Nguyễn
Nghĩa.
“Người
giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải
đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không
chết..."
(“Vạn
Kiếp tông bí truyền thư” của Quốc công tiết chế Trần Hưng
Đạo )
Bát
quái
Bát
quái theo ngôn ngữ cổ có nghĩa là hình tám cạnh treo cao.Từ trước đến nay, bát
quái thường cho ta liên tưởng: Bát quái là sản phẩm văn hóa của Trung Quốc và
được liệt vào chủng loại văn hóa thần bí Trung Hoa.Những văn hóa thần bí này
chứa đựng bao nhiêu điều bí ẩn, nhưng không có gì bí ẩn hơn bát quái. Vậy bí ẩn
ở loại văn hóa này là những gì?
Để
gạn đục, khơi trong, ta hãy loại bỏ đi các mầu sắc mê tín, những dị đoan tà
thuyết, những ẩn sĩ tiên nhân, những thiên nhân cảm ứng, những đạo sĩ luyện
đơn,…thì sẽ còn trơ lại nội dung chính, logic chính của loại văn hóa này. Sau
khi có được nội dung chính, ý tưởng chính mà trên đó, bát quái ra đời, ta hiểu
được rõ ràng tại sao bát quái trở thành bí ẩn trong văn học Trung Quốc.
Do
người Trung Quốc xưa nay hiểu bát quái một cách rời rạc, không logic, nên họ tô
vẽ tính thần bí cho bát quái. Bát quái trở thành một môn bí thuật, chỉ dành
riêng cho những người được lụa chọn, những cao nhân, những ẩn sĩ, mà hình như
không có gì kiểm chứng về kiến thức của họ về bát quái. Một thí dụ đơn giản, về
nhận định trên, là trường hợp trận đồ bát quái của Khổng Minh. Tuy Khổng Minh
không phải là ẩn sĩ trong rừng thẳm, núi cao mà là thừa tướng của nước Thục,
nhưng trận đồ bát quái, mà Tam quốc của La Quán Trung mô tả tại hồi 84, được gán
cho 2 chữ : Thất truyền. Gần đây, 1 công trình tiên phong, năm 2006, của Trần
Quang Bình đăng tại http://vietsciences.free.fr/vietnam/vanhoa/kinhdich/loinoidau.htm.
Nội
dung của công trình này cho ta 1 gợi ý rất rõ ràng, đồng thời có nhiều chứng
minh: Bát quái là sản phẩm của Việt Nam.
Hôm
nay, trên kinh nghiệm mà nhà Minh chiếm đoạt “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” của
Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, trên kinh nghiệm mà Trung Quốc đang xâm chiếm
Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, với sự bịa đặt thô bỉ các bằng chứng lịch sử,
ta có thể sơ bộ kết luận rằng : Nếu ngày mai, Việt Nam không đòi ngay lại Hoàng
Sa, Trường Sa thì dăm chục năm sau, vài trăm năm sau, người Trung Quốc sẽ biến 2
quần đảo này là của Trung Quốc với các câu chuyện huyền thoại về nó có từ hơn
2000 năm về trước.
Lịch
sử của TQ là lịch sử chinh phạt, cướp bóc các lãnh thổ của các bộ lạc nằm ngoài
biên giới TQ cổ.Ngoài việc cướp bóc lãnh thổ, người Trung Hoa cổ đại còn biết
cướp cả văn hóa của các dân tộc bị chinh phục.Họ không những du nhập văn hóa đặc
sắc của các dân tộc bị chinh phục, mà họ còn cướp bóc, mà còn biến các nền văn
hóa ấy trở thành của riêng mình. Đầu tiên là họ cưỡng chiếm, thu về TQ tất cả
những gì liên quan đến đặc sắc dân tộc như các văn tự cổ, các phát kiến văn hóa
cổ như chữ viết, các cách bói toán, gieo quẻ, các kinh nghiệm dân gian dự đoán
về thời tiết…
Thứ
đến là họ xóa sạch mọi dấu vết của đặc sắc vắc văn hóa ấy, tại chính dân tộc vừa
bị chinh phục.Cuối cùng thì đội ngũ trí thức TQ vào cuộc, và biến các đặc sắc
văn hóa này trở thành của Trung Quốc.Thế nhưng cái sự học vẹt, cái sự không hiểu
thấu đáo của người Trung Quốc đã lòi đuôi ra, khi họ không hiểu hết bản chất,
nguồn gốc của những đặc sắc văn hóa ấy.Thế cho nên, họ không thể gắn những hiểu
biết của họ vào được trong 1 logic. Điều này đã được Trần Quang Bình phát hiện
và tiên phong nghiên cứu.
