Thụy Khuê - Không gian sông nước trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
at 11/24/2013 02:33:00 PM
Thụy Khuê
Nguyễn Ngọc Tư nổi tiếng về những truyện
ngắn khá hay viết theo lối truyền thống. Chị thường kể lại những nỗi u hoài
trầm lặng, sự nhẫn nại chịu đựng cam phận trong tâm hồn người dân quê miền Nam,
mà đời sống gắn bó với con kinh, con rạch. Giọng văn và tinh thần sông nước của
chị như một truyền thống nối dài từ Bình Nguyên Lộc, người đã gắn liền hai yếu
tố đất và nước, thành ý nghiã thiêng liêng của hai chữ đất nước. Tư tưởng này,
truyền qua Sơn Nam, đến Nguyễn Ngọc Tư, là thế hệ thứ ba, tuy đã bớt đậm đặc đi,
nhưng vẫn đem lại cho người đọc, nhất là người đọc khác miền, những cảm xúc
mới. Lối viết hiện thực thô lậu của Bình Nguyên Lộc đã ảnh hưởng sâu sắc
đến những cây bút cùng thời với ông như Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Nhật Tiến,
Sơn Nam...
Nghệ thuật thô lậu là gì? Là ghi lại đời
sống bằng giọng thô lậu, bằng ý nghĩ thô lậu của nhân vật, của động vật, đồ vật
và quang cảnh xung quanh, chứ không bằng văn chương và ý nghĩ chủ quan của tác
giả. Trong cách viết hiện thực thông thường, nhà văn đứng ngoài, dùng một giọng
neutre, giọng vô thanh, vô hình, vô ngã để thuật truyện; chỉ khi chuyển
sang đối thoại, người viết mới tìm cách làm lộ địa vị xã hội, gốc gác, bản
tính, cách suy nghĩ của các nhân vật qua lời ăn tiếng nói của họ. Trong hiện
thực thô lậu, tất cả những yếu tố kể trên, không cần đợi tới đối thoại mới bật
ra mà chúng nằm ngay trong giọng kể, tàng trữ trong giọng kể. Giọng kể ở
đây không vô thanh, vô hình, vô ngã, mà có âm, có hình, đa ngã. Thí dụ Bình
Nguyên Lộc viết:
- "Gió bấc lướt trên ngọn cây, té
vào giếng ấy như nước chảy vào chỗ trũng, và vì không có lối ra gió quay cuồng,
càng vặn thêm lòng người vốn đã lạnh"
- "Ba cái thây sống nầy lại
càng giống nhau ở chỗ nó cụt ngủn và xẵng như dùi dục chấm mắm
nêm, hay là không nói gì hết, tối ngày.
- "Thằng nhỏ trên chõng chậm chạp
tuột xuống, rê cái bụng binh rỉnh chằng chịt những gân xanh lại
gần chị Chín". (trích truyện Thèm người của Bình
Nguyên Lộc trong tập Nhốt gió).
Hai chữ: té, vặn, trong trích đoạn
đầu, làm cho giọng kể mặn mòi hơn, có âm lên, có chuyển động lên, và xác định
không gian miền Nam, cá tính miền Nam. Một nhà văn Bắc sẽ viết: "Gió bấc
lướt trên ngọn cây, xoáy vào giếng ấy...", và ta thấy ngay tác dụng
khác nhau giữa chữ té và chữ xoáy: xoáy văn chương hơn, té
bình dân hơn; xoáy vô thanh, vô ngã, trong khi té có âm thanh,
hình ảnh và chủ thể.
Trích đoạn thứ nhì lộ thêm một khiá cạnh
khác trong nghệ thuật thô lậu: Tả vợ, chồng, con, nhà người ta mà Bình Nguyên
Lộc bảo là ba cái thây sống, cụt ngủn, xẵng như dùi đục chấm mắm nêm,
thêm hai chữ tối ngày đi đoạn hậu như cái nhẩy cẫng: tối ngày
khác hẵn suốt ngày mà những người viết văn hay dùng. Bình Nguyện Lộc
chuyên xử dụng hình ảnh và âm thanh, mà âm thanh của ông là thứ âm gồ, thanh
lạ, ảnh của ông là những ảnh sốc: thây sống, rê cái bụng binh rỉnh...
