Thứ Hai, 27 tháng 8, 2012

Thời nay làm sếp là phải biết nói không thấy ngượng mồm? 

Một lần nghe sếp cũ dạy dỗ trong cuộc họp, ở nhà có cha có mẹ, đến cơ quan thì có thủ trưởng....Mặc dù sếp bỏ lửng câu nói, nhưng ai cũng hiểu ý sếp là khi đến cơ quan, thủ trưởng bảo thì phải nghe như kiểu quan phụ mẫu bảo ban con dân ấy. Có lần tôi bảo, thời nay làm sếp là phải biết nói không thấy ngượng mồm.
Tôi cứ nghĩ không biết sếp có đoán biết được phần nào, rằng trong đầu cái đám nhân viên ấy nó nghĩ gì khi sếp nói vậy? Mấy sếp trước khi bị bắt thì sếp nào chả quyền hành nhất cơ quan, nói gì mà đám nhân viên không phải cung cúc tuân thủ? Có sai lè lè ra đó cũng chẳng đứa nào to gan lớn mật dám cãi lại sếp, nhưng đằng sau chắc chắn bọn họ cũng chửi rủa khinh bỉ sếp ra trò, nhất là loại sếp mua bằng tiền. Một lần tôi hỏi một tay đệ tử của sếp khi hắn đã cầm chắc trong tay thủ tục thuyên chuyển cơ quan
- Tôi hỏi thật lòng, cậu thấy thế nào về “sếp”?
- Em công nhận là ông ấy có tài, nhưng không có đức.
- Không có đức thì đồng ý rồi, nhưng tài ở chỗ nào cậu nói tôi nghe, xem tôi có tâm phục khẩu phục không?


- Chuyên môn thì cũng thường thôi. Nhưng lạ là ông ấy cái gì cũng biết. Trong cơ quan này ai thân với ai, ai cãi nhau với ai về cái gì ông ấy cũng biết. Chẳng có gì qua mắt được ông ấy cả.
- Bố khỉ, cái đó gọi là là tài đấy à? Cái đó gọi là nỗi sợ của những kẻ bất tài, đi dò la xem có ai nói xấu gì mình không. Thêm nữa là bụng dạ hẹp hòi nhỏ nhen, mới để ý đến ba cái chuyện tẹp nhẹp chổi cùn rế rách ấy.
Tôi là đàn bà thật, nhưng chúa ghét cái việc thì thà thì thầm chuyện riêng tư của người này người khác. Thế nên chuyện của người cùng phòng tôi, người các phòng khác biết cả mà tôi thì cứ như trên cung trăng rơi xuống. Tôi mà là sếp, tôi chả mắng cho những đứa Nhicalai xun xoe về cái tội ton hót những chuyện làm rác tai tôi ấy chứ. Sếp là phải lo những việc nhớn nhá...
Nói thế lại nuối tiếc cái thời trước, đi đến đâu cũng hãnh diện khi khoe mình là quân sếp T sếp Đ. Nở mặt nở mày khi nghe ai đó nhắc đến tên sếp mình. Cho dù các sếp ấy cũng có chuyện ì xèo này nọ, nhưng nhân vô thập toàn mà lị, họ đâu phải là thánh.
Tôi viết cái đoạn này lên facebook. Trong số người vào nhận xét có một người nói thế này: “Bất kỳ việc gì chính quyền làm là có đám người bới móc, suy diễn rồi tổng sỉ. Việc tốt thì lờ tịt, việc dở thì thôi rồi... “
Tôi nghĩ mãi xem mình có bỏ sót việc tốt nào mà không ca ngợi không. Thật lòng mà nói là tôi không thể ca ngợi được. Thậm chí tôi thấy cả xã hội này như một cỗ xe bò leo lên dốc, mà người đang gò lưng đẩy nó là nhân dân. Chính quyền đứng ở trên nhìn xuống dốc, hô hào khuyến khích là xe bò đã leo lên khá cao, còn người dân ngẩng đầu lên thấy đỉnh dốc vẫn xa vời vợi.
Ừ, cái "xe bò" nó có lên thật, nhưng mà chậm quá thể. Một người khác lại còn so sánh bây giờ còn có thịt mà ăn, hơn chán ngày xưa. Ôi ngày xưa, ngày xưa....

