Võ Thu Tịnh - Tiếng cười của dân Việt
at 11/10/2013 05:44:00 PM
Võ Thu Tịnh -
Rabelais, một văn hào Pháp, đã từng cho rằng
"Cười là đặc tính của con người". (1) Loài người khác với loài vật ở
chỗ loài người cười mà loài vật không biết cười. Trên thế gian nầy, không có
dân nước nào là không biết cười. Nhưng ở mỗi dân tộc, cái cười lại còn tùy thuộc vào văn hóa và hoàn cảnh lịch sử
của dân tộc ấy.
Nhìn chung, tiếng cười của dân ta thể hiện qua
ba phương diện : Cười để biểu hiện một sắc thái tâm lý, cười để giải tỏa ẩn ức
sinh lý, cười để tác dụng xã hội.
Những tiếng cười ấy không phải chỉ được nhận
thấy trong cuộc sống bình thường mà còn qua những sáng tác thơ văn, chuyện kể
dân gian và bác học.
Tiếng cười ở cuộc sống bình thường
Các tự điển Pháp ngữ như Larousse, Le Robert định nghĩa chữ "rire" (cười) là bày tỏ niềm vui hay chê bai, bằng một cử động của miệng, kèm theo những hơi thở ra đứt đoạn, ít nhiều ồn ào."
Từ xưa, cuộc
sống của dân gian ta vốn lao lực khó nhọc suốt tháng quanh năm. Cho nên,
gặp được những lúc ngừng tay, nghỉ việc, hoặc những ngày vì thời tiết mà không
ra đồng canh tác được, họ thường tập họp nhau lại để kể cho nhau những chuyện
vui cười gọi là "tiếu lâm" (lâm: nhiều; tiếu: cười) để xả hơi, cho
quên bớt mỏi mệt, hay để giải trí cho vui cửa, vui nhà giữa thân thuộc, bạn bè.
Đó là một nhu cầu như bất cứ nhu cầu nào khác, một giải trí không tốn kém gì,
đồng thời còn là một niềm an ủi cho cuộc sống lam lũ mệt nhọc của dân quê nữa.
Cuộc đời của họ nào có gì đâu, nếu không phải
là những mối tình thơ ngây giữa trai gái gặp gỡ hát hò trong những lúc canh tác
chung, ở những hội hè trong làng xóm, hay những buổi kể chuyện vui cười giải
trí giữa bà con, láng giềng, cùng những lúc nghỉ việc rảnh tay ngoài đồng mà
thôi!
Những câu chuyện tiếu lâm phần lớn còn nhằm giải tỏa ẩn ức dục tình. Và hình như đó
là một hiện tượng thường xảy ra trong hầu hết các sắc dân
trên thế giới. Dân Việt không thể tự phụ những câu chuyện của mình về loại nầy kỳ thú hơn những câu chuyện của các dân tộc khác. Chúng ta chỉ có thể ghi nhận rằng sự ẩn ức dục tình, vì bị kiềm chế lâu đời suốt bao nhiêu thế kỷ trong lễ tục khắc nghiệt của Nho giáo,
nên đã bùng nổ tràn đầy trong kho tàng chuyện tiếu lâm của dân ta mà thôi.
Đại
Nam quốc âm tự vị của Huình
Tịnh Của (1895) cũng định nghĩa "cười là để tỏ niềm vui, hay chê
bai" như ở các tự điển Pháp, nhưng còn thêm "cười để có ý gì." Có lẽ vì "các ý gì"
ấy mà Từ điển tiếng Việt (1991) gần đây, đã ghi thêm 47 chữ "cười", mỗi chữ ghép với một trạng-từ (adverbe) hay túc-từ
(complément) để trình bày cái dụng hay nguyên nhân của tiếng cười.
Chẳng hạn như: Vui một cách hồn nhiên thì cười
rộ, cười ha hả, cười hì hì, không bằng
lòng thì cười nhạt, hờn dỗi thì cười mát, hằn học thì cười gằn, che dấu ngượng
nghịu thì cười gượng, khinh miệt thì cười khà, mỉa mai thì cười khẩy, tự ép
uổng để làm vừa lòng kẻ khác thì cười ruồi, xí xóa một lỗi lầm thì cười trừ,
chê bai trong lòng thì cười thầm, cười một cách vô duyên là cười nham nhở, vân
vân ...
