Về mô hình đại học doanh nghiệp
Trần Văn Tùng
Trong
bối cảnh hiện nay của các nền kinh tế trên thế giới, có hai yếu tố
chính trị chi phối tới hoạt động giáo dục đào tạo bậc đại học. Thứ nhất,
nhà nước phúc lợi đang đứng trước nguy cơ khủng hoảng, nghĩa là các
khoản đầu tư công cho giáo dục, y tế giảm đi. Thứ hai, giáo dục đang
trong hoàn cảnh phải cạnh tranh gay gắt để cung cấp các sản phẩm dịch vụ
trước các yêu cầu luôn thay đổi của thị trường lao động. Cạnh tranh
trong giáo dục và khủng hoảng ngân sách nhà nước buộc các trường đại học
phải tự chủ tìm các nguồn vốn bên ngoài. Nói cụ thể là chuyển từ đại
học công sang đại học tư theo mô hình doanh nghiệp.
1. Trường đại học trong hoàn cảnh cạnh tranh như là doanh nghiệp.
Như vậy, một câu hỏi được đặt ra là kiến thức có phải là hàng hoá không?
Xét
từ mối quan hệ giữa các cơ quan cung cấp kiến thức với người sử dụng
kiến thức giống như người sản xuất ra các sản phẩm và người tiêu thụ các
sản phẩm đó. Hầu như ai cũng công nhận rằng kiến thức đã được trao đổi,
trở thành sức mạnh trong quá trình hoạt động sản xuất. Cạnh tranh kinh
tế thời đại ngày nay, đặt kiến thức vào vị trí hàng đầu. Các trường đại
học buộc phải ưu tiên phát triển những ngành khoa học công nghệ có tiềm
năng và lợi thế trong cạnh tranh. Từ quan niệm kiến thức được trao đổi
như món hàng, các trường đại học nhanh chóng nhập cuộc vào guồng máy tư
bản, trở thành đại học thị trường, phục vụ thị trường (từ các hoạt động
đào tạo đến nghiên cứu). Đại học đã được hiểu là cơ sở sản xuất trong
môi trường tự do cạnh tranh, sinh lợi, nói khác đi là đại học giống như
là một doanh nghiệp.
Đại học công vẫn tồn tại,
sống bằng tiền nhà nước và cung cấp các dịch vụ công. Tuy nhiên, các lợi
ích tư có được từ thị trường đã khiến cho các đại học công cũng bắt đầu
có thay đổi về cách thức tổ chức và hoạt động. Với quyền tự trị ngày
càng lớn, các đại học công và đại học tư đua nhau tìm các nguồn vốn từ
bên ngoài, săn các hợp đồng, liên kết với các doanh nghiệp, mở các chi
nhánh đào tạo, đổi mới chương trình, cải cách các hoạt động nghiên cứu,
quảng cáo tiếp thị, ứng xử như một doanh nghiệp.
Hình
thức mới nhất của các trường đại học Mỹ và Châu Âu là đại học doanh
nghiệp (entrepreneurial university), để thực hiện chức năng mới bên cạnh
hai chức năng đào tạo và nghiên cứu, là chức năng phát triển kinh tế xã
hội. Nhân danh chức năng thứ ba, các đại học này biến các trung tâm
nghiên cứu thành các xí nghiệp trong trường. Lý tưởng của các trung tâm
đó là tổ chức bằng được một dây chuyền từ khâu khảo sát, nghiên cứu, sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm cuối cùng. Các đại học công trước đây chú ý
nhiều tới công bằng xã hội, các đại học ngày nay chú ý tới hiệu quả hoạt
động, nâng cao tính nhân bản và cách thức tiếp thị khả năng. Xã hội tri
thức rất cần những đại học hiệu quả như thế để thắng lợi trong môi
trường cạnh tranh.