1.Bát
quái trận đồ trong văn học Trung Quốc.
Bát
quái trận đồ nổi tiếng nhất là bát quái trận đồ của Khổng Minh. Trận đồ này còn
gọi là bát quái trận thạch, do Khổng Minh sai quân lính đắp đá thành 8, 9 đống
đá cao mà thành thế trận. /xem Tam Quốc diễn nghĩa.La Quán Trung, hồi
84/.
Đại
tướng quân Đông Ngô Lục Tốn, khi đuổi Lưu Bị đến gần thành Bạch Đế, gặp phải bát
quái trận thạch này mà sợ hãi lui quân.Nhà thơ Đỗ Phủ có thơ khen Khổng Minh
rằng:
“Công
trùm lên Tam Quốc,
Danh
nổi bát trận đồ.”
Gần
đây, bát quái trận còn được nổi tiếng thêm, bởi nhà văn chuyên viết thể loại
kiếm hiệp Kim Dung.Trong cặp chuyện kiếm hiệp “Anh hùng xạ điêu” -”Thần điêu đại
hiệp”, bát quái trận đồ nằm ở tình tiết: Lão đảo chủ đảo Đào hoa Đông tà, Hoàng
Dược Sư, đã giam Lão ngoan Đồng Châu Bá Thông gần 10 năm trong vườn hoa, bằng
trận đồ bát quái, mà những cây hoa đào lập nên trận đồ bát quái.
2.Bát
quái trận đồ và Quốc công tiết chế Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn
Người
anh hùng lỗi lạc của lịch sử VN, 3 lần lãnh đạo quân đội nhà Trần đánh bại các
tướng lừng danh của đế quốc Nguyên-Mông, Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo, là 1
người rất giỏi về trận pháp.Điều này ta có thể suy đoán được. Lịch sử ghi nhận
rằng, khi Người viết xong cuốn “Vạn Kiếp tông bí truyền thư” và khi ban hành,
chính Đại vương Trần Hưng Đạo căn dặn:
“Sau
này, con cháu và bồi thần của ta, ai học được bí thuật này phải sáng suốt mà thi
hành, bày xếp thế trận; không được ngu dốt mà trao chữ truyền lời. Nếu không thế
thì mình chịu tai ương mà vạ lây đến con cháu. Thế gọi là tiết lộ thiên cơ
đó.’/Đại
Việt sử ký toàn thư/
Vạn
Kiếp tông bí truyền thư cùng với Hịch tướng sĩ và Binh thư yếu lược là những tác
phẩm binh pháp của Quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo viết ra, truyền cho đời sau.
Tiếc thay, đến nay, binh pháp Vạn Kiếp tông bí truyền thư đã bị thất truyền.
Tinh hoa quân sự của dân tộc Việt Nam, do vị tướng tài vô địch Trần Hưng Đạo
tổng kết đã bị giặc nhà Minh cướp hết các quyển sách đã xuất bản và mang về
Trung Quốc.
Nhờ
có đoạn mở đầu của Vạn Kiếp tông bí truyền thư do Đại tướng quân, Nhân Huệ Vương
Trần Khánh Dư viết, lưu lại trong Đại Việt Sử ký toàn thư, mà hôm nay, ta biết:
đây là một tác phẩm của Trần Hưng Đạo về nghệ thuật quân sự, có lẽ chủ yếu là
bày binh bố trận, nhưng đến nay đã bị thất lạc. Ông sưu tập binh pháp các nhà,
làm thành bát quái cửu cung đồ, và đặt tên tác phẩm như vậy./Wikipedia- Vạn Kiếp
Tông bí truyền thư/.