Có thể nói dân Việt ta ở trường hợp nào cũng
có thể ứng đáp bằng một tiếng cười. Chỉ
có dân Việt mới nhận được những khía cạnh tinh tế của mỗi tiếng cười, cũng như
phân biệt được nghĩa của tiếng Việt qua các dấu thanh (sắc, huyền, hỏi ngã,
nặng) mà lỗ tai Tây phương khó nhận ra được, nên thường có trường hợp họ bị
phật lòng vì ngộ nhận về tiếng cười của người Việt chúng ta.
Nguyễn Văn Vĩnh trong bài "Xét tật
mình" đăng ở Đông Dương tạp chí, số 6, năm 1913, đã chê: "Dân An Nam
ta có một thói là gì cũng cười. Người ta
khen cũng cười, người ta chê cũng cười. Hay cũng hì, mà dở cũng hì, phải cũng
hì, quấy cũng hì. Nhăn răng hì một tiếng, mọi việc hết nghiêm trang."
Vì sao dân ta có thói « gì cũng
cười » như thế? Phải chăng vì tiếng
cười lệ thuộc vào sắc thái văn hóa, cũng như vào hoàn cảnh lịch sử của dân Việt
chúng ta. Suốt bao nhiêu thế kỷ dưới các thời đô hộ, dân ta bị ngoại bang đàn
áp một cách tàn bạo, bị quan lại, cường hào trong nước ức hiếp, tù đày, nếu gặp
phải những trường hợp ứng xử gay cấn, khó khăn, một câu trả lời sơ suất có thể
bị nguy hại, có khi còn bị thiệt mạng nữa là khác. Cho nên thay vì dùng lời nói để đối đáp, thì dân ta thường
chỉ buông ra một tiếng cười, để che đậy mọi tình ý thầm kín của mình, khiến cho
đối phương không thể vin vào đâu để bắt bẻ, buộc tội được.
Vạ ở miệng ra, bệnh qua miệng vào...
Thứ nhất là tội miệng mà...
Khôn
thì ngậm miệng, khoẻ thì cắp tay.
Bọn đô hộ ngoại bang, cùng các tay sai của
chúng rất ghét lối ngậm miệng, dùng tiếng cười để che đậy những gì mà người dân
bị áp bức đã nghĩ về họ, và cho đó là một "tật xấu," là giả dối,
"làm cho mọi việc hết nghiêm trang," có thể tổn thương đến uy quyền
của chúng.
Lê Văn
Siêu đã phân trần: "Làm thế nào khác
hơn được? khi một dân tộc bị sống
trong hoàn cảnh đe dọa diệt tộc thường xuyên, bởi một kẻ mạnh gấp trăm ngàn lần
mình, ở ngay bên nách mình, nếu chẳng nghĩ tha thiết đến sự sống còn, đến con
cái nối nghiệp, thì chỉ sơ sẩy để đầu óc viễn vông một chút thôi, cũng đủ mất
tích vào trong bản đồ của địch thủ. » (2)
Trước một vấn đề không biết trả lời thế nào,
mà cũng không thể làm thinh được, thì dân Việt ta ngày xưa chỉ dùng cái cười để
"ứng đáp". Làm thinh và tiếng cười, cả hai đều làm đối phương phật
ý. Nhưng làm thinh thì có thể bị coi như
là có ý chống đối, còn cười thì đối phương không hiểu được ta muốn gì, nên rất
bực tức và qui tội dân ta là "vô
lễ" vì làm cho "mọi việc hết
nghiêm trang."
Tóm lại, ứng đáp bằng tiếng cười ở những
trường hợp gay cấn, khó khăn như thế là một cái khôn riêng của dân ta. Đó là
một đặc tính hằng hữu của nền văn hóa Lạc Việt đã giúp nòi giống chúng ta còn sống sót cho đến ngày nay. (3)
Nhưng dùng tiếng cười để khỏi trả lời, để kín
đáo che đậy một sắc thái tâm lý, theo thời gian dần dần trở thành một thói
quen, một tập tục, mà không khỏi có nhiều người lạm dụng bừa bãi, nên Nguyễn
Văn Vĩnh mới có thể vin vào đấy mà chê
trách như trên được.