Nói gì đến chuyện ngày xưa, cứ đọc mấy bài dưới đây thì rõ. Xin lỗi bà con vì hai bài dài quá, nhưng đọc để biết cái "xe bò" nó đi được đến đâu

Chờ ánh điện cho đến lúc… chết

Riêng xã Bảo Ái, có ít nhất 200 hộ dân, cả nghìn người, bao năm qua cứ đau đáu ước mơ sẽ có ngày thủy điện trả nợ mình, tri ân với xiết bao hy sinh của mình và cha anh mình bằng cách... cho sử dụng điện.
>> Tối đèn ở “trái tim thủy điện” Việt Nam

Mái nhà của người dân
Nậm Ngòi không có các thiết bị điện như những ngôi nhà khác.
Mái nhà của người dân Nậm Ngòi không có các thiết bị điện như những ngôi nhà khác.
Bà con buồn bã, tuyệt vọng, bất bình, kiến nghị khắp mọi “cửa” từ thôn bản đến trung ương.
1 xã “lòng hồ” có 4 thôn đèn dầu
Anh Nguyễn Trung Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã Bảo Ái, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - đi tìm mấy cái xe máy cho chúng tôi tự leo dốc cao, vượt đường bùn nhão để vào thăm các thôn bản hy sinh vì lòng hồ thủy điện 50 năm qua. Mất cả tiếng đồng hồ đánh vật với các cung đường rợn tóc gáy, chúng tôi nhìn thấy rất rất nhiều hòn đảo xanh soi gương xuống mặt nước hồ thủy điện Thác Bà.
Hồ Thác Bà có tới 1.300 hòn đảo kỳ ảo như thế. Xã Bảo Ái có hơn 9.000 dân, là xã đông dân thứ nhì của huyện Yên Bình, chỉ thua thị trấn huyện. Cùng với 3 thôn tận khổ khác, Ngòi Ngần 100% số diện tích, số dân chịu cảnh... chưa bao giờ có điện.
Xã, huyện, tỉnh, trung ương, hình như chưa tính đưa điện vào. Với người dân, đường xa khoảng 5-6km từ đường nhựa vượt núi vào thôn, họ lấy đâu ra tiền mà mua cột điện, kéo dây?
Ngành điện thì họ chỉ lo kinh doanh và lại “độc quyền”, nên việc đầu tư hệ thống dẫn điện vào góc rừng đó thì có mà... lỗ tan thây. Thế là họ cứ bỏ mặc bà con.

Đường vào xã Bảo Ái.
Đường vào xã Bảo Ái.
Chúng tôi liên lạc với ông Giang - Giám đốc Thủy điện Thác Bà - ông nói cứ tưởng 100% bà con di dân năm xưa đã có điện (!). Ông nói nhiệm vụ của đơn vị là sản xuất điện hòa vào lưới quốc gia, chứ không phải kéo dây điện hay trích quỹ phúc lợi ra lo cho những người hy sinh vì lòng hồ thủy điện đã mấy mươi năm mà chưa có điện kia.
“Cái này các anh phải về hỏi Sở Điện lực Yên Bái ấy” - ông Giang nói. Một lãnh đạo tỉnh Yên Bái thì khuyên nên gặp ông Thực - Phó Giám đốc Sở Công Thương Yên Bái - mà hỏi.
Ông Thực nói với tôi, đã và sẽ có dự án “thắp sáng” cho đồng bào đã hy sinh quá nhiều quyền lợi dâng hiến cho thủy điện Thác Bà năm xưa (!?).
Đói nghèo với tốc độ... truyền tải điện
Trong khi dự án cấp điện còn đang... hình thành và chuẩn bị thực thi với “tốc độ rùa bò”, thì đói nghèo và thất học cứ trùm lút nhiều vùng dân cư tội nghiệp kia với tốc độ... truyền tải điện! Với 110 hộ dân, với 565 khẩu, thôn Ngòi Ngần chiếm tới 90% dân số là người có nguồn gốc từ dưới đáy lòng hồ thủy điện Thác Bà “ngoi lên”. 90% số hộ “đạt chuẩn” đói nghèo. Bởi tại suốt mấy chục năm đằng đẵng “tăm tối”, nghèo đủ nhẽ, nên Ngòi Ngần tràn ngập bi kịch.
Trưởng thôn Lê Thế Vinh là người Tày, xốc vác lắm. Anh vốn là công an viên, ngay từ năm 1996, lúc mới “nhận chức”, thấy thanh niên rượu chè, đánh lộn quá mức, anh rà soát rồi vạm vỡ xông pha bắt, xử lý tất.
“Họ sợ tôi đến mức, có xô xát gì, chả ai dám báo với tôi nữa. Như thế lại không tốt cho công tác an ninh. Nhưng vì bắt nhiều người quá, tôi mới nhận ra hầu hết họ không biết chữ. Tôi bèn dạy họ cách vẽ tên mình to như quả trứng gà, gọi là ký biên bản. Có khi họ đánh vật khoảng 7 phút mới vẽ xong một cái chữ là tên của họ” - anh Vinh chua xót kể.
Hết ánh mặt trời là tăm tối bịt bùng, học trò chỉ còn biết đi ngủ từ lúc nhập nhoạng tối. Thế rồi dốt, chán, bỏ học sớm.
Lúc ban ngày thì nóng nực không tài nào làm được việc gì ngoài... phành phạch quạt nan. Đường sá gập ghềnh chín suối mười đèo mới ra đến ủy ban. Nhà mẫu giáo thôn thì hiện tại vẫn đang mượn tạm cái bếp bỏ hoang nhà ông Quang mà dạy và học. Cái vòng khó khăn, thiếu thốn, thất học, đói nghèo cứ luẩn quẩn chưa biết bao giờ mới thôi.
“Bà con thấy tôi làm công an viên quá nhiệt tình, họ bèn bầu luôn làm trưởng thôn” - anh Vinh kể tiếp, khi ngồi cạnh Phó Chủ tịch Nguyễn Trung Sơn tại nhà mình.