“Người
giỏi cầm quân thì không cần bày trận, người giỏi bày trận thì không cần phải
đánh, người giỏi đánh thì không thua, người khéo thua thì không
chết.
Ngày
xưa Cao Dao làm sĩ sư mà không ai dám trái mệnh, đến Vũ Vương, Thành Vương nhà
Chu làm tướng cho Văn Vương, Vũ Vương, ngầm lo sửa đức, để lật đổ nhà Thương mà
dấy nên vương nghiệp, thế là người giỏi cầm quân thì không cần phải bày trận
vậy. Vua Thuấn múa mộc và múa lông trĩ mà họ Hữu Miêu đến chầu, Tôn Vũ nước Ngô
đem ngươi đẹp trong cung thử tập trận mà phía tây phá nước Sở mạnh, phía bắc uy
hiếp nước Tấn, nước Tần, nổi tiếng chư hầu, thế là người khéo bày trận không cần
phải đánh vậy. Đến Mã Ngập nước Tấn theo bát trận đồ, đánh vận động hàng ngàn
dặm, phá được Thụ Cơ Năng để thu phục Lương Châu. Thế gọi là người đánh giỏi
không bao giờ thua vậy.
Cho
nên trận nghĩa là “trần”, là bày ra, là khéo léo. Ngày xưa, Hoàng Đế lập phép
tỉnh điền để đặt binh chế. Gia Cát xếp đá sông làm bát trận đồ, Vệ Công sửa lại
làm thành Lục hoa trận. Hoàn Ôn lập ra Xà thế trận có vẽ các thế trận hay, trình
bày thứ tự, rõ ràng, trở thành khuôn phép. Nhưng người đương thời ít ai hiểu
được, thấy muôn đầu ngàn mối, cho là rối rắm, chưa từng biến đổi. Như Lý Thuyên
có soạn những điều suy diễn của mình, những người đời sau cũng không hiểu ý
nghĩa. Cho nên Quốc công ta[2] mới hiệu đính, biên tập đồ pháp của các nhà, soạn
thành một sách, tuy ghi cả những việc nhỏ nhặt, nhưng người dùng thì nên bỏ bớt
chỗ rườm rà, tóm lược lấy chất thực.
Sách
gồm đủ ngũ hành tương ứng, cửu cung suy nhau, phối hợp cương nhu, tuần hoàn chẵn
lẻ. Không lẫn lộn âm với dương, thần với sát, phương với lợi, sao lành, hung
thần, ác tướng, tam cát, ngũ hung, đều rất rõ ràng, ngang với Tam Đại, trăm đánh
trăm thắng. Cho nên, đương thời có thể phía bắc trấn ngự Hung Nô, phía nam uy
hiếp Lâm Ấp.”/Trần
Khánh Dư/
3.Trận
thế là gì?
Quân
đội dùng để đánh nhau.Ngày xưa vũ khí chủ yếu là gươm, giáo.Khi hai bên lâm
trận, thường là giao chiến trực tiếp mà hôm nay ta gọi là đánh giáp lá cà. Như
vậy trong trường hợp dùng binh như thế này, các yếu tố sau là quyết định trận
đánh :
-
Quân phải tinh, nghĩa là quân sĩ đã qua huấn luyện, đã thành thục các kỹ năng,
hiểu biết và thực hiện lệnh của chỉ huy.
-
Sĩ khí: tinh thần binh lính.
-
Số lượng quân lính.
-
Trang bị vũ khí : gươm phải sắc, mới. Giáo phải nhọn, mới. Áo giáp đầy
đủ…
-
Thể lực quân sĩ: phải khỏe, đã nghỉ ngơi đủ, không mỏi mệt.
