HÔM NAY, KỶ NIỆM 140 NĂM NGÀY HÀ THÀNH THẤT THỦ LẦN THỨ NHẤT
Kỷ niệm 140 năm ngày Hà thành thất
thủ lần thứ nhất
(20-11-1873 – 20-11-2013)
VỀ CUỘC HÀ NỘI THẤT THỦ LẦN THỨ NHẤT
(20-11-1873)
Đào Tiến Thi
Nếu Việt Nam bấy giờ biết chăm lo tu chỉnh
về quân chính, mở rộng dân quyền, vua tôi trên dưới đều mạnh mẽ mưu trị nước,
nghiên cứu sâu trí học của ngoại dương, tẩy trừ khuôn khổ hủ lậu, “kịp thời
chưa mưa dầm lấy những gốc dâu mà gài cửa sổ”, nước còn có thể phấn chấn lên
được. Nhưng nước Việt Nam mơ màng đôi mắt ngủ, uể oải một thân bệnh, tôn quân
quyền, ức dân quyền (...), chủ nhân nằm dài trên giường luôn luôn ngáp dài mệt
mỏi. Than ôi, Nguy ngập lắm thay.
(Phan Bội Châu)
I- VIỆT NAM NHỮNG NĂM SAU HOÀ ƯỚC NHÂM TUẤT
(1862)
Sau đó Tự Đức cũng
tiếc nên cử phái đoàn do Phan Thanh Giản cầm đầu sang Pháp xin chuộc lại. Việc
này lại là một sai lầm nghiêm trọng tiếp theo. Bởi vì thực tế lúc này thực dân
Pháp đang sa lầy vào cuộc chiến tranh Mehico vô cùng hao người tốn của, không
thể tiếp viện cho chiến trường Việt Nam. Nếu triều đình tận dụng cơ hội
này, có thể đánh bật hoàn toàn quân Pháp ra khỏi ba tỉnh miền Đông. Nhưng do hy
vọng mù quáng vào cuộc thương thuyết, triều đình đã đàn áp phong trào kháng
chiến của nhân dân miền Đông và cũng chẳng phòng bị gì cho ba tỉnh miền Tây. Vì
vậy, khi cuộc chiến Mehico vừa chấm dứt, quân Pháp tiến công luôn ba tỉnh miền
Tây (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) và chiếm được rất dễ dàng trước sự ngơ ngác
của vua quan ta (1867).
Mất Nam Kỳ là mất
“thiên phủ” (kho trời) vô cùng giàu có, làm cho đất nước suy yếu nhưng chưa
phải là mất hết hy vọng. Theo Phan Bội Châu: “Bấy giờ toàn hạt (Bắc Kỳ và Trung
Kỳ - ĐTT) 30 tỉnh chưa động đậy gì, binh tài sung túc, ví bằng người phụng mệnh
giảng hoà có can đảm, có cơ mưu, chỉ y theo điều ước trước cho thông thương và
cho giảng đạo, cương quyết tranh biện, thì cũng chưa đến nỗi mất hết”.
Thế nhưng suốt 7
năm sau khi mất Nam Kỳ, triều đình chẳng làm gì để củng cố đất nước. Bắc Kỳ vẫn
chịu cảnh đói kém và cảnh giặc giã liên miên bởi các toán thổ phỉ Cờ Vàng, Cờ Đen,
Cờ Trắng từ Trung Quốc tràn sang. Loay hoay không dẹp được ba toán giặc trên
nhưng triều đình vẫn tiếp tục đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa của nông
dân, vẫn gác bỏ ngoài tai các đề nghị cải cách của các sỹ phu tiến bộ.
Lợi dụng tình hình
đó, thực dân Pháp ráo riết tiến hành các hoạt động do thám và cài cắm các “con
ngựa thành Troa” trên đất Bắc. Tiêu biểu nhất là chúng khuyến khích tên lái
buôn Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) mượn cớ buôn bán để do thám và xây dựng lực
lượng dọc theo sông Hồng, suốt từ cửa Cấm lên Vân Nam (Trung Quốc). Dọc đường
sông, J. Dupuis tự tuyển mộ quân (bằng cách lôi kéo các thương nhân Hoa Kiều,
bọn thổ phỉ Tàu và một số người Công giáo), ngang ngược sách nhiễu nhân dân, xé
bố cáo của quan sở tại (bố cáo ngăn cấm người Tây Dương đi lại tuỳ tiện), có
khi bắt cả quan sở tại xuống thuyền giam lại.