Đường vào xã Bảo Ái.
"Bao giờ thì Ngòi Ngần và nhiều vùng dân cư của Bảo Ái có điện? Không ai trả lời được. Chúng tôi cũng chỉ còn biết hứa với bà con là cố mà chờ đợi, hy vọng", anh Nguyễn Trung Sơn - Phó Chủ tịch UBND xã Bảo Ái, huyện Yên Bình, tỉnh Yên Bái - nói.
Càng gặp gỡ bà con, anh Vinh càng thấy đau cho thảm cảnh của những người hy sinh vì thủy điện. Lúc đầu là 5,3 vạn người ra đi, gần nửa thế kỷ qua, con cháu chắt của những người đó đã sinh ra, thậm chí đã chết đi khá nhiều thế hệ - xin nhấn mạnh: Tất cả số dân khổng lồ đó, đều chung số phận bị bỏ quên giữa rừng xanh núi đỏ!
Chồng của bà Lương Thị Đánh, trước khi chết, chỉ đau đáu ước ao, giá mà thôn Ngòi Ngần của mình có điện thì tôi chết cũng nhắm được mắt.
Bà Lương Thị Săm - chị gái bà Đánh - ngoài 70 tuổi, từ khi theo mẹ di dân từ chỗ nay là đáy hồ lên miền rừng nay gọi là bản Ngòi Ngần để vỡ một mảnh ruộng giữa rừng hoang vẫn liên tục cầu trời cho quê mình có điện.
“Tôi thấy cách đây 10 năm người ta đã vào khảo sát, nói là sang năm làm đường điện vào Ngòi Ngần, nhưng càng chờ thì càng... mất hút. Chúng tôi đã kiến nghị lên tất cả các cấp rồi, nhưng tuyệt nhiên chưa một ai trả lời chúng tôi là bao giờ thì quê tôi có điện. Suy nghĩ thấy nó “tiêu cực” trong lòng quá” - bà Đánh đanh thép nói.
Hạt thóc bị bỏ quên trong đáy hòm
Không có điện, bà con nghĩ ra đủ cách để chung sống với bóng tối và cái nóng nực kinh khủng của mùa hè. Mỗi người một cái quạt làm bằng lá cọ. Nhà nào khá giả thì mua máy nổ, dăm bảy nhà chung một cái, song cứ hai tiếng chạy máy thì mất vài ba trăm nghìn đồng, ai cũng phát hoảng “bỏ máy chạy lấy người”. Có người dùng ắcquy nạp điện.
Xã Bảo Ái có tới 4 thôn chưa có điện lưới. Bà con đang có xu hướng dùng máy thủy điện nhỏ thả dưới suối để sản xuất điện cho từng gia đình. Nhưng “sáng tạo” này còn gặp bi kịch hơn. Suối Ngòi Ngần bao năm ào ạt trong xanh, từ ngày ai đó nghĩ ra chuyện thủy điện nhỏ, thì nước suối cạn trơ đáy. Người ở đầu nguồn nước chặn suối lại, tích nước hòng phát điện cho nhà mình. Toàn bộ hạ lưu của suối cạn trơ, các thủy điện nhỏ khác biến thành cục sắt gỉ vô dụng.
Có khi, nhà bà Hoàng Thị Đánh, nhà anh Lê Thế Vinh, vì ở cuối nguồn nước, nên cứ chờ đến 21h, nước trên nguồn được “thả” về, mới có thể... le lói phát ra ánh sáng phục vụ việc ngủ.
Có đợt, suốt mấy tháng trời không một giọt mưa, thủy điện nhỏ không thể hoạt động. Vì không có điện, nên ở Ngòi Ngần gần sáu trăm nhân khẩu, quá nhiều người mù chữ và mới chỉ có 1 người tốt nghiệp cấp 3.
“Mù chữ đi vay vốn ngân hàng khổ lắm, phải điểm chỉ. Nhưng khổ hơn là hơn nửa thế kỷ hy sinh cho thủy điện, lên rừng rú khai hoang, dựng bản làng nhà cửa, đến giờ 100% đất ở của người dân vẫn chưa hề có sổ đỏ. Không có sổ thì ngoài Ngân hàng Chính sách xã hội, họ không được thế chấp vay tiền ở bất kỳ ngân hàng nào khác. Trong khi đó, Ngòi Ngần có đến 90% số hộ thuộc diện đói nghèo. Cái vòng luẩn quẩn đó, đêm nằm, trót là trưởng thôn rồi, tôi càng không tài nào ngủ được” - anh Vinh giãi bày.
Ngoài Ngòi Ngần, chuyện buồn cũng diễn ra tương tự ở các thôn Ngòi Nhầu, Ngòi Mấy, Ngòi Kè, Vĩnh An... của xã Bảo Ái. Đến nay chỉ một hai thôn, lác đác có vài hộ tự bỏ tiền, mắc dây, “xin ké” chút ánh sáng điện từ nơi xa về. Điện ấy - như đã nói - yếu đến mức sờ vào không thèm giật.
Đúng như lời ông Hoàng Văn Các khóc nói với người dân cách đây 2 năm trước khi chết: “Chúng ta là hạt thóc bị bỏ quên trong đáy hòm ở góc bếp”. Tất cả các đoàn cán bộ có thể gặp được, người Ngòi Ngần đều đã gặp và kiến nghị chấm dứt những cái vô lý mà mình đang phải gánh chịu.
Phó Chủ tịch Nguyễn Trung Sơn buồn rầu: “Họ cứ hỏi mãi, chúng tôi thương và chia sẻ với bà con lắm, nhưng không biết trả lời thế nào, vì mình ở cấp cơ sở. Chúng tôi cũng đi hỏi, lên tận tỉnh, tận các đoàn cao cấp, chỉ một đau đáu mà bà con gửi gắm: Bao giờ thì Ngòi Ngần và nhiều vùng dân cư của Bảo Ái có điện? Không ai trả lời được. Chúng tôi cũng chỉ còn biết hứa bà con là cố mà chờ đợi, hy vọng”.
Dứt câu chuyện về lời hứa mấy mươi năm còn bỏ ngỏ, bố đẻ trưởng thôn Vinh là cụ Lê Thế Hưng - ngoài 70 tuổi - mới cất lời. Sức cụ đã yếu lắm, cụ đi khỏi quê cũ, sống lang thang trên thuyền bè, rồi định cư vào Ngòi Ngần phá núi lập thôn bản từ mấy mươi năm trước. Giờ gần đất xa trời, điện chưa về đến quê mình, ông cứ ngồi phe phẩy quạt lá cọ, ngắm cái đèn dầu đỏ đòng đọc mà đay đi đay lại: “Các cán bộ họ đã quên mất nhóm dân hy sinh vì thủy điện này rồi ư?”.
(Còn tiếp)