…
Những
yếu tố này thuộc vào phụ thuộc vào người lính. Người làm tướng giỏi, ngoài nắm
thiên văn, địa lý, nhân hòa, còn phải biết điều quân, điều khiển các tướng dưới
quyền, thông thạo binh pháp. Một trong các kỹ năng điều khiển trận chiến là cách
bầy và phá các trận thế. Trận thế, nói đơn giản, là các bố trí 1 nhóm quân sĩ
theo 1 mô hình nhất định, khác với bố trí hàng ngũ thông thường. Cách dịch
chuyển của những nhóm nhỏ của nhóm này phải tuân thủ ngặt nghèo theo những qui
luật đã định của trận pháp.Thí dụ sau là 1 mô tả đơn giản nhất của điều binh,
khiển tướng trong trận pháp đơn giản.
Giả
sử có 2 đội quân kình địch nhau, cùng có số lượng quân sĩ là 50 người, và quân
sĩ cùng khỏe như nhau.Đội A đi từ bắc xuống nam theo 1 con hẻm chứa đủ để 10
người lính dàn hàng ngang và có thể tác chiến. Bất ngờ đội B xuất hiện, hướng
hành quân của B là nam lên bắc.
Tướng
của B là 1 tướng giỏi, ông ta đã tập luyện cho binh sĩ biết nghe hiệu lệnh trong
trận pháp này. Ta giả sử thêm rằng 1 người lính của cả 2 đội chỉ thua trận khi
gặp 1 đối thủ sung sức hơn, khỏe hơn mà thôi. Nếu tướng của đội quân A không
biết trận thế, chỉ cậy khỏe mà đánh tràn đi, thì sẽ thua đội quân B sau vài chục
phút.
Ta
mô tả trận này như sau: Đầu tiên, 10 người lính của đội A chiến đấu với 10 người
lính của đội B.Lúc này 2 bên tương đương nhau. Sau 10 phút giao đấu, vị tướng
của đội B hạ lệnh 10 người lính đang chiến đấu ở hàng đầu rút xuống và thay vào
các vị trí chiến đấu là các binh sĩ thuộc hàng số 2.Vị tướng đội A do không biết
binh pháp, vẫn xua 10 người lính của hàng 1 xông vào trận. Rõ ràng 10 người lính
của B là sung sức do chưa phải chiến đấu. Theo điều kiện cuộc chiến, 10 người
lính của đội A thua trận, bị phạt mất đầu.
Tướng
của A tức khí, xua 10 người của hàng thứ 2 lên. Vị tướng đội B lại thay hàng 2
bằng hàng 3.Từ bây giờ tình huống trở lại như ban đầu: 10 người lính sung sức
của đội A chiến đấu với 10 người lính sung sức của đội B. Nhưng lúc này, đã có 1
sự khác biệt cơ bản: đội A chỉ còn 40 quân sĩ, trong khi đội B vẫn còn nguyên 50
quân sĩ. Các quân sĩ ở hàng 1 bây giờ xuống hàng dưới cùng tranh thủ nghỉ ngơi
trước khi lại trở lại vị trí tác chiến.Ở đội A sĩ khí đã nao núng, do quân số
sụt giảm. Đội B thì sĩ khí tăng cao do thành công ban đầu chém được nhiều địch.
Rõ ràng kết quả cuộc chiến đã được định đoạt.Đội B sẽ thắng, tiêu diệt hoàn toàn
đội A. Như vậy, từ tương quan lực lượng như nhau, do nắm vững thế trận và cách
điều binh của trận thế mà đội B thắng.Thí dụ đơn giản trên cho ta 1 chân lý:
Trận thế là 1 bộ phận tri thức quan trọng của binh pháp, người làm tướng không
thể không nắm vững tri thức này.
4.
Một vài trận Bát quái đơn giản.
Giả
sử hôm nay, trên vùng lãnh hải của Việt Nam tại Trường Sa, Biển Đông, có 45
thuyền đánh cá VN đang đánh bắt cá.Bất ngờ xuất hiện 1 số đông các thuyền đánh
cá TQ, không rõ số lượng, có vẻ đông hơn số thuyền VN. Chiến thuật hôm nay của
các thuyền cá VN là thế thủ, bảo toàn lực lượng.Ta mô tả một số trận đồ bát quái
đơn giản, thích hợp cho trường hợp này.