Quyền được học đại học đã
được công nhận như là một quyền cơ bản của con người. Thực tế cho thấy ở
hầu hết các nước trên thế giới đại học công và tư đều tồn tại, loại
hình nào thắng thế là dựa vào thái độ chính trị của từng nước. Tại châu
Âu, đại học công thắng thế, ngược lại ở Mỹ đại học tư lại chiếm tỷ lệ đa
số và đóng góp phần lớn cho quá trình phát triển. Một trường đại học
chủ yếu phục vụ công ích thì nguồn tài chính đầu tư chắc chắn không có
nhà nước nào đảm đang nổi. Ngược lại, nếu ngân sách nghiêng hẳn vào
nguồn tài chính tư, liệu đại học có còn hướng tới các mục tiêu chung
không? Nhiều quốc gia đang trong quá trình chuyển tiếp để vừa bảo vệ giá
trị của các trường đại học lại vừa nâng cao được hiệu quả kinh tế, xã
hội của các trường đại học. Hệ thống đại học sẽ biến đổi hoàn toàn hay
không để thành một thị trường giống như hệ thống khác trong nền kinh tế?
2. Các đặc điểm của mô hình đại học doanh nghiệp
Các
cuộc tranh luận về khái niệm đại học doanh nghiệp bắt đầu được tiến
hành vào năm 1993 tại hội thảo quốc tế của năm trường đại học ở châu Âu.
Các đặc điểm nổi bật mà các học giả trong cuộc hội thảo đó thống nhất
được chia ra ba nhóm gồm mục tiêu, chức năng nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức.
2. 1. Mục tiêu của trường đại học doanh nghiệp
-
Hoạt động giáo dục đào tạo và nghiên cứu không chỉ tạo thêm khả năng
cho sinh viên tìm việc làm trước yêu cầu khắt khe của thị trường lao
động mà còn là nguồn tạo thêm việc làm cho những người khác.
-
Quản trị của đại học phải giống như là quản trị một doanh nghiệp, luôn
gắn liền việc giải quyết các khó khăn trong quá trình phát triển để
hướng tới các hoạt động nghiên cứu và hợp tác liên ngành.
-
Nghiên cứu và các kết quả nghiên cứu không phải chỉ để xuất bản mà trở
thành nguồn lực đổi mới, đóng góp cho nền kinh tế, cho xã hội đồng thời
khơi nguồn cho các ý tưởng mới trong hoạt động nghiên cứu và kinh doanh.
Muốn đạt tới các mục tiêu trên, chức năng, nhiệm vụ mô hình tổ chức của
trường đại học cần phải thay đổi cho phù hợp theo các tiêu chí.
2. 2. Chức năng nhiệm vụ của trường đại học doanh nghiệp
Thứ
nhất, thúc đẩy các hoạt động quản lý của các tổ chức (trung tâm, cơ sở)
ở mức tự chủ, tập trung ở mức cao. Trình độ của hoạt động quản lý phụ
thuộc nhiều vào khả năng đáp ứng của các tổ chức giáo dục và năng lực
hành chính trong việc kết hợp các giá trị mới của khoa học quản lý hiện
đại với giá trị học thuật truyền thống. Do vậy, mỗi cơ sở trong trường
đại học phải nỗ lực cải thiện môi trường học thuật, cải tiến cơ chế quản
lý.
Thứ hai, tăng cường thiết lập các quan hệ
với các đối tác bên ngoài. Đây chính là đặc điểm nổi bật của các tổ chức
trong trường đại học hỗ trợ cho các hoạt động có chuyên môn cao của
trường đại học. Từ đó thiết lập các quan hệ hợp tác có lợi cho cả hai
bên. Kết quả là quan hệ hợp tác đã mở ra hàng loạt chức năng như chuyển
giao tri thức, hợp đồng với các ngành công nghiệp triển khai các hoạt
động sở hữu trí tuệ, tìm kiếm nguồn vốn và nâng cao chất lượng giáo dục
đào tạo, nghiên cứu tại trường đại học.
Thứ ba,
đa dạng hoá các nguồn vốn hỗ trợ. Các trường đại học có các cơ sở huy
động vốn từ các nguồn của chính phủ, ngành công nghiệp và khu vực tư
nhân. Nếu như một trong các nguồn vốn hỗ trợ này yếu đi, hậu quả kéo
theo sẽ làm cho các nguồn vốn khác cũng yếu. Năng lực triển khai (phát
triển) của các trường đại học là yếu tố quan trọng để thu hút các nguồn
tài trợ. Nguồn kinh phí do nhà nước cấp là không đủ, muốn tăng thêm vốn
chỉ có cách thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và chuyển giao tri thức
cho các ngành công nghiệp.