Theo Đỗ Doãn Hoàng
Lao động
http://dantri.com.vn/c20/s20-630628/Cho-anh-dien-cho-den-luc-chet.htm


Thứ Tư, 15/08/2012 - 16:10

Thủy điện Thác Bà: 50 năm vẫn... lỗi hẹn

(Dân trí) - Hầu hết các bài phóng sự được viết theo kiểu “ngậm ngải tìm trầm” rất “độc” của Đỗ Doãn Hoàng đều khiến người đọc rưng rưng nước mắt, trái tim như bị vò xé, lương tâm bị dằn vặt, tâm can nhức nhối bởi những chuyện không thể tưởng được vẫn có thật trong đời.
>> Tối đèn ở “trái tim thủy điện” Việt Nam

Thủy điện Thác Bà: 50 năm vẫn còn... lỗi hẹn
Hàng ngày sống trên mặt hồ Thác Bà, người dân Ngòi Ngần chưa bao giờ được sử dụng điện lưới quốc gia (ảnh: Đỗ Doãn Hoàng)

Robinson trên hoang đảo thời nay

Phóng sự mới nhất có tựa đề “Tối đèn ở “trái tim thủy điện” Việt Nam" của nhà báo “phiêu bạt giang hồ” có mặt trên đường nhiều hơn ở nhà này, cũng không ngoài mạch luôn gây ấn tượng mạnh bởi những số phận bi thương, thậm chí đến mức khó tin giữa thế kỷ 21 hiện đại hôm nay.

