Thêm một đoạn kết vào bài viết về sách Việt kiệu thư
Nguyễn Huệ Chi
Sau khi bài viết Sách “Việt kiệu thư” trong con mắt giới sử học đương đại của tôi đăng trên tạp chí Diễn đàn (xem tại đây), và trên BVN (xem tại đây),
trong số bạn bè quen biết phản hồi bằng thư riêng, có TS Vũ Quang Việt
vẫn còn đôi điều áy náy và nhắc nhở tôi nên cố gắng đối chiếu kỹ hơn để
làm rõ thêm vì sao giữa Minh thái Tông thực lục và Việt kiệu thư lại có những ghi chép trái ngược nhau về cùng một sự kiện, như lệnh chỉ của Minh Thành Tổ bắt tiêu hủy (Việt kiệu thư) hay giữ lại (Minh thái Tông thực lục) sách vở của người Việt khi quân Minh tràn vào càn quét An Nam, mặc dù việc đốt phá chắc chắn có xảy ra.
Đề
nghị ấy rất đúng đắn song cũng gần như một thách đố đối với tôi, buộc
tôi phải rà soát lại toàn bộ những tìm kiếm của mình. Rốt cuộc hai đạo
sắc mà Vũ Quang Việt băn khoăn đúng là “mắt xích” khiến cả chuỗi luận
điểm tôi giải trình về cuốn sách của Lý Văn Phượng chưa thật gỡ ra hoàn
toàn. Tôi bèn mở đạo sắc mà học giả Hồ Bạch Thảo đã dịch trong Minh Thái Tông thực lục ra xem xét kỹ lại, chợt nhận thấy một vài điều lý thú có thể là chìa khóa cho mọi mắc mớ còn vướng.
Nhận xét thứ nhất là có một sơ suất trong lời dịch của ông Hồ Bạch Thảo. Nguyên văn: “Sư nhập An Nam hạ quận ấp...
師入安南下郡邑”, nghĩa: “Quân lính vào An Nam đi xuống các quận ấp...”. Mấy
chữ “đi xuống các quận ấp” đã bị ông Hồ Bạch Thảo bỏ qua. Có thể do sơ ý
hoặc không cho là quan trọng mà ông bỏ qua thôi, nhưng ở đây, mấy chữ
này lại làm cho hai văn bản giữa Minh Thái Tông thực lục và Việt kiệu thư xích gần nhau thêm một bước, vì lẽ, lệnh chỉ “thu thập được bản đồ quận ấp” 郡邑圖誌ở Việt kiệu thư và lệnh chỉ “đi xuống các quận ấp... thu thập được bản đồ” ở Minh Thái Tông thực lục thì chung quy cũng chỉ là một lệnh. Tôi linh cảm đó là một “chìa khóa” đầu tiên để mình lần tìm thêm.
Tôi lại đọc lại đạo sắc trong Minh Thái tông thực lục thêm một lần nữa và bỗng để ý đến hai chữ có vẻ đáng ngờ: hai chữ văn tịch文
籍. Ông Hồ Bạch Thảo dịch “văn tịch” là “thư tịch”, nghĩa là sách vở nói
chung: “Quân vào An Nam, phàm tịch thu được thư tịch, bản đồ, đều không
được hủy” (Sư nhập An Nam hạ quận ấp phàm đắc văn tịch đồ chí giai bất hủy師
入安南下郡邑凡得文籍圖志皆勿毁). Lời dịch sáng rõ, có lẽ ít người có cách hiểu khác.
Song điều đáng đặt dấu hỏi là: Sao lệnh chỉ của vua Minh dùng hai chữ
“văn tịch” mà không dùng “thư tịch” là từ vốn rất thường dùng? Tra tìm
trong Từ nguyên và Từ hải, bộ cũ cũng như bộ mới thì đều
không có từ này. Chứng tỏ “văn tịch” không phải là một từ song âm tiết
trong từ ngữ Hán cổ. Vậy đó chỉ có thể là từ ghép đẳng lập gồm hai từ
song âm tiết hợp lại, và theo quy luật của ngôn ngữ thì mỗi một thành tố
ghép vào đều có những bộ phận bị tỉnh lược đi.
Vì
không sẵn các bộ từ điển khác trong tay, học giả An Chi đã giúp tôi tra
thêm trong ba bộ từ điển mà ông có thì tìm ra đúng từ “văn tịch” thật,
nhưng rất tiếc đấy cũng chỉ là những cuốn từ điển phổ thông nên cách
giải nghĩa vẫn chung chung không khác gì lời dịch của ông Hồ Bạch Thảo:
1. Vương Vân Ngũ đại từ điển王云五大辭典 (1937): “văn tịch” là “đồ thư” 圖書 tức tranh, bản đồ và sách vở; 2. Mathews’ Chinese English Dictionary (1931): “văn tịch” là “books, documents” tức tài liệu, sách vở; 3. Hiện đại Hán ngữ từ điển现代汉语词典của Lý Quốc Viêm李国炎 (1956): “văn tịch” là “văn chương điển tịch, phiếm chỉ đồ thư”文章典籍,泛指图书 tức văn chương và điển tịch, chỉ chung tranh, bản đồ và sách vở(*).