Tiếng cười qua thơ văn và truyện kể
Dân
Việt không phải chỉ dùng tiếng cười để mua vui, để thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi,
giải trí, để được an ủi, để tránh không ứng đáp trước những trường hợp khó
khăn, nguy hiểm, mà họ còn dùng tiếng cười qua các thơ văn trào phúng hay những chuyện
vui cười do họ sáng tác hay hư cấu ra, để chỉ trích, châm biếm, đả phá uy
tín của những bạng người lố lăng, xu thời, phản quốc, bóc lột áp bức họ.
Theo Henri Bergson, cười còn là một "phương tiện trừng phạt," trước hết để
sửa trị, (sau đó) dùng để hạ nhục. Qua tiếng cười, xã hội trả thù những hỗn xược mà người ta đã làm cho
mình [...] Đối với những hỗn xược ấy, xã hội đáp lại bằng tiếng cười là một hỗn
xược còn bội phần mãnh liệt hơn. (4)
Một cách thông thường, tiếng cười thuộc về hài
kịch, tiếng khóc thuộc về bi kịch. Ở bi
kịch, hướng quan sát "đi sâu vào cá tính," vào nội tâm của nhân vật,
từ đó đi sâu vào ý nghĩa cuộc đời.
Còn hài
kịch chỉ dùng trí tuệ để hướng quan sát nhằm vào bên ngoài, vào các đặc tính
chung của từng hạng người trong xã hội, và những hiện tượng xã hội, chớ không
nhằm vào các phạm trù siêu hình. Như vậy, hướng quan sát ở hí kịch chú trọng
vào tổng thể (généralité), chớ không nhằm vào bản thân, vào cá tính người được
quan sát.
Đi
sâu vào cá tính sẽ làm trì hoãn hiệu lực của hí kịch, vì lẽ phần sâu kín bên trong có thể cản ngăn sự
phát sinh ra tiếng cười. Muốn chọc cười thi phải hạn chế sự quan sát, để chỉ
nhìn vào phạm trù trung bình của tâm hồn
mà thôi. Đi sâu hơn nữa vào "bên trong" đối tượng, hí kịch sẽ hóa
thành bi kịch, tiếng cười hóa ra tiếng khóc.
Nhân
vật trong các màn hí kịch trước hết là người đang đối thoại với ta. Câu khôi
hài chọc cười là những câu trả lời trực tiếp cho một trong những người cùng
hạng. Có thể đương sự vắng mặt, nhưng đối thoại với một người vắng mặt ở đây,
là coi như người ấy đã nói, nên tác giả mới trả lời. Phần nhiều là trả lời
chung cho cả một hạng người hay cho tất cả mọi người, bằng cách dẫn ra một lời
nói thông thường, một dư luận, một lễ tục, một thành kiến, một câu thơ văn có
sẵn, để lật ngược lại mà chế diễu, chọc
cười.
Chẳng hạn như ở một màn khôi hài trong đoạn
"Thúc Sinh gặp lại Kiều bị bán vào nhà Hoạn Thư" trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, độc
giả có thể nhận thấy "ranh giới
giữa tiếng cười và tiếng khóc thật mong manh," như Beaumarchais đã từng
cảnh giác: (5)
Trong lúc Thúc Sinh đi vắng, Hoạn Thư
cho người đến đốt nhà, bắt cóc Kiều, đem một xác chết vô chủ ném vào lửa, rồi
đem Kiều về cho Hoạn Thư làm nô tỳ. Thúc Sinh tưởng Kiều đã chết thật, buồn rầu
quay về nhà vợ cả là Hoạn Thư. Thúc Sinh
vừa bước vào nhà, Hoạn Thư bảo Kiều ra chào. Thúc Sinh và Kiều biết ngay là bị
mắc mưu Hoạn Thư nhưng kẹt ở cương vị chủ và tôi đòi, nên không dám nhìn nhau.
Thúc Sinh xúc động khóc. Hoạn Thư hỏi mới đi về, vì sao mà khóc?
Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc Dĩ , đau lòng chung thiên (6).