Nhìn chung các viên
quan địa phương nơi bị J. Dupuis tuỳ tiện đi lại hoặc sách nhiễu luôn ở tình
trạng tiến thoái lưỡng nan. Không xử lý thì bị quở trách, xử lý cũng bị quở
trách là “không khéo léo”. Các chiếu chỉ của Tự Đức cũng chẳng bao giờ thể hiện
quan điểm rõ ràng, dứt khoát. Ví dụ, tháng 8-1973, khi J. Dupuis chở vũ khí và
hàng hoá lên Vân Nam, Nguyễn Tri Phương lệnh cho quan Bố chính Vũ Đường mời hắn
đến sứ quán nói chuyện. Dupuis lấy cớ “đi vắng”, giao cho Lý Ngọc Trì (một viên
quan của nhà Thanh) tiếp, nhưng Trì cũng cáo ốm. Vũ Đường đòi khám tàu, giữ lại
vũ khí, chỉ cho đem hàng hoá đi. Bọn quan lại nhà Thanh trên tàu vẫn không
nghe. Việc tâu về triều, Tự Đức quở trách Nguyễn Tri Phương là “khiêu khích
sinh sự”. Liền sai Binh bộ hữu Tham tri Phan Đình Bình ra Hà Nội giải quyết
việc của J. Dupuis. Tự Đức dặn Bình: “Thuyền của Phổ Nghĩa (J. Dupuis) sắp sửa
đến Vân Nam,
rất đáng lo. Nguyễn Tri Phương tuổi cao tính cố chấp, Bùi Thức Kiên gặp việc
hoảng hốt (...), ngươi đi chuyến này nên tuỳ cơ làm khéo, khiến cho hắn (J. Dupuis)
vui lòng nghe; phàm mọi việc để lỡ đều do Nguyễn Tri Phương yêu cầu khắt khe
nên mới đến thế. Trước đã lỡ việc, nay phải xử trí cho khéo” (Đại Nam thực lục).
Vì vậy đến cuối năm
1872, “con ngựa thành Troa” J. Dupuis đã trở thành một lực lượng quân sự khá lớn
gồm 2 tàu máy, 30 đại bác, 7000 súng tay, 15 tấn đạn và hơn 100 lính được vũ
trang đầy đủ. Chính lực lượng này là “tiền trạm” và hậu thuẫn cho Francis
Garnier tấn công thành Hà Nội và một số tỉnh Bắc Kỳ vào năm 1873.
II- HÀ THÀNH THẤT THỦ, NGUYỄN TRI PHƯƠNG TỬ
TIẾT
Phải nói rằng đế
quốc Pháp trong những năm 1870 – 1873 chưa có ý định mở rộng đánh chiếm lãnh
thổ Việt Nam.
Bởi vì họ vừa mới thua Phổ rất nặng nề[1].
Nhưng sự nóng lòng “thông thương” của J. Dupuis cộng với sự ươn hèn của triều
đình Nguyễn đã kích thích một số tên thực dân “diều hâu” ở Nam Kỳ muốn tiến
quân ra Bắc.
Đúng lúc ấy, nhân
việc triều đình Nguyễn nhờ giải quyết vụ J. Dupuis, Thống đốc Nam Kỳ Dupré cử
Thiếu tá (có tài liệu nói là đại uý) Francis Garnier (Gạc Nhe, Gạc Nhi hay An
Nghiệp) đem quân từ Sài Gòn ra Hà Nội và giao cho Garnier tuỳ ý quyết định
thiết lập chế độ bảo hộ hay thuộc địa ở Bắc Kỳ. Số quân từ Sài Gòn ra khoảng
200 tên (bao gồm cả lính thợ và lính nguỵ), 11 đại bác, hai tàu chiến, một tàu
đổ bộ.
Ngày 5-11-1873,
Garnier ra đến Hà Nội. Hắn không những không đả động gì đến “vụ Jean Dupuis” mà
còn ngang ngược tuyên bố quyền “mở mang thông thương” của nước Pháp. Thấy rõ âm
mưu của Garnier, Nguyễn Tri Phương, lúc này đang giữ chức tuyên sát đổng sức
đại thần (chức quan phụ trách quân sự toàn bộ Bắc Kỳ), gấp rút lo chuẩn bị
chiến đấu. Ông điều thêm quân các tỉnh về Hà Nội, ra lệnh cho quân Cờ Đen của
Lưu Vĩnh Phúc (lúc này đã về hàng ta) đóng phủ Hoài Đức (áp sát mạn tây bắc),
quân của Trương Quang Đản đóng Bắc Ninh (áp sát mạn đông bắc), sẵn sàng tiếp
ứng cho Hà Nội.