Những nhà văn Bắc như Thanh Tâm Tuyền, Nhật Tiến, Viên Linh... sống trong Nam,
cũng bắt chước Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc viết tiếng Nam, nhưng họ chỉ viết
được đối thoại, còn về giọng kể, vẫn không thể kể hay như Bình
Nguyên Lộc.
Sự khác biệt sâu xa giữa văn lối Bắc và
văn lối Nam là người Bắc viết văn, còn người Nam kể truyện. Nhưng phải kể một
cách nào đó mới thành tác phẩm.
Hiện thực thô lậu dựa trên sườn chính là giọng
kể, kể phải làm sao cho bắt giọng, nghiã là phải có cái giọng tự nhiên
thành thật, ăn khớp với tâm tình và bối cảnh mình kể; nếu thành công, sẽ tạo ra
một bối cảnh sâu sắc hơn lối viết hiện thực thông thường. Bình Nguyên Lộc có
thể hoà đồng giọng đất, giọng nước, giọng cái xa quay, giọng ma, với giọng
người.
Văn Nguyễn Ngọc Tư, có nhiều chỗ cũng tạo
được cái mạch xuyên suốt, nghiã là giọng người kể, tâm lý nhân vật và đối thoại
chập lại thành một: "Con Thủy nói nó không lấy chồng, nó ở vậy đi bán
với ba, nó nói mà giọng hơi buồn. Ông Chín nghe rồi như gió ùa về, lòng tự dưng
nghe đau xót. Rồi khi hai đứa con gái ông sinh ra những đứa con, chúng lại phải
sống cuộc đời lênh đênh như má chúng, ông nghĩ, vậy đâu có được".
(Trích Nhớ sông, trong tập Giao thừa).
Trong trích đoạn trên đây, có vẻ như chỉ
có một giọng kể, nhưng thực ra là nhiều giọng chập lại: khi giọng chị, khi
giọng người kể, khi giọng cô em, khi giọng ông bố. Lối kể như vậy, tự nó đã tạo
mối liên hệ nội tại giữa người kể và các nhân vật, giữa các nhân vật với nhau,
khiến cho câu chuyện (mới chỉ qua giọng kể không thôi) đã trở thành một luồng
giao tiếp nối nội tại giữa không gian và thời gian, giữa nhân vật và bối cảnh
bên ngoài.
Là hậu duệ của một truyền thống văn nói
xướng lên từ miệt sông nước, Nguyễn Ngọc Tư đã kể và kể rất hay về những mẩu
đời của người dân miệt vườn, về cuộc sống bám với chiếc ghe, con nước của những
con người hiền lành cam phận, những tình cảm chân thật, nối liền đất nước với
con người.
Nhớ sông có giọng kể giao hoà
tâm lý nhân vật với bối cảnh xung quanh:
"Mỗi lần qua sông Cái Lớn, Giang lại
nghĩ, chắc tời già, tới chết, mình sẽ chẳng bao giờ rời chiếc ghe nhỏ này đâu.
Cũng khúc sông nầy, năm Giang mười tuổi, má Giang chết. Hôm đó trời mưa nhỏ
nhưng gió nhiều, gió tạt tay chèo liêu xiêu, nước từ vàm sông cuồn cuộn đổ ra.
