàm của nó không đơn thuần nằm ở từ “pháp quyền“ hiểu nghĩa bình dân “theo pháp luật“, mà là một thể chế, bắt buộc phải có dấu hiệu: Tam quyền phân lập. Cả 2 khái niệm trên đều có thể định lượng. Vậy sự kết hợp 2 khái niệm phổ quát này thành khái niệm “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa“ là phép cộng 2 khái niệm thể chế đó với nhau, hay thành 1 khái niệm mới ? Nếu là phép cộng thì nguyên lý tam quyền phân lập đặc trưng của nhà nước pháp quyền đã bị phủ định bởi đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, hiến định tại Điểm 3, Điều 4: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp“ và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nghĩa là không còn “phân lập“; rõ ràng vi phạm nguyên lý bài trung trong logic học, “hoặc đúng hoặc sai không thể vừa đúng vừa sai“. Còn nếu cho đó là một khái niệm mới thì hiện chưa phải là khái niệm phổ quát có nội hàm xác định, nên không thể định lượng, thiếu tính khoa học pháp lý vốn đòi hỏi bắt buộc của hiến pháp. Có thể so sánh với nền tảng Hiến pháp Đức: “Đức là một nhà nước liên bang dân chủ và xã hội“ (Điều 21). Cả 3 khái niệm trên đều được khoa học chính trị định lượng: “Liên bang“ gồm các tiểu bang hợp lại. “Dân chủ“ là một thể chế trong đó người dân có chức năng cùng quyết định nhà nước, với dấu hiệu: bầu cử tự do; đa nguyên; tam quyền phân lập; bảo đảm quyền cơ bản và quyền con người. “Xã hội“ là thể chế bảo đảm an sinh và bình đẳng về mặt xã hội cho người dân; không được phép để bất cứ ai phải chịu thiệt thòi bởi thể chế đó (chứ không phải như chế độ Hitler, dựa trên nền tảng học thuyết “Cuộc đấu tranh của tôi – Mein Kampf (trước tác của Hitler) “ tiêu diệt hết những người cộng sản, thiểu năng, đồng tính..., vì một dân tộc Đức thượng đẳng...). Chính do phép cộng 2 khái niệm dân chủ và xã hội trên, mà Tòa án Hiến pháp Đức đã lấy chuẩn mực đó làm căn cứ, bác bỏ Luật đã được Quốc hội thông qua cấp tiền trợ cấp cho người nước ngoài chờ xin tỵ nạn ở Đức thấp hơn tiêu chuẩn Hartz IV cấp cho người Đức thất nghiệp lâu năm ở mức đảm bảo đủ cho họ có cuộc sống bình thường từ ăn, mặc, ở, điện, nước, chữa bệnh, đi lại, học hành, hoạt động xã hội... Từ phân tích trên có thể tạm đề xuất: cần làm rõ nội hàm hoặc thay khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa“ bằng các khái niệm phổ quát khác để bảo đảm khoa học hiến pháp và logic học, nếu không khi áp dụng chắc chắn rủi ro, bị tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của cơ quan công quyền, vô hình dung đặt họ trên hiến pháp; cũng chính là ngọn nguồn mọi bất ổn, vấn nạn không thể giải quyết hiện nay: lỗi “cơ chế“ !