Chỉ gián tiếp chứng kiến bi kịch qua bài viết thôi, nhưng nhiều người trong số bạn đọc chắc chắn cũng phần nào hiểu được cảm nhận đớn đau mà tác giả đã trải qua , để cùng chia sẻ nỗi lòng quặn thắt vì xót thương cho số phận của những con người tự ví mình như “hạt thóc rơi trong kẽ hòm cũ”:

Nếu tính mốc là năm 1962, từ đợt người dân bỏ nhà, bỏ cửa lên rừng hoang núi thẳm chặt cây san đất đá xây dựng quê hương mới ấy, thì đến năm 2012 này, đúng vừa tròn nửa thế kỷ. 50 năm rồi, bây giờ, chúng tôi lại vẫn run rẩy, chết lặng, rơi nước mắt nghe tâm sự của đồng bào ly hương “vì dòng điện ngày mai của Tổ quốc… Trong số khoảng 5,3 vạn người ra đi năm đó, giờ quá nhiều người đã chết. Nhiều cụ già tóc bạc da mồi ngồi khóc, rồi quay ra bất bình: “Chúng tôi bị bỏ quên trong xó rừng này. Chúng tôi như hạt thóc rơi trong kẽ cái hòm cũ”.

Mà những con người đó đâu phải ở quá xa xôi, cách biển cách cả vùng trời gì cho cam…Chỉ là “cách Hà Nội chừng 150km”, ở địa danh có 1 cái tên rất nổi tiếng: “Thủy điện Thác Bà được xem như thành tựu vĩ đại của chúng ta, nhất là khi mà nó được xây ngay trong thời kỳ bom Mỹ oanh tạc cực kỳ ác liệt. Nó là một trong ba cái hồ nhân tạo lớn nhất Việt Nam, với chiều dài mặt nước là 80km, chiều rộng khoảng 10-15km, tùy theo mùa”.

Bao nhiều phản hồi của bạn đọc là bấy nhiêu sự bày tỏ nỗi day dứt, nỗi bức xúc và thậm chí cả phẫn uất thay cho những phận đời gợi lên trong ta hình ảnh người mẹ trong thơ Tố Hữu: “… Như bà mẹ sớm chiều gánh nặng/ Nhẫn nại nuôi con suốt đời im lặng... Biết hy sinh nên chẳng nhiều lời”.
Đó là những con người hiện lên bằng xương bằng thịt, là những người lẽ ra phải được công nhận là “có công” với đất nước, với nhân dân. Nhưng trớ trêu thay đã sang thập kỷ thứ hai của thế kỷ 21 rồi mà họ vẫn phải sống trong cảnh Robinxon trên hoang đảo như cách ví von của Nguyễn Thanh Hương thanhhuongnguyen61@yahoo.com.vn:

“Tôi được biết có người dân ở đó đến tận bây giờ còn chưa biết gì đến các thông tin thời sự, họ sống như Robinson trên hoang đảo vậy. Tôi đã trực tiếp chứng kiến chuyện này”.

Cũng về vùng đất ấy với những con người "bị bỏ quên" ấy, trước hết hãy nghe trải lòng rất có tình, có lý của chính những người con nơi đây:

“Tôi không cầm được nước mắt khi đọc vì bài viết phản ánh hiện thực cuộc sống của người dân quê tôi - họ đã đợi chờ quá lâu trong mòn mỏi! Dẫu biết rằng tinh thần hi sinh phục vụ Tổ quốc trong thời điểm lịch sử trọng đại đồng thời cũng là trách nhiệm của công dân, nhưng 50 năm là con số đủ lâu để mọi đóng góp hi sinh được ghi nhận, trước khi bụi thời gian xóa nhòa các nhân chứng lịch sử.