Chiều tối
19-11-1873, Garnier gửi tối hậu thư buộc Nguyễn Tri Phương giao thành. Mờ sáng
hôm sau, khi Nguyễn Tri Phương chưa kịp trả lời thì Garnier đã ra lệnh tấn
công.
Mặc dù đã chuẩn bị
nhưng Nguyễn Tri Phương cũng không ngờ Garnier tấn công nhanh như vậy. Quân
trong thành của ta có khoảng 6000 (có tài liệu nói 7000) nhưng trang bị kém, súng
bắn không đi được xa và ít khi trúng mục tiêu, quân sỹ lại không được luyện tập
nên khả năng tác chiến rất kém, lại lần đầu tiên nghe tiếng đại bác nổ thì
hoảng sợ. Quân của Garnier trái lại, tuy ít hơn hẳn nhưng dũng cảm[2] và
thiện chiến, có sự phối hợp giữa pháo binh và bộ binh. Ngoài đại bác từ ngoài
sông yểm trợ, Garnier cho kéo một số khẩu vào sát mục tiêu, bắn vỡ cửa Đông. Ban
đầu quân ta ở trên thành bắn xuống như mưa nhưng rất ít trúng. Những cây gỗ cắm
chông lại được chính quân Pháp dùng làm thang trèo vào thành.
Khi quân địch lọt
được vào trong thành thì quân ta vỡ trận nhanh chóng. Tất cả chỉ diễn ra chưa
đầy một giờ đồng hồ thì thành bị hạ. Quân ta hy sinh 80 người, bị thương 300
trong khi quân giặc cả chết và bị thương chỉ vài người. Nguyễn Tri Phương bị
thương và bị bắt. Ông tuyệt thực và qua đời ngày 20-12-1873 – đúng một tháng
sau ngày Hà thành thất thủ[3].
Sau khi quân Pháp
chiếm được Hà Nội, triều đình chẳng những không lo giữ các tỉnh thành lân cận,
lại cử người đi xin chuộc thành. Điều đó đã tạo điều kiện cho Garnier đánh
chiếm các tỉnh trung châu Bắc Kỳ khá dễ dàng. Lần lượt các tỉnh bị mất là: Hưng
Yên 23-11; Phủ Lý 26-11; Hải Dương 3-12; Ninh Bình 5-12, Nam Định 12-12.
Trong số trên chỉ có thành Hải Dương chiến đấu được lâu nhất – khoảng 2 giờ
đồng hồ. Thành Ninh Bình có hơn 1000 quân nhưng viên tuần phủ đã nộp thành cho
một toán quân Pháp chỉ có 9 người!
Cám cảnh trước cuộc
tan tác quá nhanh chóng này, Đốc học Nam Định Phạm Văn Nghị thốt lên:
Thương ôi, bảy mươi ba
năm[4] áo dày cơm nặng, xiết bao bể rộng non cao
Vừa một chớp nhoáng đất
rộng trời kinh, mới biết kẻ hư người khá
Trong bốn tỉnh biết bao
ông cả, há rằng không có chí can thành
Giữa ba mươi chưa hết
ba tuần[5], sao bỗng nỡ rời tay then khoá
Hay là vốn không chí
đánh, thét gào rằng gò rằng ụ, chỉ giơ súng sậy hò voi
Hay là vốn sẵn chước
hoà, lẩn quẩn xin cối xin chày, quen dắt bò vàng đón cửa.
Nhưng tấn tuồng mất nước chưa khép lại
ở đó. Đó mới là màn thứ ba sau màn mất ba tỉnh miền Đông (1862) và mất ba tỉnh
miền Tây (1867)
III- CHUYỆN “HẬU” HÀ
THÀNH THẤT THỦ: TRẬN CẦU GIẤY (I) – GARNIER BỊ GIẾT, QUÂN PHÁP RÚT KHỎI BẮC KỲ
Chiếm được Hà Nội và 6 tỉnh trung châu
Bắc Kỳ, nhưng với quân số ít ỏi lại bị rải ra quá rộng, quân Pháp chẳng mấy
chốc rơi ngay vào thế bất lợi.