Chiếc ghe bạt nước tấp vô xà lan chở cát. Ông Chín, ba Giang chống đằng mũi, má
Giang chống đằng lái. Giang ngồi trong mui ghe, ôm con Thủy vào lòng. Giang
thấy rõ ràng, lúc cây sào trong tay má đang chỏi vào thành xà lan trượt hướt
lên, má ngã xuống, đầu má đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi má
cong lại như chiếc võng, hụp vào sông. Giang khóc điếng, bồng con Thủy lồm cồm
bò về đằng sau lái, Giang còn kịp nhìn thấy mái tóc má trôi xùm xoà phiêu phiêu
trong làn nước, rồi mất hút". (Nhớ sông)
Cả một dĩ vãng đau thương gợi lại trong
giọng kể quê mùa chất phác như tiếng than ơ hờ chẳng ra than, kể mà như khóc
không thành tiếng. Sau khi ngưòi mẹ chết đuối, một thứ hạnh phúc bất diệt gắn
bó ba cha con, vợ với chồng, người với đất, người với nước, người sống với
người chết: "Sau nầy, khi vợ chết, không hoàn toàn vì miếng ăn mà cả
nhà ông Chín trôi dạt hết dòng sông này đến con kinh kia. Ở đáy con sông nào
đó, còn là nơi gởi gắm xương thịt của người đàn bà xấu số - má Giang"
Ông Chín ở vậy nuôi con. Đơn thương loay hoay một mình, khi có "vấn
đề", ông vẫn tiếp tục "vấn kế" vợ, hỏi vợ, bàn với vợ, tâm sự
với vợ, xin lỗi vợ: "Tui biết tính sao bây giờ, bà ơi. Tui tính lầm một
lần này rồi". "Bà đã thành nước, thành đất, thành cỏ thành cây, cha
con tui ở đâu, xin bà theo đó."
Đời trong Nhớ sông là đời
"thuở trước", con người còn nhân nghiã. Một giọng thủy chung. Người
cha chung thủy với vợ, người con gái cả chung thủy với sông, nước; người con
gái út chung thủy với đất, bờ. Nhớ sông toát ra một bầu không khí thủy
chung như nhất trong tình đất tình người.
Thủy chung lại xuất hiện trong truyện "Cái
nhìn khắc khoải", chung thủy trong tình bạn tri kỷ giữa con vịt Xiêm,
tên Cộc, với ông lão chăn vịt:
" ... ông nói như chỉ nói với mình:
- Mai mốt mình đi nữa hen Cộc?
Con vịt cạp mắt cá chân ông, đi thì đi chớ
gì.
- Mày đi hoài, mầy mệt không?
Nó há mỏm đốm đen cạp ngón cái chân ông,
thì mệt chớ.
Tao đốn tràm, làm nhà lại, ở luôn
nghen". (trích Cái nhìn khắc khoải trong tập Giao
thừa).
Hai cô đơn đúc thành một khối: đối thoại
câm giữa ông già và con Vịt Xịt Xiêm.
Ông già rước người phụ nữ bị phụ bạc ngồi
khóc bên sông cho nàng quá giang, ông "thương" người đàn bà lỡ vận.
Người miền Nam không dùng chữ Yêu mà dùng chữ Thương. Thương rộng hơn và
sang hơn yêu: Thương gói ghém cả yêu lẫn thương. Yêu tỏ được nói được,
diễn tả được. Thương không nói được, nhưng cảm được. Nếu nói ra, thương sẽ biến
đi. Thương con, thương chồng, không nói. Nói ra là vô nghĩa. Ngọc Tư đã diễn tả
được những âm thầm, nín lặng ấy, bằng cử chỉ, bằng hơi thở, bằng ánh mắt, bằng
những điều không nói trong những truyện ngắn hay của chị. Ngọc Tư đã viết về
những mảnh đời lam lũ chân thật với giọng đặc biệt miệt vườn của mình, đã đưa
ra được những sâu lắng, những chân thật, những chung thủy, đơn chiếc, trong
lòng người dân quê miền Nam, đôn hậu, và gắn bó với sông nước.
*
Trong Cánh đồng bất tận Nguyễn Ngọc
Tư đã tìm một lối viết khác, như để đoạn tuyệt với lối cũ:
Chủ đề đã chuyển từ chung thuỷ sang
ngoại tình, từ yêu thương sang tàn nhẫn, từ một xã hội nhân
bản sang một xã hội dã man, hung bạo. Sự thay đổi chủ đề
chứng tỏ Ngọc Tư can đảm, dám đi vào xã hội hiện tại, dám viết về bộ mặt tiêu
cực của nó, và đó là lý do chính khiến cho truyện của chị bị kiểm thảo, bị lên
án gắt gao, bởi Ngọc Tư là một ngòi bút Nam, gốc "ngụy".