Thứ tư, môi trường
học thuật tự do và luôn được khích lệ. Đặc điểm này liên quan chặt chẽ
tới các hoạt động học thuật. Giá trị học thuật tại các khoa của trường
đại học luôn luôn được coi trọng. Khi chuyển hướng sang mô hình đại học
doanh nghiệp thì giá trị về học thuật và môi trường tự do học thuật cần
được khuyến khích mạnh mẽ hơn. Giá trị học thuật không phải chỉ được
hình thành ở một khoa nào đó mà cần phải lan toả sang các khoa khác và
tiến tới tham gia cạnh tranh trong một số thị trường nhất định.
Thứ
năm, môi trường văn hoá hội nhập của doanh nghiệp. Bốn yếu tố trên là
tiền đề tạo ra văn hoá để hỗ trợ cho việc chuyển đổi các giá trị truyền
thống của trường đại học, tiếp nhận giá trị văn hoá doanh nghiệp hội
nhập với bên ngoài. Bốn yếu tố trên cũng tạo điều kiện cho trường đại
học trở thành một tổ chức khác hẳn với sự tự chủ theo hệ thống luật pháp
của các trường công phải thực thi với cơ chế tài chính ràng buộc chủ
yếu từ nguồn cấp của chính phủ.
Các đặc điểm
nêu trên của trường đại học doanh nghiệp thực ra là nằm trong hai nhiệm
vụ chính. Một là, trường đại học doanh nghiệp phải đào tạo các sinh viên
thành doanh nhân, những người muốn triển khai các ý tưởng kinh doanh.
Hai là, tiến hành các hoạt động theo phương thức doanh nghiệp (tạo ra
các vườn ươm và khu công nghệ ).
2. 3. Cơ cấu tổ chức
-
Cơ quan quản lý quyền lực phải chọn được vị chủ tịch có năng lực lãnh
đạo, bộ máy tổ chức có tính tự chủ cao, có khả năng thực hiện các hoạt
động đổi mới, là cơ quan trung gian thiết lập các mối quan hệ đối ngoại,
đối nội với các cơ quan chính phủ, các ngành công nghiệp, tổ chức hợp
tác quốc tế…
- Các bộ phận hành chính quản lý
đối nội và đối ngoại trong trường đại học ngày càng phải tương đồng với
các bộ phận của một doanh nghiệp, cho dù trường đại học không hoàn toàn
giống như là một doanh nghiệp.
- Tinh giảm bộ
máy quản lý bằng cách chuyển các khoa, các phòng ban thành nhóm làm việc
bán thời gian, hệ thống điều hành chính thức, bán chính thức dựa trên
việc áp dụng các thành quả của công nghệ thông tin, liên lạc.
-
Tìm cách thay đổi những hoạt động truyền thống cứng nhắc của trường đại
học, thay vào đó là cơ chế hoạt động đa dạng, linh hoạt được áp dụng
trong hoạt động đào tạo và nghiên cứu. Một số quyết định trước đây có
thể do bộ phạn học thuật quyết định, sẽ chuyển sang cho các bộ phận
khác.
- Giảm nguồn vốn công trong hoạt động đào
tạo và nghiên cứu, cần có trung tâm phát triển các quan hệ cạnh tranh
giữa các bên bằng cách phối hợp các chính sách riêng biệt của từng bên
để đạt được lợi ích chung.
Thực tế cho thấy,
những trường danh tiếng thường có thứ bậc cạnh tranh cao, mặc dầu trường
đó không chuyển mạnh sang mô hình đại học doanh nghiệp, Cambridge là
một thí dụ điển hình. Trường này rất ít khi cải tiến bộ máy quản lý,
nhưng vẫn tồn tại và phát triển, bởi vì Cambridge luôn dẫn đầu trong
lĩnh vực học thuật so với các trường đại học ở Tây Âu. Nhưng ở những
trường đại học thứ bậc thấp hơn, ít danh tiếng hơn thì việc chuyển sang
mô hình đại học doanh nghiệp đang trở thành yếu tố sống còn hiện nay.