Khen rằng: Hiếu tử đã nên! (câu 1831-1862)
Khóc vì gái, mà nói dối là khóc vì thương nhớ
mẹ đã qua đời. Qua lời chế diễu, mỉa mai của Hoạn Thư về "đạo lý trong chữ
hiếu," cái bi kịch nơi lòng Thúc Sinh đã chuyển thành một màn hài kịch đối
với người đọc, khi hướng quan sát nhằm vào một đặc tính chung của "hạng
người sợ vợ": vì quá sợ (vợ) nên đem cái chết thiêng liêng của mẹ mình ra
"đỡ đòn" cho một cô gái giang hồ. Ngày xưa, chúng tôi đã từng thấy
các cụ, khi đọc đến mấy câu nầy, liền vỗ đùi, phá lên cười ... nhưng tiếng cười
bỗng nghẹn lại, khi các cụ đọc tiếp đến các câu đi sâu vào tâm tình của chàng
Thúc hay của nàng Kiều:
... Sinh càng như dại, như ngây,
Giọt dài giọt ngắn, chén đầy, chén vơi.
Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười,
Cáo say, chàng đã tính bài rút lui. (câu
1839-1842)
... Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm! (1853-56)
Cũng như khi Trần Tế Xương mượn lời chúc năm
mới:
Bắt
chước ai ta chúc mấy lời,
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn thuở
Sao được cho ra cái giống người!
Hoặc: ...
Nào có ra chi lũ hát tuồng,
Cũng hò, cũng hét, cũng y uông!
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn!
Tác giả không đi sâu tâm tình một cá nhân nào,
mà nhằm vào tổng thể nhân dân để mượn
mấy lời "chúc năm mới", ngụ ý cười chê rằng trong xã hội đương thời
chằng có ai cho ra người cả! (Vậy thì ra giống gì?) Hoặc dùng "phường
chèo" mà cười chê bọn vua quan tay sai của thực dân, trơ bộ mặt bôi vôi
"vô liêm sỉ," không lừa dối được ai. (Tiếng cười nơi đây nghe ra
chẳng khác gì một tiếng chưởi, một tiếng mắng để cảnh cáo người và đồng thời,
để nói lên nỗi bực tức của mình).
Đề tài "phường chèo" nầy cũng được
Nguyễn Khuyến dùng để cười chê xỉ vả
triều đình bù nhìn một cách hóm hỉnh hơn:
Xưa bên Đông có phường chèo trọ,
Đang nửa đêm với vợ chuyện trò:
"Rằng
ta thường làm quan to,
"Sao
người coi chẳng ra trò trống chi?"
Vợ giận lắm
mắng đi, mắng lại:
"Tuổi đã
già sao dại như di? (như mọi rợ)
"Nửa
đêm ai chẳng biết chi,
"Người
ta biết đến, thiếp thì hổ thay!
"Ở đời chỉ có hai điều sợ:
"Sống
chết người quyền ở trong tay,
"Thế mà
chàng đã chẳng hay,
"Còn ai
sợ đến thứ nầy nữa chăng?
"Vả chàng
cũng lằng nhằng túng kiết,
"Cuộc
sinh nhai chèo hát qua thì.
"Vua
chèo còn chẳng ra gì,
"Quan
chèo bôi nhọ khác chi thằng hề!"
Tiếng cười chê
"nhẹ như bấc mà nặng như chì," như búa tạ giáng xuống uy quyền của
hàng vua quan tay sai của thực dân!
Dân gian ta còn hư
cấu nhiều truyện hài hước rất nổi tiếng mà nhân vật chính đại biểu cho
một hạng người nào đó trong xã hội, để dùng tiếng cười mà chế diễu, sửa trị,
Chẳng hạn như ở các
truyện:
-Trạng Ếch, Trạng Lợn: cười hạng người
không học hành gì nhưng gặp thời may mà nên danh phận, nhờ vận đỏ, nhờ những
tình cờ mà dùng được văn chương, dịch lý làm cho vua Tàu phải thán phục, ban
cho học vị "lưỡng quốc trạng nguyên".
-Trạng Quỳnh: hạng Nho sĩ có tài, chuyên
trêu ghẹo, miệt thị vua quan, chế diễu uy quyền
sứ Trung-hoa.
-Ba Giai, Tú Xuất: cười các nhân vật phản
diện của Nho gia, chuyên lừa bịp, phá phách xóm làng.