Về mặt bút pháp, trong những trang đầu,
chị đã bỏ giọng kể đặc biệt theo lối Nam, đây cũng là một cố gắng khác của chị,
nhưng cố gắng này có đôi điều cần bàn lại, vì nó gây thương hại đến nghệ thuật
của tác phẩm.
Tuy giọng kể là giọng người chị, nhưng đã
chuyển sang một "ton neutre", vô sắc, vô cảm, không phải là giọng quê
mùa của người con gái thất học từ bé đến lớn sống trên sông nước nữa:
"Con kinh nhỏ nằm vắt qua một cánh
đồng rộng. Và khi chúng tôi quyết định dừng lại, mùa hạn hung hãn dường như
cũng gom hết nắng đổ xuống nơi này. Những cây lúa chết non trên đồng, thân đã
khô cong như tàn nhang chưa rụng, nắm vào bàn tay là nát vụn. Cha tôi tháo cái
khung tre chắn dưới sàn ghe, bầy vịt lúc nhúc chen ra, cuống quýt, nháo nhào
quẫy ngụp xuống mặt nước váng phèn. Một lớp phèn mới, vàng sẫm quánh lại trên
bộ lông của những con vịt đói, nhớp nháp bám lên vai Điền khi nó trầm mình bơi
đi cặm cọc, giăng lưới rào bầy vịt lại. Tôi bưng cái cà ràng lên bờ, nhóm
củi"
Một giọng "chuẩn", rất văn
chương, mà lại là giọng tả cảnh "lối Bắc" của một người khá sành sỏi,
có chất thành thị (nhiều chỗ dùng những từ thời thượng như trầm nghịch, ảo
giác, miên viễn, hoang dã...). Nếu không có hai chữ cà ràng, thì
không thể biết cảnh này ở đâu: giọng văn mới này đã xoá cái "không
khí" sông lạch, miệt vườn. Nhưng cái "không khí" đó chính là cái
mà Bakhtine gọi là Thời không gian (Chronotope) trong tiểu
thuyết. Thời không gian trong tiểu thuyết của Flaubert là tỉnh lỵ; thời
không gian trong tiểu thuyết Hồ Quý Ly của Nguyễn Xuân Khánh là Hà Nội, Yên Tử,
thời Trần mạt. Thời không gian trong Cánh đồng bất tận là vùng lục tỉnh
ngày nay. Khi Ngọc Tư biến giọng kể của một cô gái miệt vườn thành một giọng lơ
lớ thành thị, lơ lớ Bắc, thì chị đã làm nhạt không khí truyện, khiến người đọc
bị lạc. Một mất mát đáng tiếc, có thể tránh được.
Tại sao giọng kể của Ngọc Tư lại biến đổi?
Vì chị muốn "Bắc hoá" giọng văn của mình chăng? Vì chị muốn dùng chữ
cho "chuẩn" chăng? Nếu quả như vậy, thì sự "thống nhất ngôn ngữ"
đang đi trong chiều đáng ngại: nó đẩy nhà văn đến chỗ chối bỏ bản ngã của mình.
Trái ngược với thời điểm sau 1954, các nhà văn Bắc di cư vào Nam, ngoài giọng
văn Bắc, họ còn tập viết đối thoại tiếng Nam và họ đã làm giầu thêm ngôn ngữ
của họ: văn chương luôn luôn cộng vào, khi trừ là mất đi.
Nhưng oái oăm là với cái giọng mới này,
Ngọc Tư chinh phục được nhiều độc giả Bắc, phần đông thích đọc giọng chuẩn hơn
giọng miền, và đó là lý do khiến cho Cánh đồng bất tận trở thành tác
phẩm được đọc, được mến mộ nhất trong năm qua.
Ngoài sự đổi giọng đáng trách ở những
trang đầu, dần dần, Ngọc Tư tìm lại được không gian trăng nước cũ và Cánh
đồng bất tận trở nên lôi cuốn hơn, xứng đáng được yêu chuộng, bởi đây là
một tác phẩm hay. Trái ngưọc với Giao thừa, nhẹ nhàng viết về thời
trước, Cánh đồng bất tận phũ phàng đi vào thực tại xã hội hôm nay, trình
bày những nhân vật thui, chột, đui, mù cả thể xác lẫn tâm hồn, những con người
đã bị những bi kịch trong quá khứ làm cho tê liệt, không còn khả năng yêu
thương, xúc cảm.