Các
chính sách hướng về doanh nghiệp của các tổ chức giáo dục bậc cao (các
trường đại học) dựa vào việc xây dựng các mối liên kết giữa các tổ chức
giáo dục bậc cao với các bên liên quan và các mục tiêu lâu dài hướng các
hoạt động giáo dục theo mô hình hoạt động của doanh nghiệp. Đối với các
phương thức liên kết, các nghiên cứu đã chứng minh rằng các chương
trình chuyển giao công nghệ của các trường đại học của Mỹ là rất hiệu
quả, tác động tích cực tới năng suất của các ngành công nghiệp. Sử dụng
công nghệ mới là một chính sách rất quan trọng của quốc gia. Điều này
thôi thúc sự phá bỏ hàng rào ngăn cách giữa khoa học ứng dụng và khoa
học cơ bản tìm kiếm các phát minh, sáng chế mới, đồng thời cũng khuyến
khích các hoạt động nghiên cứu liên ngành trong quá trình hình thành các
mối liên kết giữa trường đại học với doanh nghiệp. Do đó, có khá nhiều
bằng chứng ủng hộ quan điểm rằng những chính sách thúc đẩy liên kết đã
ảnh hưởng tích cực tới quá trình thương mại hoá các hoạt động nghiên cứu
tạo ra tri thức mới, công nghệ mới. Theo Hughes (2003) thì dường như
việc hình thành mạng lưới giữa một bên là giới học thuật, một bên là
doanh nhân chính thức hay không chính thức là yếu tố chủ chốt đẩy nhanh
quá trình thương mại hoá.
Trong hoạt động giáo
dục theo mô hình doanh nghiệp, đã xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu ở
cấp quốc tế tại Mỹ, châu Âu, chứng tỏ rằng các chương trình giáo dục
phù hợp đã phát huy tác dụng đối với tinh thần khởi nghiệp (tự thành lập
các doanh nghiệp). Không phải các sinh viên sau khi tốt nghiệp là có
thể thành lập được các doanh nghiệp, mà theo thống kê thì thời gian tối
ưu để thành lập doanh nghiệp ở độ tuổi từ 26 đến 34 tuổi. Điều đáng ngạc
nhiên là tại các trường chuyên về kinh doanh thì lại không phải là nơi
nuôi dưỡng và khởi nguồn các ý tưởng kinh doanh, áp dụng các ý tưởng đó
trong thực tế, chỉ khi nào lập được mối liên kết với các doanh nghiệp
thì hoạt động kinh doanh của các sinh viên sau khi ra trường mới có điều
kiện hoạt đông. Rào cản là ở chỗ thiếu các kinh nghiệm để triển khai
các ý tưởng kinh doanh. Hoạt động giáo dục hướng về doanh nghiệp phải
tạo ra được đội ngũ doanh nhân có khả năng đáp ứng những thay đổi liên
tục, có trình độ quản lý phi tập trung, hoạt động trong chuỗi giá trị
toàn cầu thì cơ cấu trường đại học, khung pháp lý và thể chế phải thay
đổi căn bản.
