Elena Nguyễn, Đại học Mary Baldwin
Nguyễn thị Hải Hà dịch, trích từ TQBT số 53
Nguyễn thị Hải Hà dịch, trích từ TQBT số 53
Nhà thơ
Việt Nam Hồ Xuân Hương từ xưa đến nay vẫn được xem là một trong những
nhà thơ lớn nhất và gây nhiều tranh luận nhất. Vào thời kỳ vị trí của
người phụ nữ trong xã hội càng lúc càng trở nên khiêm nhường vì bị ảnh
hưởng bởi học thuyết Khổng Tử, chỉ riêng cái ý muốn làm thơ của bà cũng
đủ làm dư luận bất bình. Thơ của bà càng đáng sợ hơn bởi vì ý tứ chua
cay phê phán xã hội đương thời, ẩn chứa nhục cảm, và sự khôi hài dí dỏm
ngụ ý tình dục đã phản kháng phá vỡ những qui luật xã hội, mang giọng
nói cho phụ nữ Việt cũng như tạo tiếng vang cho ngôn ngữ Việt.
Cơ cấu
và kỹ thuật thơ đã hữu hiệu đưa những bài thơ của bà Hồ Xuân Hương vượt
qua mức đơn giản của ẩn dụ và so sánh. Thơ Hồ Xuân Hương giống như những
mảnh rời nối kết với nhau một cách rất phức tạp không chỉ mang một
nghĩa ngầm, mà có hai nghĩa – nghĩa thứ nhất có tính cách trêu cợt gợi
cảm và nghĩa thứ hai nghiêm túc hơn kêu gọi cải cách xã hội. Thường khi,
cái có vẻ như miêu tả phong cảnh Việt Nam thật ra tràn đầy những ẩn dụ
tình dục. “Đèo Ba Dội” là thí dụ điển hình của loại thơ này được John
Balaban dịch ra như sau: (1)
A cliff face. Another. And still a third.
Who was so skilled to carve this craggy scene
The cavern’s red door, the ridge’s narrow cleft,
The black knoll bearded with little mosses?
A twisting pine bough plunges in the wind,
Showering a willow’s leaves with glistening drops.
Gentlemen, lords, who could refuse, though weary
And shaky in his knees, to mount once more?
Who was so skilled to carve this craggy scene
The cavern’s red door, the ridge’s narrow cleft,
The black knoll bearded with little mosses?
A twisting pine bough plunges in the wind,
Showering a willow’s leaves with glistening drops.
Gentlemen, lords, who could refuse, though weary
And shaky in his knees, to mount once more?
Nguyên tác:
Một đèo, một đèo, lại một đèo
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quan tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo (2)
Khen ai khéo tạc cảnh cheo leo
Cửa son đỏ loét tùm hum nóc
Hòn đá xanh rì lún phún rêu
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quan tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo (2)
Đối với
tư tưởng người trinh bạch, bài thơ này có vẻ như lời kể vô tư về chuyến
leo núi của một nhóm quan chức. Mặt khác, những người ít “trong sạch”
ngay tức khắc sẽ nhìn thấy sự ví von về âm hộ cũng như giao hợp (ở Việt
Nam, cây thông là hình ảnh tượng trưng cho đàn ông và cây liễu tượng
trưng cho đàn bà).
Điều
thất thoát trong bản dịch bài thơ “Đèo Ba Dội”, là cách chơi chữ ranh
mãnh độc đáo của bà, đổi vị trí của chữ – cách chơi chữ phổ thông của
người Việt gọi là nói lái – và “âm vang của chữ” (cùng vần nhưng khác
dấu) làm cho bài thơ mang nhiều ngụ ý rất thú vị. Thí dụ, câu đầu tiên
của bài thơ trong nguyên tác là “Một đèo, một đèo, lại một đèo” (Dinh,
para. 7). Bởi vì tiếng Việt dựa vào sự lên xuống giọng của chữ, “đeo” có
thể biến thành nghĩa khác tùy theo dấu của chữ và nội dung của bài (văn
cảnh).