Một người đàn bà làm điếm bị hành hung một
cách dã man. Người đàn bà vượt thoát, chạy xuống chiếc ghe của ba cha con sống
trên thuyền, làm nghề chăn vịt, đang đỗ trên bến. Sự tàn ác trong màn đầu thực
ra chỉ để mở màn cho những bi kịch khác, sâu hơn, tiềm ẩn trong gia đình ba cha
con: bi kịch của người đàn ông bị vợ phụ bạc, tìm cách trả thù tàn nhẫn trên
những người đàn bà khác.
Đi vào bối cảnh đời sống xã hội hiện tại,
Ngọc Tư dường như còn đang bỡ ngỡ: thảm kịch của người phụ nữ làm điếm bị
"làng" xử: đổ keo dán sắt vào cửa mình hơi gượng ép, tựa như một thảm
kịch thời phong kiến, khó tượng tượng ở thời nay (mặc dù có thể đã xẩy ra).
Chính cái vụng về của tác giả đã làm cho người ta có cớ trù ép tác phẩm; nhưng
một mặt nó lại gây háo hức trong lòng một quần chúng đọc đang cần một cái gì
mạnh mẽ, một tác phẩm kịch liệt lên án xã hội, bởi những tác phẩm như thế đang
quá hiếm trong văn học (được chính thức in ấn) ở Việt Nam.
Cái hay của tác phẩm chìm lắng và thâm
trầm hơn: Mầm chính của bi kịch là hận thù. Người cha trong truyện là một phóng
ảnh của hận thù mù quáng, hận thù khôn nguôi, hận thù tàn phá hạnh phúc và lẽ
sống của con người. Từ việc vợ bỏ nhà theo trai, ông xây dựng cuộc đời còn lại
trên sự trả thù: ông tàn phá tất cả những người đàn bà khác đến sau người vợ.
Đóng kín trong lãnh cảm, ông quay mặt với các con, không thèm biết tuổi thơ của
chúng, biến chúng thành những chồi măng thui chột, bệnh hoạn.
Hai chị em bị bỏ bê, như thuyền không lái,
rịt lấy nhau trong một thứ trực giác hoang dại: tự mày mò chống lại những yếu
kém tinh thần, tự dạy dỗ nhau, tự bảo vệ nhau, tự trấn những dồn nén, đòi hỏi
của cơ thể. Hai chị em như những đứa trẻ bị bỏ hoang trên bãi chiến trường
nguyên thủy, chúng chơi với những hố bom già, em hỏi chị: "người ta
thương mẹ ra làm sao?", chúng phải tưởng tượng ra tình yêu, chúng phải
sáng tác ra da thịt, chúng thiếp đi trong những cơn mộng mị "nằm co
quắp, hai tay kẹp giữa đùi".
Người đàn bà điếm, với sức sống mãnh liệt,
với tấm lòng trắc ẩn sâu xa, là nhân tố duy nhất có thể đem lại cân bình cho
cuộc sống ba cha con, nhưng chị đã thất bại: hận thù vẫn ngự trị trong trái tim
khô héo của người cha, không cách gì tẩy được.
Qua phông nền ấy, con đò Ngọc Tư xuôi vào
đời sống hiện tại mà những giá trị đạo đức đã bị đảo ngược, để khuấy lên bộ mặt
chìm của một xã hội mà hận thù, sau hơn ba mươi năm chiến tranh chấm dứt, vẫn
còn làm chủ; mà sự tàn nhẫn, không nhân nhượng trở thành nội dung cuộc sống
hàng ngày, mà môi trường sa ngã trong dịch cúm, dịch tham nhũng; với những tâm
hồn không thông cảm nhau, cha con đứt đoạn như những kẻ xa lạ, với những con
người bán trôn nuôi miệng bị xã hội hành hung, với những hạnh phúc chưa kịp nẩy
sinh đã bị tiêu diệt.
Thụy Khuê
Paris, tháng 11/2006
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/11/thuy-khue-khong-gian-song-nuoc-trong.html
=====================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001