3. Các điều kiện hướng tới mô hình đại học doanh nghiệp
Một
câu hỏi được đặt ra, mô hình đại học doanh nghiệp có phải là tốt nhất
không? Từ kinh nghiệm hoạt động của các trường đại học của Mỹ và châu
Âu, có thể khẳng định rằng trường đại học doanh nghiệp tích cực tối đa
hoá lợi nhuận nhờ thương mại hoá các kết quả nghiên cứu của trường và
tạo ra các giá trị trong xã hội mà không làm ảnh hưởng tới giá trị
truyền thống của đại học là giáo dục, và hoạt động học thuật. Các trường
đại học của Mỹ huy động vốn từ bên ngoài chiếm tới 70 – 80% tổng nguồn
vốn. Các trường đại học chủ động tham gia với các đối tác cộng đồng dưới
nhiều hình thức như tư vấn, đào tạo, nghiên cứu và triển khai, chuyển
giao công nghệ, các vườn ươm công nghệ và tham gia các dự án. Điều đó
giải thích rằng các trường đại học có trách nhiệm hơn với cộng đồng, đặc
biệt các trường đại học của Mỹ đã giúp cho kinh tế của các bang phát
triển, do đó đã thu hút được nguồn tài chính từ các bang chứ không phải
là từ chính quyền liên bang. Khi đã nhận các khoản tài trợ, các trường
phải cam kết thực hiện các trách nhiệm với các nhà tài trợ, thị trường,
các bên liên quan của chính quyền bang. Nhiều nghiên cứu cho rằng, tổ
chức của các trường phải thay đổi, được điều hành theo hướng luôn thích
ứng với các yêu cầu thị trường, gắn kết với các cơ hội. Clark (2004) cho
rằng cần phải tăng cường khả năng tự chủ hoạt động tại các khoa. Theo
ông các khoa, phòng ban cần có những người lãnh đạo có đầu óc doanh
nghiệp. Việc gắn kết giữa đào tạo hướng nghiệp với thị trường phải được
phổ biến đến tận từng nhân viên trong khoa hoặc phòng ban. Các trung tâm
nghiên cứu, các hoạt động giáo dục cho sinh viên đại học, sau đai học
cần chú ý nhiều hơn tới các hoạt động nghiên cứu có tính liên ngành. Với
những cam kết nêu trên, mục tiêu hướng về doanh nghiệp sẽ trở thành
chiến lược cơ bản của trường đại học. Kết quả cuối cùng là tạo ra văn
hoá doanh nghiệp luôn đối mặt với thay đổi, hoạt động tìm kiếm, giành
giật các cơ hội để phát triển.
Theo nghiên cứu
của Clark (2004) và một số tác giả khác như Gibb (2005) để xây dựng
thành công mô hình đại học doanh nghiệp phải trải qua một quá trình. Sự
thay đổi dần dần này diễn ra ở các khoa, các phòng ban truyền thống.
Theo kinh nghiệm của các trường đại học Mỹ như Taxas, MIT, Illinois thì
quá trình thay đổi này phải được sự ủng hộ bởi các lãnh đạo các trường
đại học có xu hướng chuyển đổi mô hình đại học hoạt động theo kiểu doanh
nghiệp. Những tài năng lãnh đạo đó đã được nhấn mạnh trong rất nhiều
công trình nghiên cứu. Họ là những người có tầm nhìn xa, có khả năng vận
động và tuyên truyền quan điểm về vai trò của các trường đại học đối
với xã hội. Tại các trường đại học có nhiều người cùng có ý nguyện như
vậy thì quá trình chuyển đổi diễn ra thuận lợi. Kinh nghiệm của các
trường đại học Mỹ cho thấy việc tìm kiếm được những tác nhân và những
nhà lãnh đạo có tư chất như vậy sẽ tạo ra những trường đại học theo mô
hình doanh nghiệp có uy tín. Từ đó nhiều trường đại học đã nhận được các
khoản tài trợ từ các doanh nghiệp địa phương chứ không phải là từ các
tập đoàn lớn. Vai trò của lãnh đạo và các cộng sự tích cực vận động thúc
đẩy quá trình chuyển đổi mô hình đại học là điều kiện quan trọng đầu
tiên.
Điều kiện thứ hai là cải cách chương
trình đào tạo. Các trường đại học về kinh doanh thường rất chú trọng vào
các hoạt động quản lý, thực hiện các kế hoạch kinh doanh đã được hoạch
định sẵn. Như vậy hiệu quả của hoạt động giáo dục thấp, không thu được
các kiến thức về hoạt động thực tế của doanh nghiệp và không hiểu hết
các giá trị của kiến thức qua đào tạo. Ở Mỹ đã có sự thay đổi đáng kể
giữa hai chương trình đào tạo, một bên là chương trình của các trường
kinh doanh, một bên là chương trình của đại học doanh nghiệp. Chương
trình của đại học theo mô hình doanh nghiệp thường độc lập hơn, có sự
góp sức của Hội đồng tư vấn các nhà doanh nghiệp. Họ là những nhà khoa
học thuộc các lĩnh vực công nghệ, công nghiệp, các nhà kinh doanh (chủ
các doanh nghiệp) cùng hướng tới một mục tiêu xây dựng nên một chương
trình đào tạo thúc đẩy các hoạt động đổi mới, kết hợp được các nghiên
cứu liên ngành để giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội. Chương trình
của đại học doanh nghiệp, thí dụ Đại học Taxas có 16 môn học tín chỉ và
một số môn tự chọn bao gồm các vấn đề về tư vấn, kinh doanh, công nghệ
thông tin, phát triển cộng đồng, phát triển khả năng tư duy khoa học và
nhận biết xu hướng phát triển khoa học công nghệ tương lai. Ngoài ra các
kỹ năng viết trình bày các vấn đề cũng được chú ý đặc biệt. Chương
trình đào tạo phải đạt tới 4 giá trị cốt lõi, đó là (a) tầm nhìn và khả
năng phát hiện; (b) tư cách làm chủ và tinh thần trách nhiệm; (c) suy
nghĩ và hành động theo hướng hội nhập; và (d) hợp tác và làm việc theo
nhóm.