Thủ đô ơi, không biết có ai tưởng tượng được đèn hoa rực rỡ của phố phường, những tiện nghi chạy điện một phần cũng là được sản sinh từ đóng góp của những con người dám hi sinh cả quê hương, mồ mả tổ tiên, tâm hồn, cơ nghiệp này không? Vậy mà những con người đó đến giờ vẫn hàng ngày phải đối mặt với bùn đất cùng nỗi ám ảnh, sự xót xa và những băn khoăn về sự tụt hậu về mọi mặt…

Bao giờ dân quê tôi có điện và các chính sách hỗ trợ góp phần bù đắp những thiệt thòi? Giá điện nào là phù hợp với họ? Một vùng Phủ Bình đất đai màu mỡ giàu có về sản vật, giàu có về mặt văn hóa, một vùng Chợ Ngọc mãi còn trong tâm tưởng người dân Yên Bái…. Cảm ơn bài viết!” - Bảo Tân: Baotan87@gmail.com

“Tôi cũng là người con của vùng hồ Thác Bà này, tổ tiên tôi bây giờ vẫn đang nằm dưới lòng hồ ấy. Nghe bà tôi kể lại cái ngày cụ tôi gánh bà và các con lên rừng khai hoang, nhường đất cho thủy điện mà tôi thấy thật bất công. Quê tôi giờ vẫn nghèo lắm...” - Hà Nguyễn: thuha_8yb@yahoo.com

“Gia đình tôi cũng là "nạn nhân" của nhà máy này. Đến nay chúng tôi đã có điện dùng nhưng phải tự mua dây kéo điện từ trung tâm xã về khu xóm rồi chia nhau, chiều tối phải thay bóng 110v mới đủ sáng, tiền điện thì không được thiếu một xu... Người dân thấp cổ bé họng phải chịu thôi!” - Vo Vi: binh1271@yahoo.com

“Gia đình tôi cũng có mộ cụ bà hiện đang nằm lại dưới lòng hồ tại Chợ Ngọc xưa. Ông cha chúng tôi cũng khăn gói ra đi mà chẳng được ai đoái hoài gì, nay gia đình chỉ có ước nguyện được đưa cụ lên. Nếu ai là dân Chợ Ngọc mà có thông tin gì có thể giúp được chúng tôi thì hồi âm cho tôi nhé! Tôi xin chân thành cảm ơn!” - Vũ Anh Tuấn: anhtuan2571@gmail.com

Và những lời “chứng thực” nhói lòng của những con người ít nhiều đã trực tiếp chứng kiến cảnh tái định cư cho thủy điện, mà cho tới tận hôm nay vẫn gây ra bao lời ca thán:

“Mình ở trên Lai Châu, đợt vừa rồi cũng tham gia di dân tái định cư cho thủy điện Sơn La. Cũng thấy bà con tái định cư khổ quá!” – Nguyen Dinh Tuyen: tuyen.kntu@gmail.com

“Tôi cũng làm thủy điện. Tôi đã được đi nhiều nơi. Thấy dân mình khổ quá. Các bác lên lòng hồ thủy điện Hòa Bình mà xem. Thấy mà rớt nước mắt” - Ngoc Nguyen: thgiang_pecc1@yahoo.com
Thủy điện Thác Bà: 50 năm vẫn còn... lỗi hẹn
Ông lão ngoài bảy mươi tuổi ở thôn Ngòi Ngần vẫn chưa một lần được sử dụng điện lưới, cho dù đã hiến nhà cửa cho thuỷ điện Thác Bà
Sự thật “trần trụi”

Đúng là xưa nay vẫn có chuyện nhiều sự việc được “tô hồng” lên để báo cáo thành tích. Tương tự như vậy có những sự việc bị ỉm sự thật đi hoặc đơn giản chỉ là do thấy quá khó khăn, rồi “để lâu…” và qua nhiều cấp chính quyền với bao lần thay đổi nhân sự… cũng có chung số phận như những hạt thóc rơi trong kẽ hòm cũ.
Bức xúc quá nên có thể phản hồi của một số người dân có phần cực đoan, nhưng không thể vì thế mà viện cớ này cớ khác để bỏ qua những sự thật dù có “trần trụi” đến đâu.