Dẫy
số tự nhiên từ 1 đến 9, sắp xếp thứ tự như sau: 1,2,3,4,5,6,7,8,9.
Có
tổng 1+2+3+..+9= 45.
Dãy
số tự nhiên trên, ta có thể sắp lại theo hình vẽ sau:
|4
| 9 | 2|
|3
| 5 |7 | (4.1)
|8
| 1 |6 | .
Cách
xắp xếp theo hàng ngang và hàng dọc thế này, cho ta 1 tính chất đặc
biệt:
“Tổng
tất cả các số thuộc cùng 1 hàng ngang, hay cùng 1 hàng dọc, hay cùng trên 1
đường chéo đều cho 1 tổng như nhau và bằng 15″.
Dựa
trên tính chất này, ta có thể sắp 45 quân thành 1 trận đồ bát quái đơn giản,
nhằm thủ thế, giữ vững trân địa, với sức mạnh mọi phương, mọi hướng như nhau và
bằng sức mạnh của ít nhất 15 quân.
Các
cửa của các số vòng quanh trung tâm/số 5/ được gọi theo các tên đặt là Hưu,
Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai.
Như
vậy ta đã có 1 cách bố trân bát quái đơn giản.
Nếu
coi đây là 1 kiểu sắp quân và đặt ra luật lệ di chuyển là: bao giờ cũng chỉ di
chuyển cả hàng hay cả cột không chứa số 5. Nghĩa là số 5 luôn là trung
tâm.
Cũng
có thể đặt thêm luật lệ là: các quân sĩ đứng im, trung tâm chỉ huy ở số 5. Số
lượng 5 quân sĩ của trung tâm có thể di chuyển, bổ xung cho quân lính ở 8 ô số
kia.
Cách
dich chuyển quân theo hàng:
|
8 | 1 | 6 |
|
3 | 5 | 7 | (4.2)
|
4 | 9 | 2 |
hay
theo cột :
|
2 | 9 | 4 |
|
7 | 5 | 3 | (4.3)
|
6 | 1 | 8 |
sẽ
cho ta thêm 2 cách bố trận đơn giản khác của bát quấi trận đồ.
Các
trân này vẫn đảm bảo đặc tính thế thủ: Tại các hướng, lực lượng phòng thủ vẫn
không thay đổi, có tổng bằng 15.
Thêm
vào cách điều quân linh động, các nhà quân sự cổ đã nói: thế trận của trận đồ
bát quái là linh hoạt, ảo diệu vô cùng, là như vậy.
Cũng
như đã mô tả ở trên, số lượng các ô số không trung tâm là 8. Các ô này còn gọi
là 8 cửa, có tên là Hưu, Sinh, Thương, Đỗ, Cảnh, Tử, Kinh, Khai.
Thế
là ta đã có những trận đồ bát quái đơn giản.
Một
tướng giỏi, khi quan sát trận đồ này, phải nhận ra cửa nào là cửa Sinh, cửa
Khai, cửa Tủ…
Nếu
đánh vào cửa Tử, coi như thất bại.
Nếu
vào cửa Khai, thì an toàn tính mệnh.
Nhưng
phải tìm được cửa Sinh mà ra thì mới gọi là biết phá trận.
5.
Một giải thích cho Hà đồ và Lạc thư.
Lạc
thư là xắp xếp các số tự nhiên từ 1 đến 9 theo ma trận (4.1). Ta viết
lại:
|4
| 9 | 2|
|3
| 5 | 7|
|8
| 1 |6 | .
Bây
giờ, ở vị trí người Lạc Việt cổ đại, ta chọn vị trí khi mặt trời đứng trên đỉnh
đầu là vị trí đặc biệt( hôm nay, đây là vị trí của giờ thứ 12 trong
ngày).