Trong lúc Garnier đem quân đi đánh các
tỉnh thì Hoàng Tá Viêm và Lưu Vĩnh Phúc ở Sơn Tây, Trương Quang Đản ở Bắc Ninh
cũng cho quân áp sát Hà Nội. Ngày 19-12, phái đoàn thương thuyết của triều đình
do Trần Đình Túc cầm đầu đến Hà Nội và ngày 20-11 bắt đầu đàm phán với Garnier
thì cũng là lúc quân ta đã khép chặt vòng vây. Sáng 21-12, Lưu Vĩnh Phúc cho
quân khêu chiến, khiến Garnier bỏ cả cuộc họp để đem quân đuổi đánh. Garnier
hành quân đến Cầu Giấy, đi tắt xuống cánh đồng khô để nhanh đến phủ Hoài Đức,
không ngờ ruộng hãy còn ướt, khẩu đại bác bị thụt bánh. Loay hoay mãi không kéo
được lên, Garnier phải cho một toán quân ở lại tiếp tục kéo súng, còn mình dẫn
một toán khác tiến lên. Đúng lúc ấy, quân mai phục của ta đổ ra đánh. Đội hình
quân Pháp rối loạn. Quân Cờ Đen xông vào đánh sát lá cà. Garnier bị hàng chục
vết đâm chém rồi bị cắt đầu. Một toán quân khác do viên sỹ quan Balny chỉ huy
tiếp tục tiến về phủ Hoài cũng bị quân Cờ Đen phục kích. Balny cùng một số tên
Pháp bị giết tại trận, 4 tên bị cắt đầu. Hoàng Kế Viêm cho đem 4 cái đầu này
cùng với đầu của Garnier bêu khắp nơi khiến quân Pháp vô cùng khiếp sợ, mất hết
tinh thần chiến đấu.
Tuy thế, triều đình không nhân cơ hội
này mà phản công, lại bắt Hoàng Tá Viêm lui quân về Sơn Tây, bắt Lưu Vĩnh Phúc
lên đóng quân tận Tuyên Quang, đồng thời đưa Nguyễn Văn Tường đi theo Philastre
(Hoắc Đạo Sinh) ra Hà Nội thương thuyết.
Philastre là một tên thực dân cáo già.
Thấy rõ tình hình bất lợi cho quân Pháp nên bất chấp thái độ hiếu chiến của J.
Dupuis và Giám mục Puginier, ông ta bắt quân Pháp phải trả lại tất cả các thành
vừa chiếm và trục xuất J. Dupuis về nước.
Sau đó một hiệp ước đã được ký giữa Pháp
và triều đình Nguyễn, gọi là Hoà ước Giáp tuất (năm Giáp tuất, 15-3-1874). Theo
Hoà ước, triều đình chính thức nhượng toàn bộ Nam Kỳ cho Pháp; triều đình mở
cửa Thị Nại (Quy Nhơn), Ninh Hải (Hải Phòng), Hà Nội và sông Hồng cho người
Pháp vào buôn bán. Trong thế thua mà thực dân Pháp đạt được kết quả như trên là
điều chúng không mong đợi gì hơn. Phía triều đình, tuy được trả lại Hà Nội và
mấy tỉnh thành nhưng với việc chính thức nhượng toàn bộ Nam Kỳ, việc thừa nhận
quyền thông thương của Pháp ở nhiều nơi, việc cho phép người Pháp có đất nhượng
địa tại Hà Nội (có cả quân thường trú), một lần nữa triều đình lại nuôi thêm nhiều
“con ngựa thành Troa”. Chủ quyền còn lại trên đất Bắc Kỳ và Trung Kỳ càng trở
nên mong manh.
Và điều đến đã phải đến. Gần 10 năm
sau, khi sự chuẩn bị đã chín mùi, ngày 25-4-1882, Henri Rivie tấn công Hà Nội,
lần thứ hai Hà Nội lại thất thủ và sau đó các tỉnh miền Bắc lần lượt rơi vào
tay giặc. Ngày 18-8-1883, quân Pháp tấn công cửa biển Thuận An, cổ họng của
kinh thành Huế. Triều đình vội ký Điều ước Harmand (25-8-1883), chấp nhận quyền
“bảo hộ” của Pháp tại Bắc Kỳ và Trung Kỳ, tức là đầu hàng hoàn toàn. Chúng tôi
sẽ trở lại nói về màn cuối của tấn tuồng này vào dịp khác.