2- Điều 4 về Đảng Cộng sản. Ngay lời mở đầu đã đặt HPSĐ 2013 dựa trên tiền đề nhà nước xã hội chủ nghĩa, thì hiến định Điều 4 hay không về mặt khoa học chính trị không thay đổi bản chất vấn đề, ngoại trừ loại bỏ tiền đề đó. Các bản hiến pháp trước kia không hề hiến định Điều 4, vẫn không hề hấn gì đối với vai trò lãnh đạo của Đảng trong mô hình nhà nước xã hội chủ nghĩa vốn mặc định vai trò của Đảng Cộng sản (xem Phần I, mục II, điểm 1). Tuy nhiên, một khi đã đưa vào hiến pháp thì nó phải bảo đảm tính khoa học pháp lý. Điểm 2 quy định “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình“. a- Khái niệm “gắn bó mật thiết“, “phục vụ“ mang tính chất tình cảm quan hệ xã hội (như yêu đương), không phải là một khái niệm pháp lý bởi không thể định lượng, càng không thể chế tài được “trái tim“, nên không phù hợp với khoa học pháp lý nếu đưa vào hiến pháp. Nó chỉ có giá trị trong nội bộ Đảng (được viết trong cương lĩnh) vốn được điều chỉnh bằng điều lệ chứ không phải pháp luật. (Không chỉ ở Điều 4, Điểm 2, tại Điều 8 điểm 2 còn trầm trọng hơn, khi dùng các trạng từ thuần túy định tính như vậy, không phải ngôn ngữ pháp lý như: “tôn trọng“, “tận tụy“, “chặt chẽ“, “lắng nghe“: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân“). b- Khái niệm “chịu trách nhiệm“ một khi đã đưa vào văn bản luật thì được mặc nhiên coi là “trách nhiệm pháp lý“ gắn liền với quyền và lợi ích pháp lý của họ; trách nhiệm đó chính là quyền kiện và bị kiện, đóng vai trò nguyên đơn và bị đơn. Như doanh nghiệp gây thiệt hại lợi ích người khác, giám đốc chính là người đại diện pháp lý bị họ kiện; ngược lại doanh nghiệp bị người khác gây thiệt hại, giám đốc có quyền kiện họ. Cơ quan công quyền cũng vậy, duy nhất chỉ người đứng đầu cơ quan đó mới có quyền kiện và bị kiện, được gọi là trách nhiệm pháp lý của người đứng đầu. Chính vì trách nhiệm đó mà Chủ tịch thành phố Leipzig, Đức, năm ngoái bị Viện Kiểm sát ra quyết định điều tra do Sở thanh thiếu niên tắc trách trong khi giúp đỡ một người mẹ nghiện ngập đơn thân nuôi con; người mẹ chích quá liều chết, đứa bé bị bỏ đói khát chết theo, mãi tới 7 ngày sau Sở thanh thiếu niên mới phát hiện được.
Thực tế ở ta chưa có một tổ chức Đảng nào bị kiện hay kiện ai cả, nghĩa là họ không có trách nhiệm pháp lý. Ở các nước đa đảng cũng vậy, không phải đảng mà chỉ nhà nước mới phải “chịu trách nhiệm“ pháp lý trước nhân dân; bởi cũng như mọi hội đoàn, đảng chỉ tập hợp những người tự nguyện, không có và không vì quyền lợi cá nhân mình, không được giao quyền lực, nên không phải chịu trách nhiệm pháp lý với quyền lực không có đó, mà chỉ chịu trách nhiệm chính trị trước nhân dân. Như bầu cử Quốc hội Đức vừa qua, Đảng FDP của Chủ tịch Đảng gốc Việt Rösler đã mất tín nhiệm trước nhân dân nên lãnh chịu trách nhiệm chính trị: bị thất cử, mất cả quyền tham chính lẫn chấp chính trước đó. Rösler buộc phải từ chức ngay do trách nhiệm chính trị, không hề bị ra tòa dù đảng ông tham gia cầm quyền kém cỏi mất tín nhiệm. Còn nếu đảng đó được tín nhiệm tham chính hay chấp chính, thì cá nhân nhận chức vụ nào phải đủ năng lực hành vi để tự chịu trách nhiệm đối với chức vụ đó, do luật pháp điều chỉnh, không liên quan gì tới đảng họ về mặt pháp lý; bởi đảng ở họ không phải người giám hộ hay cấp trên của nhà nước. Câu nói trước phiên họp Quốc hội toàn thể của cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, “đừng lôi đảng vào“, thu hút công luận quan tâm lúc đó, chính xuất phát từ nguyên lý trên.