Mặc dầu có nhiều cách triển khai mô hình
đại học doanh nghiệp khác nhau ở Mỹ, châu Âu, điều kiện để thực hiện
được mô hình thành công vẫn là cần tạo ra các cơ hội và khai thác các cơ
hội, theo đuổi các hoạt động đổi mới. Nói khác đi là phải hình thành
các đối tác, đó là điều kiện thứ ba từ đó giải quyết các vấn đề trong
mối quan hệ tương tác giữa các hoạt động nghiên cứu liên ngành với các
hoạt động triển khai. Xã hội sẽ nhận thức được rằng, trí tuệ tổng hợp
của một trường đại học là tài sản quý giá nhất. Học thuật trong trường
đại học là tác nhân phá vỡ rào cản giữa nghiên cứu và triển khai, đóng
góp cho sự phát triển của cộng đồng. Khi mà uy tín của trường đại học
được nâng cao, thì trường có thể khai thác nguồn tài chính từ các quỹ
cho chương trình đổi mới, nghiên cứu, đào tạo trình độ bậc cao, nâng cấp
thiết bị…
Điều kiện thứ tư là phát triển đội
ngũ giảng viên để giảng dạy chương trình đại học doanh nghiệp. Quá trình
phát triển này cần phải được hỗ trợ từ các nguồn tài chính của trường
hoặc từ các đối tác, thông qua một số quỹ. Chương trình của các trường
đại học được xây dựng dựa vào kiến nghị của các khoa. Một số trường đại
học cũng có thể tham khảo chương trình đào tạo của các đại học danh
tiếng khác. Muốn có một chương trình đào tạo có chất lượng, nói chung
phải ưu tiên (ưu đãi) tài chính cho những người xây dựng chương trình và
các giảng viên có khả năng phát triển chương trình đó đạt được hiệu quả
cao, phải tạo điều kiện cho họ đi khảo sát thực tế.
Theo
quan điểm của nhà nghiên cứu về giáo dục Gibb (2006) thì những nỗ lực
của các trường đại học ở Mỹ đã được định hướng bởi các chương trình học
thuật, tại các trường đại học kinh doanh. Điều này dẫn tới việc hợp pháp
hoá hoạt động nghiên cứu và đào tạo theo hướng doanh nghiệp. Nghĩa là
các trường đại học đang tìm kiếm sự công nhận cho một ngành học mới phản
ánh qua mục tiêu nghề nghiệp trong điều kiện thị trường lao động luôn
thay đổi.
4. Chất lượng đào tạo được đánh giá qua tinh thần khởi nghiệp
Ngày
nay, các quốc gia phát triển đều nhận thấy tác động tích cực của giáo
dục tới tinh thần khởi nghiệp của sinh viên để nâng cao lợi thế cạnh
tranh của nền kinh tế. Trước đây, có những quan niệm cho rằng doanh nhân
được sinh ra do tài năng bẩm sinh, do truyền thống gia đình truyền lại
chứ không phải qua đào tạo. Quan điểm đó đã được duy trì trong một
khoảng thời gian khá dài, do đó ở Mỹ, Tây Âu chỉ đào tạo ra người làm
thuê, quản lý doanh nghiệp chứ không đào tạo họ trở thành chủ doanh
nghiệp.