ĐTT
Xem bài liên quan của cùng một tác giả:
Tài liệu tham khảo chính:
1. Bùi Kha: Nguyễn Trường Tộ và vấn đề canh tân, NXB
Văn học, 2011
2. Dương Kinh Quốc:
Việt Nam
– Những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), Nxb Giáo dục, tái bản
2003.
3. Đinh Xuân Lâm
(Chủ biên): Đại Cương lịch sử Việt Nam, tập 2. Nxb Giáo dục Việt Nam, tái bản
2010.
4. Đinh Xuân Lâm,
Nguyễn Văn Khánh, Phạm Hồng Tung, Phạm Xanh: Lịch sử Việt Nam, tập 3. Nxb Giáo dục Việt Nam, 2012.
5. Nguyễn Lộ Trạch:
Thời vụ sách (Kế sách đối với thời cuộc, in trong Văn xuôi tự sự Việt Nam
thời Trung đại, tập 2), NXB Giáo dục, 2001.
6. Nguyễn Trường
Tộ: Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp, in trong Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung
đại, tập 2), NXB Giáo dục, 2001.
7. Nguyễn Văn Nam: Lịch
sử Việt Nam,
NXB Thời đại, 2010.
8. Phan Bội Châu: Việt
Nam
vong quốc sử (in trong Phan Bội Châu toàn tập, tập 2). Nxb Đà Nẵng, 2001.
9. Phạm Xuân Hằng –
Phan Phương Thảo: Biên niên lịch sử Thăg
Long – Hà Nội, NXB Hà Nội, 2010.
10. Quốc sử quán
triều Nguyễn: Đại Nam
thực lục (tập 7). Nxb Giáo dục, 2007.
11. Trần Huy Liệu
(Chủ biên): Lịch sử thành phố Hà Nội. Nxb Hà Nội, tái bản 2000.
12. Trần Trọng Kim:
Việt Nam
sử lược, NXB Đà Nẵng, tái bản 2003.
13. Vũ Ngọc Phan: Những
trận đánh Pháp (1858 – 1884) (in trong Vũ Ngọc Phan tác phẩm, tập 2),
Nxb Hội Nhà văn, 2000.
14. Vương Chính
Bình, Lầu Quân Tín, Tôn Nhân Tông (chủ biên): Bộ thông sử thế giới vạn năm, tập 2A. Trần Đăng Thao, Nguyễn Văn
Ánh dịch. Nxb Văn hóa - thông tin, 2000.
15. Yosiharu
Tsuboi: Nước Đại Nam
đối diện với Pháp và Trung Hoa (1847 – 1885). Nguyễn Đình Đầu dịch, Nxb Tri
thức, 2011.
16. Tinh tuyển văn học Việt Nam: Văn học thế kỷ XIX (Hoàng
Hữu Yên tuyển chọn và giới thiệu), NXB Khoa học xã hội, 2004.
[2] Ví
dụ tinh thần của Garnier đêm trước cuộc tấn công Hà Nội. Dù nắm chắc phần thắng
nhưng Garnier cũng sẵn sàng chết. Đêm 19-11-1873, Garnier viết thư cho người
anh ở Pháp. Thư có đoạn: “Ngày mai, hồi tang tảng sáng, tôi sẽ cùng 180 người
đánh thành Hà Nội, trong đó có đến 7000 quân. Nếu anh nhận được thư này mà
không thấy tôi ký tên, không thấy tôi viết thêm câu nào ở dưới, tức là tôi đã
chết hay bị thương nặng rồi”. Garnier đưa thư cho viên hạ sỹ ở lại trông pháo
thuyền, dặn rằng nếu mai hắn chết thì niêm phong lại và gửi, còn nếu hắn sống,
hắn sẽ viết thêm rồi mới gửi.
[3] Con ông – Phò mã Nguyễn Lâm, từ quê
ra thăm cha, cũng nhập luôn vào cuộc chiến đấu giữ thành và hy sinh. Em ông là
Nguyễn Duy hy sinh trong trận Chí Hoà năm 1862.
[4] Tính
từ khi Gia Long chiếm lại Phú Xuân (1801) đến năm Tự Đức thứ 26 (1873).
[5] Chưa
đầy một tháng Pháp lấy được Hà Nội, Hải Dương, Ninh Bình, Nam
Định
Được đăng bởi Tễu vào lúc 10:44
nguồn:http://xuandienhannom.blogspot.com/2013/11/nhan-ky-niem-140-nam-ngay-ha-thanh-that.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001