Nghĩa
là, từ số 9, ta có thể chọn các cặp đôi gồm 2 số, sao cho không cặp đôi nào có 2
số tự nhiên liên tiếp.
Ta
sẽ thu được các cặp đôi sau: (9,4)-(3.8)-(1,6)-(7,2). Xắp xếp lại các cặp đôi
này sao cho số bé đứng trước, số to đứng sau, ta có các căp đôi
:(4,9)-(3,8)-(1,6)-(2,7).
Lấy
1 ô làm trung tâm, trong ô này ta viết số 5/10. Tức là: ô này là ô kép, biểu thị
bằng số 5 và 10.
Phía
trên ô này, ta viết số 1 và đóng nó vào 1 ô vuông.
Trên
ô vuông này ta viết số 6 và cũng đóng trong ô vuông.
Phía
dưới ô 5/10, ta viết số 2, đóng ô vuông. Dưới ô số 2, ta đóng ô vuông cho số
7.
Phía
bên phải ô 5/10, ta đóng ô số 3 và ô số 8.
Phía
bên trái ô 5/10, ta lần lượt đóng các ô vuông cho số 4 rồi số 9.
Ta
thu được kết quả:
|
6 |
|
1 |
|9|4|5,10|3|8|
|
2 |
|
7 |
Hình
đồ trên chính là bố trí các số từ 1 đến 10 nổi tiếng có tên gọi là Hà
đồ.
Nó
được các nhà “bác học” TQ gắn với 1 truyện hoang đường là năm nọ, năm kia, xuất
hiện trâu trắng có các xoáy bố trí như Hà đồ.
Mối
liên hệ giữa Hà đồ và Lạc thư trong các sách cổ là không có.
Tác
giả Trần Quang Bình trong nghiên cứu mô tả ở mở đầu bài này, cũng không nêu ra
mối liên hệ giữa Hà đồ và Lạc thư.
Thậm
chí Trần Quang Bình còn cho rằng Hà đồ khó giải thích hơn Lạc thư.
Hôm
nay, tôi đã chỉ ra 1 biến đổi đơn giản từ Lạc thư sang Hà đồ.
Như
vậy Lạc thư là gốc, biểu diễn các số từ 1 đến 9, còn Hà đồ là 1 biểu diễn các số
từ 1 đến 10.
Cho
đến hôm nay, ứng dụng của Lạc thư nhiều hơn Hà đồ.
Có
phải chăng: Lạc thư là văn thư của dân tộc Lạc Việt. Một nhận biết về qui luật
của dãy số từ 1 đến 9.
6.
Kết luận.
Cái
gì của Cezar sẽ phải trả cho Cezar. Để khẳng định bát quái có nguồn gốc từ Việt
Nam, chắc chắn còn phải có đóng góp của nhiều trí thức Việt Nam hơn nữa. Thế
nhưng cái gì của Việt Nam sẽ phải trả lại cho Việt Nam.Tri thức là của chung
nhân loại. Ai cũng có thể dùng định lý: “Trong 1 tam giác vuông, tổng bình
phương 2 cạnh kề góc vuống bằng bình phương cạnh huyền”.Nhưng mỗi khi dùng, xin
bạn nhắc rõ: đây là định lý Pitago. Kinh nghiệm trên đây cho ta 1 bài học: Hôm
nay, lúc này phải giữ cho được Hoàng Sa, Trường Sa.
Để
lâu, Hoàng Sa, Trương Sa sẽ bị TQ đồng hóa. Bài học Vạn Kiếp tông bí truyền thư
sẽ lặp lại, bài học bát quái sẽ lại lặp lại. Vài chục, vài trăm năm nữa, con
cháu VN sẽ phải học lịch sử rằng HS, TS là của TQ, do TQ phát hiện từ thời nhà
Hán.
Nắm
vững kiến thức số học của bát quái, sẽ giúp ích cho cuộc chiến trên Biển Đông,
khi Trung Quốc đang dùng chiến thuật “mộc ngư dân”.
©
©
Đàn Chim Việt
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001