Trong
bài thơ, chữ “đèo,” trích từ câu “một đèo, một đèo, lại một đèo.” Tuy
nhiên, nếu dấu trên chữ nghiêng về phía ngược lại (ý nói là dấu sắc),
như trong chữ “đéo,” câu thơ dịch thành “Một đéo, một đéo, lại một đéo”
(B&N.com) – điều này đa số người Việt nhận ra ngay lập tức.
Trên bề
mặt, những bài thơ tương tự “Đèo Ba Dội” dường như là những bài thơ
hoàn toàn đúng niêm luật và bảo thủ dùng hình ảnh cổ truyền của Khổng
giáo liên quan đến thiên nhiên. Tuy nhiên, cái tư tưởng dục vọng trác
táng gói ghém trong sự miêu tả cảnh thiên nhiên đã thêm chiều hướng phản
kháng vào trong nền thi ca tượng trưng cho sự cao quí của xã hội bị ảnh
hưởng bởi Trung quốc. Trong khi chính quyền có vẻ như liêm chính và đức
hạnh trong việc áp dụng quan niệm Khổng tử để ngăn cấm sự lõa thể và
tình dục trong nghệ thuật, nhà thơ Hồ Xuân Hương đã vạch ra rằng đám
quan lại nam giới này gian dối và đạo đức giả trong cách cai trị, hầu
hết bọn họ có nhiều vợ và ngoại tình – một sự thật mà bà Hồ Xuân Hương
có thể làm nhân chứng, vì bà cũng là vợ lẽ.
Bên
cạnh những câu thơ khéo léo ngầm chứa những lời phê phán xã hội và chính
trị thấy trong thơ của bà, trong nhiều bài thơ khác bà cũng bày tỏ cảm
tưởng về các nhà lãnh đạo tôn giáo. Một lần nữa, trong khi chủ đề tôn
giáo trong những bài thơ biểu hiện lòng tôn kính và mộ đạo của bà, đọc
kỹ sẽ nhìn thấy sự phê phán chua cay về giới chức tôn giáo đã bị băng
hoại. Thí dụ, “Vịnh Sư Hoành Dâm” (3) diễn tả sự cố gắng của ông nhà sư
đương đầu với cuộc hành trình để đến “Tây Trúc” tìm Phật (dịch bởi John
Balaban):
Bản dịch:
A life in religion weighs heavier than stone.
Everything can rest on just one little thing.
My boat of compassion would have sailed to Paradise
If only bad winds hadn’t turned me around
Everything can rest on just one little thing.
My boat of compassion would have sailed to Paradise
If only bad winds hadn’t turned me around
Nguyên tác:
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Vị gì một chút tẻo tèo teo
Buồm từ cũng muốn về Tây Trúc
Trái gió cho nên phải lộn lèo
Trong
nguyên tác tiếng Việt, câu đầu tiên “Cái kiếp tu hành nặng đá
đeo,”(Dinh, para. 12) với chữ “đeo” có nghĩa là “mang hay khiêng.” Đọc
trại giọng một chút, “đeo” có thể biến thành “đéo,” có nghĩa là “giao
hợp,” như đã nói trong bài thơ “Đèo Ba Dội.” Bài thơ còn mang ý nghĩa
ngầm rất tục tằn biểu lộ trong câu cuối “Trái gió cho nên phải lộn lèo.”
Ở đây nhà thơ đã nhẹ nhàng ám chỉ dụng ý của bà qua hai chữ “lộn lèo,”
có nghĩa là “quay trở lại hay quay hướng khác” (para. 13). Khi nói lái,
nó biến thành “lẹo lồn” là một cách diễn tả chuyện giao hợp và âm hộ
một cách rất tục tằn. (4)
Mặc dù
điều này có lẽ đã được ám chỉ ở tựa đề của bài thơ, giọng điệu ẩn chứa
trong bài thơ “Vịnh Sư Hoành Dâm” đã thay đổi hoàn toàn nghĩa của bài
thơ. Cái dường như là cuộc hành trình đi tìm Phật thật ra đầy dẫy gian
dối dâm dật. Cái “tẻo tèo teo” đã hành hạ nhà sư và “trái gió” đã ngăn
cản nhà sư tìm về Tây Trúc được dùng để ám chỉ cùng một thứ – tình dục.