-Xuân tóc đỏ (trong Số Đỏ của Nguyễn
Trọng Phụng): cười hạng người xu thời, dùng mánh khoé lừa bịp mà làm giàu, được
nổi danh thi sĩ, rồi được liệt vào hàng anh hùng cứu quốc.
-Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh: chế diễu hạng
lý hương hủ lậu, ngờ nghệch, vân vân...
Mặt khác, chủ đích của cái cười là chế diễu và "sửa đổi", do đó cũng cần làm sao
cho hiệu lực của cái cười bao gồm càng nhiều đối tượng, càng có nhiều
"tiếng dội" (écho, dùng lại một từ của Henri Bergson trong Le rire) vang rộng trong xã hội, phổ
biến khắp nơi trong quần chúng.
Những tiếng cười,
cũng như những bức hí họa, là những sáng tạo nghệ thuật nhằm giải trí một cách
vô tư, đem lại sự vui vẻ thoải mái cho con người, song tiếng cười (hí kịch) lại
không giống các môn nghệ thuật khác, là
có hậu ý chế diễu để sửa đổi hoặc trừng trị con người trong xã hội, cho nên hài
hước ở đây là một loại nghệ thuật phần nào thiên về nhân sinh, tức là đứng giữa
nghệ thuật thuần túy và đời sống xã hội
và thường xuyên biến đổi theo những xung
động của xã hội.
Nhìn chung, tiếng
cười trong chính nghĩa không phải chỉ là khí giới của kẻ yếu để đương đầu với
đối phương lớn mạnh hơn mình, mà còn là một trợ lực, một vũ khí văn hóa có khi
mạnh hơn mọi sức mạnh vật chất.
Tiếng cười buồn dí dỏm
Nhà văn trào phúng
phần nhiều chỉ thấy những lố lăng trong người khác xung quanh mình, chớ ít khi
tìm ra được những lố lăng trong chính con người của họ. Vì chúng ta thường
không chịu thoát ra khỏi ý thức của bản thân, để đứng vào địa vị khách quan mà
quay lại nhìn mình. Nhưng khi kẻ bị cười không phải là một tha nhân, mà lại là
chính tác giả tự cười mình, thì tiếng cười lại có tính cách dí dỏm, mà đặc điểm
là bi, hài lẫn lộn theo cấu trúc thông thường của tiến trình sân khấu kịch
trường. Tiếng cười dí dỏm của dân Việt không giống tiếng cười của các dân tộc
khác ở chỗ đã hướng nhiều vào chính mình, tức là tự trào, tự cười mình. Tiếng
cười tự trào ấy nhẹ nhàng, mà mỉa mai châm chọc, ngụ ý vừa tự phê phán, vừa tự
biện minh chữa thẹn hoặc tự hào.
Trong con người trí tuệ của nhà văn hài hước dí
dỏm, có một phần nhà thơ, với ít nhiều tình cảm không kém đậm đà.
Có thể nói tiếng
cười dí dỏm xuất hiện như những màn hí kịch, một cách kín đáo, với một thoáng
buồn phớt qua, đến nỗi khi khán giả vừa nhận diện được thì màn kịch cũng vừa hạ
xuống.
Một số tác giả vào
buổi giao thời ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã dùng thơ văn để tự cười
mình. Trong bài Tự trào, Nguyễn Khuyến có mấy câu:
Cũng chẳng
giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy,
chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở
cuộc, không còn nước,
Bạc chửa thâu
canh, đã chạy làng.
Mở miệng nói
ra, gàn bát sách,
Mềm môi chén
mãi, tít cung thang.
Nghĩ mình lại
gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia
xanh, cũng bảng vàng.
Câu 3, 4 ngụ ý về
quốc sự: Đánh nhau với quân Pháp đang dở dang (dở cuộc, chửa thâu canh) mà đã
bị lâm vào thế bí, chịu đầu hàng (không còn nước, đã chạy làng). Câu 5, 6 chỉ về tác giả: Suốt ngày chỉ ăn nói gàn
dở, rượu chè say sưa (mấy chữ "bát
sách", "thang" là tên của 2 con bài tổ tôm; một tiểu xảo để chọc
cười). Hai câu chót, tác giả tự cười mình không xứng với học vị tam nguyên, tên
ghi bảng vàng bia đá. Tiếng cười ở đây dí dỏm, mà phảng phất tâm sự buồn tủi
của một hiển Nho, một đại thần, về cái bất lực của mình trước nạn nước mất, nhà
tan:
Sách
vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ
lại thẹn thân già!...