Các trường đại học Mỹ đã đi tiên phong
loại bỏ sự thống trị quan điểm kinh doanh do thiên bẩm và xây dựng các
chươg trình đào tạo ra các chủ doanh nghiệp. Họ là những người lập ra
các doanh nghiệp, đưa ra các ý tưởng kinh doanh, dám chấp nhận rủ ro, có
khả năng nhận biết các cơ hội kinh doanh và tìm mọi cách khai thác các
cơ hội đó.
Khái niệm về khởi nghiệp trí tuệ
ngày càng lan rộng trong cách thức hoạt động của các tổ chức giáo dục
đại học, đặc biệt là chuẩn bị điều kiện cho các cá nhân bước vào một thế
giới với hoàn cảnh không chắc chắn, phức tạp nhưng lại có nhiều cơ hội
chờ đón. Trường đại học doanh nghiệp có các điều kiện như cơ hội tự chủ,
theo đuổi mục tiêu hội nhập, chia sẻ và học hỏi tri thức từ cộng đồng
rộng lớn. Quan hệ rộng rãi với cộng đồng đã giúp cho các trường đại học
tạo lập ra các công viên khoa học, vườn ươm công nghệ, chuyển giao công
nghệ từ đó chất lượng đào tạo được nâng cao ở cả hai mặt, trình độ học
thuật và tinh thần hội nhập, khởi nghiệp phục vụ cộng đồng.
Nhu
cầu của thị trường lao động luôn thay đổi, cơ hội có việc làm trong môi
trường nghề nghiệp thay đổi trở thành áp lực lớn đối với các sinh viên
qua đào tạo. Do đã được chuẩn bị về tinh thần khởi nghiệp ngay khi còn
học đại học nên các sinh viên chấp nhận học tập suốt đời hoặc lập nên
các doanh nghiệp vừa và nhỏ để kinh doanh. Mỹ là nước có chỉ số tham gia
kinh doanh đứng đầu thế giới. Chỉ số được tính từ tỉ lệ của chủ doanh
nghiệp so với tổng số dân, chỉ số đó của Mỹ là 10%. Yếu tố làm tăng thêm
chỉ số này là do Mỹ có hệ thống đào tạo doanh nghiệp tốt nhất thế giới
và trải rộng ở hầu hết các bang. Theo NOCE (2001), ở Mỹ có khoảng 30% số
trường đại học có khoa đào tạo về doanh nghiệp, kinh doanh. Nước Mỹ cho
rằng cung cấp kiến thức kinh doanh, tinh thần khởi nghiệp cho nhiều thế
hệ thì càng giúp cho kinh tế Mỹ phát triển. Do đó, chương trình đào tạo
về doanh nghiệp đã trở thành môn học bắt buộc ở các trường đại học và
lan rộng ra các trường phổ thông.
Tuy nhiên,
không ít người lại cho rằng nếu trường đại học hoạt động như doanh
nghiệp thì nó có yếu tố thương mại hóa và xa rời mục tiêu giáo dục. Hầu
hết các đại học lớn quan trọng nhất trên thế giới, dù là đại học công
như Cambridge hay là đại học tư như Princeton, hiện đều là các đại học phi lợi nhuận, còn các đại học vì lợi nhuận chỉ tạo thành một phần nhỏ của hệ thống đại học. Lý do là, các đại học là các tổ chức có ảnh hưởng dương
rất lớn đến xã hội (nói theo thuật ngữ kinh tế, là có “positive
externality”), làm lợi chung cho toàn xã hội. Chính vì toàn bộ xã hội
nhận được ảnh hưởng tích cực rất lớn từ hệ thống đại học, nên có thể coi
đại học là của cải chung của xã hội, và xã hội có trách nhiệm “nuôi”
nó. Các đại học tư phi lợi nhuận do các doanh nhân giàu có bỏ tiền tài
trợ, cũng là một hình thức đóng góp và gây ảnh hưởng đến xã hội của họ.
Các đại học vì lợi nhuận có vai trò nhất định trong xã hội, nhưng không
đem lại được nhiều lợi công cho xã hội như là đại học phi lợi nhuận, mà
mục đích chính của chúng là đem lại lợi tư cho chủ sở hữu. Các đại học
vì lợi nhuận sẽ chỉ chú trọng đầu tư vào những gì sinh lời tư nhanh
chóng, mà không đầu tư vào những hướng nghiên cứu hay đào tạo có ảnh
hưởng tốt lâu dài đến toàn xã hội. Bởi vậy, xã hội muốn được hưởng nhiều
thành quả từ hệ thống đại học, thì không thể dựa vào đại học vì lợi
nhuận, mà cần dựa vào đại học phi lợi nhuận.