Tôi
biết những cách hiểu này đều chưa thỏa đáng vì chưa xuất phát từ phương
thức cấu tạo gốc của từ “văn tịch”. Còn cần phải tìm tiếp ở những bộ từ
điển chuyên sâu mới có được hàm nghĩa đầy đủ hơn. Sau cùng, tìm vào hai
bộ Hán ngữ đại từ điển漢語大辭典 (hydcd.com) và Hán điển漢 典
(zdic.net) trên mạng, là hai bộ sách đồ sộ bậc nhất, tổng hợp nhiều bộ
từ điển từng có trước nay, tôi đã thỏa mãn điều mình cần tìm. Cả hai bộ
đại từ điển cho tôi lời giải chi tiết và hoàn toàn thống nhất về nghĩa
từ ghép “văn tịch”, có dùng các câu văn cổ làm dẫn chứng, với ba cách
lắp ghép khác nhau: 1. “Văn tịch” được ghép bởi “Văn tự thư tịch” 文字书籍, có nghĩa là sách vở văn tự; 2. “Văn tịch” được ghép bởi“Văn chương điển tịch” 文章典籍, có nghĩa là các loại sách văn chương và hiến chương, pháp điển; 3. “Văn tịch” được ghép bởi“Văn bạ trướng sách” 文簿帐册 nhưng thay đổi chữ “sách” sang “tịch” để khói nhầm với “văn sách”. “Văn bạ trướng sách” là gì? Cả Hán ngữ đại từ điển và Hán điển đều giải thích y hệt nhau: “Văn bạ” là “văn sách bạ tịch” 文册簿籍, tức sổ ghi chép công văn, hộ khẩu; còn “trướng sách” tức “trướng bạ” 帐簿,là “ký tái ngân tiền hóa vật xuất nhập đích bạ sách”
记载银钱货物出入的簿册, tức sổ sách ghi chép việc xuất nhập tiền bạc của cải ở các
kho. Kết quả tìm thấy thực không còn gì đáng phấn khởi hơn: hai chữ
“văn tịch” đi liền với “đồ chí” trong đạo sắc chép ở Minh Thái Tông thực lục rõ ràng phải hiểu theo nghĩa thứ ba của Hán ngữ đại từ điển và Hán điển thì
mới đúng ngữ cảnh của nó. Và như thế, “cái khóa” hóc nhất đến đây đã
được mở hoàn toàn. Đạo sắc ban bố ngày 2 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc
thứ 4 (1406) trong Minh Thái Tông thực lục rốt cuộc phải dịch như sau đây mới chính xác: “Sắc
dụ quan Tổng binh chinh thảo An Nam Thành quốc công Chu Năng: “Quân vào
An Nam, đi xuống các quận ấp, phàm tịch thu được sổ sách biên chép công
văn, hộ khẩu, sổ sách biên chép của cải tiền bạc xuất nhập ở các kho,
và bản đồ, thì đều không được tiêu hủy”.
Thế đấy. Giải mã cho cặn kẽ, thì hai đạo sắc có vẻ ngược nghĩa trong Minh Thái tông thực lục và trong Việt kiệu thư
cũng lại là ... “một đồng một cốt”. Nói chính xác hơn, những thứ mà
Minh Thành Tổ ra lệnh không được hủy chung quy vẫn là sổ ghi chép của
cải trong các kho tàng, sổ hộ khẩu và bản đồ các quận ấp. Còn văn
chương, văn hóa thì đốt tuốt.
Đủ thấy, người
Tàu rất thâm về chữ nghĩa, nếu mình cạn hiểu và dịch vội nhất định mắc
lỡm họ và trở thành thầy cãi không công cho những âm mưu nham hiểm của
họ ngay.
Thảo nào mà ông Phó nghiên cứu viên
Trần Văn ở Trường Đại học Kỵ Nam như tôi đã dẫn, trong khi không ngớt
lời khen Minh Thành Tổ có công với văn hóa An Nam cũng không dám dùng
đến đạo sắc trong Minh Thái Tông thực lục để bác bỏ hai đạo sắc hạ lệnh đốt phá sách vở bi ký của An Nam ghi trong Việt kiệu thư. Ông ta đã tra cứu để biết rõ cái nghĩa “thâm thúy” của hai chữ “văn tịch”.
Tôi
mới thấy việc đào tạo một đội ngũ tinh thông chữ Hán cổ của chúng ta là
cực kỳ quan trọng. Mặt khác dù có tinh thông đến đâu đi nữa, vẫn không
ai có thể nói mạnh trong việc đọc thứ chữ nhiều “bẫy” khi đi vào kho
sách vở rậm rịt của người láng giềng phương Bắc để tìm kiếm mối liên
quan với văn hóa, chính trị lâu đời của nước ta. Làm được như học giả Hồ
Bạch Thảo đã là một đóng góp rất đáng khích lệ.
28-10-2013
N.H.C.
(*) Người viết xin có lời cám ơn học giả An Chi.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 02:22
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/them-mot-oan-ket-vao-bai-viet-ve-sach.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001