“Sự thật luôn mất lòng! Năm nào tôi cũng thấy báo cáo lên Quốc hội là công tác chăm lo cho đồng bào thiểu số thực hiện tốt. Vài trăm tỷ, vài nghìn tỷ đã rót về đâu mà ngân sách Quốc gia vẫn chi ra từ tiền thuế của nhân dân để lo cho cuộc sống đồng bào các dân tộc thiểu số anh em… Sự thật có đúng như vậy chăng? Năm 2008, tôi sống với người Phù Lá, Phò Chài ở Mường Khương, Lào Cai, tận mắt thấy cuộc sống của người dân nơi đây vẫn quá cực khổ. Đi bộ 5 - 10 km gùi về được vài lít nước sạch để uống… Nước quá hiếm hoi khiến người ta không dám tắm rửa nói gì tới đánh răng, súc miệng… Chúng tôi phải căng bạt ra hứng nước mưa và sương để đánh răng và nấu ăn đấy. Nhớ lại ...Ôi, thật là kinh khủng!” - Nguyễn Xuân Thịnh: nguyenxuanthinh.545@gmail.com

“Thật quá bất bình, họ đã hi sinh tất cả để đổi lại là 50 năm vẫn không được biết đến dòng điện. Sự lơ là của cán bộ địa phương thật đáng trách trước tiên. Cũng rất mong Đảng, Nhà nước ta sớm bù đắp những thiệt thòi đó cho người dân. Cảm ơn Dân trí đưa tiếp thông tin. Cảm ơn PV báo Lao Động đã tìm đến tận nơi và thông tin giúp người dân! Cảm ơn những con người đầy đức tính hi sinh của Ngòi Ngần! Rất mong người dân Ngòi Ngần sớm có điện, sớm có sơ sở vật chất xứng đáng với 50 năm và tất cả những điều họ đã hi sinh vì dòng điện quốc gia” - Nguyễn Ngọc: gem_bichngoc@yahoo.com.vn

“Người dân huyện Yên Bình quả là có nghị lực phi thường. Họ hy sinh tất cả mong có được chút ánh sáng của điện lưới quốc gia, nhưng hình như họ đã bị quên lãng??? 50 năm - nửa thế kỷ trôi qua, họ đã chịu quá nhiều thiệt thòi, vậy mà họ đã được bù đắp những gì? Sống ngay cạnh lòng hồ thuỷ điện Thác Bà mà vẫn ngọn đèn dầu leo lét? Đường dân sinh thì lầy lội, cả thôn mới có một trường hợp tốt nghiệp cấp 3?

Qua bài này kính mong những doanh nghiệp làm nhiệm vụ công ích, các cơ quan có thẩm quyền vào cuộc nhằm giảm bớt khó khăn cho thế hệ cháu của những người đầu tiên đi khai hoang đã nhường đất cho thuỷ điện này” - Lê Thị Duyên Hải: haiduyentnmt@gmail.com

“Theo tôi nghĩ, không chỉ riêng phần điện dành cho dân, mà vấn đề ở đây là cả hệ thống: Điện - Đường - Trường - Trạm. Người dân ở đây đã thiệt thòi đủ đường !!!! Ngân sách tỉnh, huyện để làm gì? Làm sao có chuyện lãnh đạo tỉnh, huyện không biết về việc này? Nếu trường hợp đã biết (vì người dân và UBND xã đã trình vấn đề này lên tỉnh, huyện và các đoàn đại biểu Quốc hội) thì vì sao không có hướng giải quyết mà để đến những nửa thế kỷ qua vẫn chưa làm được??? Đọc bài viết xong thấy bực mình, bức xúc quá !!!! (nếu sự thực là hoàn toàn như vậy)” - Trung Hiếu: hieunt.ho@gmail.com

“Mới đọc xong phần 1 của bài viết, mà không biết nước mắt mình đã rơi tự khi nào. Có lẽ bởi tại một sự thật quá "trần trụi" đã và đang diễn ra trên đất nước là niềm tự hào của bao thế hệ. Tại sao lại có thể như thế?” - Nguyễn Thị Thu Nga: thungakthb@yahoo.com.vn
Đường vào xã Bảo Ái thì như thế này đây
Đường vào xã Bảo Ái thì như thế này đây
Thịt da ai cũng là người

Cũng là người con đất Việt, ai có thể dửng dưng trước những cảnh đời quá đỗi cực khổ, thiệt thòi một cách đầy oan uổng như vậy... “Thịt da ai chẳng là người”, lẽ nào tiếng nói của những người dân nơi đây gần nửa thế kỷ qua vẫn chưa vượt được chặng đường chỉ cách Thủ đô có trăm rưởi cây số đó để tới được những địa chỉ cần thiết???