Tại
Việt Nam đã có một số trường đại học có liên kết hợp tác với doanh
nghiệp trong nghiên cứu, triển khai, tuy nhiên quá ít sản phẩm được
thương mại hóa. Giá trị của hơn 400 trường đại học cao đẳng ở Việt Nam
rất thấp, hầu hết đào tạo các ngành kinh tế, kinh doanh cung cấp cho
sinh viên những kiến thức chung chung, không đáp ứng yêu cầu thị trường
lao động, phần đông thất nghiệp. Các trường đại học về công nghệ thiếu
vắng, ngoài Đại học Bách khoa Hà Nội, ít thấy các trường đại học khác có
các công trình quan trọng đóng góp cho xã hội. Để chuyển sang mô hình
đại học doanh nghiệp, theo tôi khối các trường đại học công nghệ cần
tiến hành chuyển đổi và nên học tập kinh nghiệm của MIT Hoa Kỳ, Đại học
Bách khoa Hà Nội.
T. V. T.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cao Huy Thuần (2008). “Trách nhiệm xã hội của đại học”. Thời đại mới, số 14, 7-2008.
2. Cherwitz, A. R. (2005). “Creating a Culture of Intellectual Entrepreneurship”. Academe 91, Vol 5/August
3. Cherwitz, A. R. (2005). “A new social compact demands real change – Connecting the Unversity to the Community”. Change, Nov/Dec.
4. Clark, B. R. (1998). Creating Entrepreneurial Universities: Organisational Pathways of Transformation. Oxford: Elsevier.
5. Clark, B. R (2004). Sustaining Change in Universities. Buckingham: Society for Research into Higher Education and Open University Press.
6. Etzkowitz, H. (2004). “The Evolution of the Entrepreneurial University”. International Journal of Technology and Globalization, no 01/2004.
7.
Gibb, A. A. (2002). “In Pursuit of a New ‘Enterprise’ and
‘Entrepreurship’ Paradigm for Learning: Creative Destruction, New
Values, New Ways of Doing Things and New Combinations of Knowledge”. International Journal of Management Reviews, Vol. 4, pp. 213-231, 2002
8.
Gibb, A. A. (2005). “Towards the Entrepreneurial University.
Entrepreneurship Education as a lever for change”. A Policy Paper for
the National Council for Graduate Entrepreneurship (NCGE) UK. http://www.ncee.org.uk/publication/towards_the_entrepreneurial_university.pdf
9.
Gibb, A. A. (2007). “Entrepreneurship: Unique Solutions for Unique
Environments. Is it possible to achieve this with the existing
paradigm?”. International Journal of Entrepreneurship Education, Vol. 5 Senate Hall.
10. Higher Education in Europe (2004). “Entrepreneurship in Europe”. Higher Education in Europe, vol 29, no 2. London: Carfax Publishing.
11.
Hughes, A. (2003). “Knowledge Transfer, Entrepreneurship and Economic
Growth: Some Reflections and Implications for Policy in the
Netherlands”. Centre for Business Research, University of Cambridge,
Working Paper no. 273.
12. Kuratko, D.F. (2003).
“Entrepreneurship Education: Emerging Trends and Challenges for the
21st Century”. Coleman Foundation White Papers series for U.S.
Association of Small Business & Entrepreneurship - USASBE.
13.
NCOE (2001). “Report on NCOE”. Kennedy School Conference on
Entrepreneurship and Public Policy: New Growth Strategies for the 21st
Century. NCOE Update, no 28, April.
14.
Rubery, J., Grimshaw, D., Ward Kevin, H Beynon. (2001). “Organisations
and the Transformation of the Internal Labour Market.” Work, Employment and Society 15 : 25-54.
15. Trần Anh Tài & Trần Văn Tùng (2009). Liên kết giữa đại học và doanh nghiệp trong hoạt động nghiên cứu và đào tạo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 02:17
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/ve-mo-hinh-ai-hoc-doanh-nghiep.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001