Ở ta cũng như các nước xã hội chủ nghĩa, hoàn toàn khác, Đảng Cộng sản được tổ chức theo hệ thống ngang dọc của bộ máy công quyền và có ở mọi doanh nghiệp, tổ chức nhà nước. Mọi quyết định nhà nước ở đó đều thông qua cấp ủy, hoặc theo nghị quyết đảng bộ, như trường hợp Vinashin phá sản là một điển hình (xem nghị quyết đại hội đảng bộ Vinashin). Nếu không buộc đảng ở đó phải chịu trách nhiệm pháp lý thì như cựu Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An đã cảnh báo, vô hình trung biến lãnh đạo đảng thành “ông vua tập thể“ có quyền quyết định mà không chịu trách nhiệm pháp lý với quyết định đó, tức đứng trên pháp luật. Còn nếu buộc Đảng chịu trách nhiệm pháp lý thì mặc nhiên coi Đảng là một cơ quan quyền lực như một nhà nước đứng trên nhà nước, mâu thuẫn với hiến pháp. Cũng không thể buộc đảng chịu trách nhiệm chính trị bị bất tín nhiệm như Đảng FDP ở Đức, bởi đã được hiến định. Đó chính là nan đề khoa học trong cả 2 trường hợp hiến định hoặc không hiến định trách nhiệm của đảng, nếu không cải cách tiền đề hiến pháp.
III) Nhìn dưới góc độ lợi ích.
Cải cách tiền đề hiến pháp hay không, và như thế nào, không chỉ do tính khoa học đòi hỏi, mà trên hết do lợi ích quyết định. Mục đích trường cửu của mọi hiến pháp ngày nay đều “vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh“ tức lợi ích người dân. Đảng, nhà nước, hiến pháp hay bất luận chủ nghĩa nào cũng chỉ là PHƯƠNG TIỆN không nhằm ngoài mục đích đó, nên nhân loại đã phải luôn thay đổi mọi phương tiện, thông qua cải cách liên tục hoặc bằng cách mạng xã hội thay đổi thể chế. Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu đúng lúc đã đạt đến ngưỡng trình độ “xây dựng thành công CNXH“ và đang tiếp tục “xây dựng CNXH phát triển“ (còn ở ta hiện tại, “đến hết thế kỷ này không biết đã có CNXH hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa – phát biểu của TBT Nguyễn Phú Trọng“) vẫn phải cải cách “đổi mới“, bởi mục đích không phải CNXH, mà lợi ích người dân nước họ. Như CHDC Đức rốt cuộc không thể để mức sống dân mình tụt tới trên 30 năm so với CHLB Đức tại thời điểm tái thống nhất, khi cả 2 cùng điểm xuất phát. Thế giới ngày nay hầu như nước nào cũng có Đảng Cộng sản; tham chính hoặc chấp chính tại nhiều nước đa đảng, như Ấn Độ ở tiểu bang Westbengalen; ở Đức Đảng Cộng sản có chân trong Quốc hội Liên bang, liên minh cầm quyền ở 2 tiểu bang; về mặt con người cũng vậy, Tổng thống Putin là một cán bộ Đảng Cộng sản Liên Xô kỳ cựu, và đông đảo cán bộ cao cấp trong bộ máy lãnh đạo các đảng và nhà nước Đông Âu hiện nay đều là đảng viên Đảng Cộng sản trước kia; nhưng tiền đề hiến pháp nước họ không hề thay đổi, dù thay đổi đảng hay nhân sự cầm quyền.
Đổi mới ở ta khởi đầu không phải nhằm hoàn thiện mô hình Xã hội Chủ nghĩa kinh điển như Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu, mà bổ sung nền tảng kinh tế thị trường sau khi đã xoá bỏ nó, chính xuất pháp từ nguyên lý vì lợi ích nhân dân. Cương lĩnh Đảng làm tiền đề cho HPSĐ 2013 đặt vấn đề đổi mới kinh tế cùng chính trị cũng nhằm mục đích đó. Vậy những tiền đề hiến định trong chương I Chế độ chính trị không có gì là nhạy cảm cả để không đặt vấn đề cải cách nó, khi mà bao vấn nạn, bất ổn, “bầy sâu“, “một bộ phận không nhỏ“ đang “đe dọa“ tiền đồ dân tộc, vận mệnh đất nước, gây bức xúc, bất bình dân chúng hiện nay, nhất là trong bối cảnh thế giới hội nhập phát triển như vũ bão đang thay đổi từng ngày từng giờ, không chờ đợi bất cứ quốc gia nào !
(Kỳ sau: Phần III- Mô hình kinh tế hiến định nhìn dưới góc độ khoa học và lợi ích)
N.S.P.
Tác giả trực tiếp gửi cho BVN
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 02:31
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/hien-phap-khoa-hoc-loi-ich-va-thuc-te_14.html
=======================================================================

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001