Từ phía dư luận, với tư cách người dân thì cũng chẳng biết làm gì hơn là bày tỏ sự sẻ chia, đồng thời góp thêm những tiếng nói với hy vọng sẽ “đẩy” vấn đề tới gần hơn cánh cửa các bộ, ngành chức năng. Bởi như Ngô Thu Hương ngothuhuong2011@gmail.com nêu rõ: “Tôi không thể tin vào sự thật phũ phàng này. Làm như vậy làm sao dân còn có lòng tin vào chính sách được nữa chứ? Thật xót thương cho người dân nơi đây, nhưng chúng ta có thể giúp họ được bằng cách nào đây?”

Và tầm nghiêm trọng của sự việc qua nhận xét của nick Lại một lời hứa bị bỏ quên thanhnhcs@yahoo.com.vn xem ra cũng không phải là quá:

“Tôi nghĩ, nếu phải kiểm điểm lại những lời hứa thì có lẽ đây là lời hứa cụ thể nhất và tệ hại nhất. Và tôi nghĩ, có lẽ phải nói tới 2 từ "lừa dối" cũng không quá chút nào. Thật tội nghiệp và đau xót cho những con người chỉ luôn biết hy sinh thầm lặng thế này...”

Nhưng liệu rồi có được câu trả lời cho những câu hỏi dư luận nêu ra với vấn đề cũng rất nóng bỏng này không?

“Quá bất công! Đáng lẽ ra những con người này phải là người đầu tiên được dùng điện mới đúng, để bù đắp phần nào cho cho những hy sinh mà họ phải từ bỏ nhà cửa, đất đai ra đi.....Vậy mà họ lại phải chịu khổ như thế này sao?” - Ngân ngất: kimngan_12a2@yahoo.com.vn

“Nhìn thấy mà đau lòng quá. Đây đâu phải là chuyện cái kim, con kiến mà người ta có thể lờ đi trong suốt 50 năm được? Có lẽ nhiều người trong chúng ta hiện nay sống cho bản thân mình nhiều quá, mà quên đi gốc rễ của những thứ ta đang có hôm nay. Thật khó có thể hình dung được, có lẽ tôi phải dùng từ Lầm Than để nói về họ. Tôi cảm thấy xót xa cho niềm tin của họ. Thế này thì còn gì là truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây mà ta vẫn nói, vẫn nghe từ thuở mới học vỡ lòng? Không thể hiểu nổi” - Xuyen: tongxuyen@yahoo.com.vn

“Nghị quyết 30a thực hiện đến đâu rồi? Chương trình 34,35 của Chính phủ về xoá đói giảm nghèo đã thực hiện ra sao? Vấn đề này không phải là do chế độ chính sách, vì thực tế ai cũng hiểu là Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến đời sống của nhân dân, nhưng cấp thực hiện còn nhiều sai sót quá. Để thực hiện tốt NQTW4 khoá XI, mong các đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Yên Bái, Bí thư Huyện uỷ Yên Bình cũng cần xem xét lại xem các công bộc ở đây làm làm việc thế nào mà để cho dân khổ đến vậy?” - Trương Quang Tuyến: quangtuyen686@gmail.com

“Tầm nhìn và qui hoạch là của những người có trách nhiệm trong dự án thủy điện đầu tiên của cả nước, nhưng họ đã quên lời hứa với những người dân nghèo vùng sơn cước. Không nên trách cán bộ xã, thôn địa phương, họ không thể làm được gì cả đâu....” - Ngô Hoành: ngohoanh12@gmail.com

Vâng dẫu là sai sót ở cấp nào và từ bao lâu, nhưng muộn mà có hành động tích cực ngay thì vẫn còn hơn không rất nhiều. Trong khi hy vọng và trông chờ vào phản hồi của các cấp chính quyền và ban ngành hữu quan, với truyền thống “lá lành đùm lá rách” bạn đọc Dân trí một lần nữa kêu gọi tinh thần Nhân ái trong cộng đồng:

“Trời! Sao mà bất công quá vậy! Ở nơi gọi là hy sinh vì dòng điện quốc gia mà để người dân chịu cảnh như vậy sao? Không lẽ họ bị bỏ rơi 1 cách đáng thương vậy sao? Mong các cấp hữu quan xem bài báo này và có những hành động cụ thể giúp đỡ họ càng sớm càng tốt. Nếu cần mong DÂN TRÍ hãy kêu sự giúp đỡ của cả DÂN TỘC MÌNH!” - Vũ Lan: mamaoi66@zing.vn
Thanh Nguyễn
http://dantri.com.vn/c673/s668-630384/thuy-dien-thac-ba-50-nam-van-loi-hen.htm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001