Trong khi bài thơ không có ý nói rằng các nhà sư lúc nào cũng lén lút
ân ái với phụ nữ, chắc chắn nó biểu lộ tình trạng đạo đức của các giới
chức tôn giáo lúc bấy giờ.
Thêm
vào những thông điệp hấp dẫn được giấu giếm tài tình trong vẻ lấp lánh
của cái tục, tính chất độc nhất vô nhị về thơ của bà Hồ Xuân Hương nằm ở
trong chính cái ngôn ngữ bà dùng. Trong khi hầu hết mọi nhà thơ Việt
thời bấy giờ dùng chữ Hán, bà Hồ Xuân Hương chọn cách viết bằng tiếng
Việt – hay nói đúng hơn là dùng chữ Nôm cổ, cách viết tiếng Việt trước
khi dùng mẫu tự La Tinh như cách viết bây giờ. Dùng chữ Nôm, bà Hồ Xuân
Hương đã chế nhạo văn thi sĩ thời bấy giờ, những kẻ đầy tự phụ tuân theo
cái được xem là ảnh hưởng cao quý của Trung quốc – chọn những chủ đề
tầm thường vô vị của Khổng giáo mà, thật tất yếu, đã ruồng bỏ dân tộc
của mình. Bằng cách dùng chữ Nôm, bà Hồ Xuân Hương đã đi ngược lại thói
thường và làm vang vọng tiếng nói của người dân bình thường – trái tim
của Việt Nam – cũng như đã trình bày cái thẩm mỹ và khả năng văn chương
phi thường của ngôn ngữ Việt.
Trong
khi thực hiện kỳ công sáng tác ba bài thơ gồm trong một, Hồ Xuân Hương
không những làm độc giả thú vị với sự tinh quái tục ngầm mà còn trưng ra
lời phê bình về xã hội phụ hệ đặt nền tảng trên ảnh hưởng của Trung
quốc – một “toan tính” khá nguy hiểm đã thành công trong việc lẩn tránh
và tự giải thoát khỏi vòng kiểm duyệt nhờ sự giả trang khôn khéo này.
Nếu như tài làm thơ của bà kém đi một chút, có lẽ bà đã bị trừng phạt và
có thể bị xử tử ngay lúc ấy. Sự thật là những bài thơ của bà đã được
kính trọng và bảo tồn cả hằng mấy thế kỷ đã chứng minh rằng bà đã đi
trước thời đại của bà rất xa, bằng sự hiểu biết sâu sắc đầy tính xúc tác
của bà và cái óc khôi hài sắc sảo không ai có thể so sánh bà đã mạo
hiểm đến những nơi mà những văn thi sĩ đồng thời với bà – cả nam lẫn nữ –
đều không dám đến và làm nổi bật bà thành biểu tượng tuyệt đối của lòng
can đảm và nhiệt huyết của người Việt Nam.
———
(1) Bài thơ dịch của John Balaban được giữ để độc giả tiếng Việt thưởng thức hay tham khảo
(2) http://vi.wikisource.org/wiki/%C4%90%C3%A8o_Ba_D% E1%BB%99i
(3) http://www.johnbalaban.com/articles/translatingvietnamese-
poetry.html
poetry.html
Chú
thích của người dịch: tôi tìm thấy tên của bài thơ trong bài tiểu luận
của Giáo Sư John Balaban. Tôi không có điều kiện để kiểm chứng sự chính
xác của tựa đề. Rất có thể tựa đề là Vịnh Sư Hoang Dâm chứ không phải
Hoành Dâm do đó ông Balaban dịch chữ “hoang dâm” thành chữ “lustful.” Có
một nguồn khác dùng là “Vịnh Kiếp Tu Hành.”
(4)
Chú thích của người dịch: Ở đây tác giả bài viết đã không chú ý đến chữ
“trái gió” nếu nói lái sẽ biến thành “dái chó” cũng là một cách để mắng
các nhà sư hoang dâm. Xin nhớ cách phát âm của người miền Bắc chữ “tr”
thường được phát âm giống như “ch” và chữ “gi” thường được phát âm giống
như “d.”
nguồn:http://phiatruoc.info/ho-xuan-huong-thay-doi-mot-quoc-gia-bang-tho-2/
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001