... Ơn vua
chưa chút đền công
Cúi trông
thẹn đất, ngẩng trông thẹn trời !
Về sau, Trần Tế
Xương đã tự cười về thân phận của mình như thế:
Ở phố
hàng Nâu có phổng sành,
Mặt thì lơ
láo, mắt thì nhanh.
Vuốt râu nịnh
vợ : "Con bu nó",
Quắc mắt khinh
đời : "Cái bộ anh!"
Bài bạc kiệu
cờ, cao nhất xứ,
Rượu chè,
trai gái, đủ tam khoanh.
Thế mà vẫn
nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc rong
chơi chẳng học hành.
Sau tiếng cười dí
dỏm, xuyên qua các cảnh nịnh vợ (vì ăn nhờ vào vợ), bài bạc rượu chè, trai gái,
biếng nhác, thoáng hiện một cái buồn của một hàn nho mạt vận, "vợ lăm le ở
vú, con tấp tểnh đi bồi" ở buổi giao thời.
Tản Đà cũng tự cười trong một bài "Tự Trào
" khác:
Vùng
đất Sơn Tây nẩy một ông,
Tuổi chửa bao
nhiêu văn rất hùng.
Sông Đà, núi
Tản ai hun đúc?
Bút Thánh,
câu Thần sớm vải vung.
Chữ chữ nôm
nôm, nào kém cạnh,
Khuyên khuyên
điểm điểm, có hay không?
Bởi ông hay
quá, ông không đỗ,
Không đỗ ông
càng tốt bộ ngông.
Ở đây, ta cảm thấy
một nỗi buồn khác: buồn của một nhà Nho bất đắc chí ngông nghênh ở thời Khổng
giáo vào cuối mùa.
Tuy nhiên, cũng qua
các câu tự chê cười, các tác giả đã gián tiếp bộc lộ lòng tự phụ hằng hữu của
các nhà Nho: Nguyễn Khuyến, "bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc
ngu" nước có đạo lý thì đem tài trí ra giúp đời, nước vô đạo thì làm ra
ngu dại để khỏi bị ép ra làm tay sai hại nước, hại dân (ăn nói gàn dở, say tít
cung thang), theo đúng lời dạy của thánh hiền. Tú Xương trong cảnh "thanh
bần" vẫn "quắc mắt khinh đời". Tản Đà ngông nghênh, tự phụ về
văn tài của mình, mỉa mai rằng "Bởi ông hay quá, ông không đỗ!"
Một bất công lớn
nhất ở chế độ phụ quyền là tục đa thê: "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính
chuyên một chồng." Nhưng ở thời Nho giáo phong kiến, nếu có người đàn bà
nào lên tiếng trực tiếp chỉ trích, chống đối, thì không thể nào khỏi bị ghép
vào tội "dâm loạn." Cho nên họ chỉ có thể mượn những lời nửa đùa nửa
thật để tự chế diễu: đem cái tội mà người ta gán cho mình, thậm xưng lên, phóng
đại ra một cách quá đáng, để chọc cười, theo lối nói lẫy, cho đã nư, đã tức.
Đồng thời cũng để gián tiếp châm biếm, chống đối cái lạm quyền phi lý, cái quan
niệm hẹp hòi, lố lăng về hai chữ "tiết trinh" của bọn đàn ông:
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Từ
anh chồng cũ đến chàng là năm.
Còn
như yêu vụng dấu thầm,
Họp
chợ trên bụng đến trăm con người.
... Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả
chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
Đêm
nằm vuốt bụng thở dài,
Thương
chồng thì ít, thương trai thì nhiều.
Và cũng để tự chế diễu cái tính lẳng lơ hoa
nguyệt mà khi người chồng hay ghen bóng, ghen gió đem vu khống cho mình:
...Anh đánh thì tôi chịu đòn,
Tánh tôi hoa nguyệt mười con chưa chừa.
Anh
đánh thì tôi xin thưa,
Tánh
tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu !
Phụ nữ ngày xưa còn dùng cách tự chế diễu để
tố cáo, chống đối tục lệ bất nhân buộc người đàn bà chồng chết phải thủ tiết,
không được làm lại cuộc đời của mình theo ý muốn:
Hỡi thằng cu lớn, cu bé, cu tí, cu tị, cu tỉ, cu ti,
Con
dậy, con ăn, con ngủ, con bú với bà,
Để
mẹ đi xuất giá kiếm thêm một và đứa em.
Kể từ
ngày bố con gục đi, bố con thác đi, bố
con chết đi, lòng mẹ đây nó vẫn
còn thèm,
Mẹ xem quẻ bói nói, nó vẫn còn có đàn em ở trong bụng nầy.
Con ra, con gọi chú con vào đây.
Để
mẹ trao trả cái cơ nghiệp nầy, mẹ mới bước đi.
Mẹ nào
có dám tiếc gì!
Và cuối cùng, khi thông cảm được với tâm trạng
đau khổ, với nguyện vọng tha thiết và lời kêu van não nuột của góa phụ, tiếng
cười hẳn có thể biến thành tiếng khóc chăng!
Ngày sau con tế ba bò,
Sao bằng lúc sống con cho lấy
chồng!
Sống trong suốt bao nhiêu thế kỷ bị đô hộ áp
bức, nên trong tiếng cười của con người Việt Nam đã lẫn lộn bao tình tự vui
buồn, bi hài hỗn tạp, đến nỗi ông cha chúng đã từng than lên:
Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại
cười.
Tiếng cười trong đời sống dân Việt
Trong các thành tố tinh thần của triết lý một
dân tộc, theo Lâm Ngữ Đường, chủ yếu có tính hài hước, óc thực tiễn và khuynh
hướng lý tưởng. Óc thực tiễn và khuynh hướng lý tưởng là hai động lực đưa đến
tiến bộ. Và sự tiến bộ đúng nghĩa chỉ được thể hiện nhờ sự hài hòa giữa hai
động lực ấy. Một lý tưởng mơ hồ, thiếu suy xét, thường dẫn đến lố lăng, trái
lại quá nhiều lý tưởng có thể là một
nguy hại cho nhân loại và đưa nhân loại đến sự đeo đuổi những mục đích viển
vông, phiêu lưu. Những dân tộc lành mạnh về tinh thần, như người Anh chẳng hạn,
đã biết điều hợp đúng đắn giữa óc thực tiễn và khuynh hướng lý tưởng. Còn hài
hước vốn là tính bẩm sinh của con người, mà chức năng là "phẩm bình, chế
diễu những mộng mơ của ta" và đưa những mộng mơ ấy cọ xát với thực tại. Kể
ra như thế cũng "độc ác," vì đã làm cho ta đánh mất những "ảo
ảnh vui đẹp của mộng mơ" của mình, nhưng ít ra cũng hoàn thành được vai
trò cần thiết là giúp cho ta khỏi bị va đầu vào bức tường cứng rắn của Sự Thật.
Tập cho quen thuộc với những "giải hoặc" (désillusion), hài hước giúp
con người tránh được những sụp đổ khó bề cứu vãn, những thất vọng đau hận bình
sinh. Tiếng cười cảnh giác chúng ta
về tính chất độc ác, mà khuynh hướng lý tưởng và sự giải hoặc đã phối hợp nhau để tạo nên trong cuộc sống
của con người. (7)
Sự
khôn ngoan của dân Việt trong cuộc sống thoát thai từ sự tổng hợp, dung hoà
sáng suốt giữa tính hài hước với óc thực tiển và khuynh hướng mộng mơ, hẳn đã
được minh thị phần nào qua "tiếng cười dân Việt" với những sắc thái
trình bày trên đây.
CHÚ THÍCH
(1)- Le rire est le propre de l'homme (Rabelais)
(2)- Lê Văn Siêu, Văn minh Việt
Nam, Saigon 1955, tb HK, tr. 92.
(3)- Xem bài số 7, Triết lý dân tộc Việt Nam, trên đây.
(4)- Henri Bergson, Le rire,
P.ỤF., Paris 1990, tr. 128-130 (Le rire est avant tout une correction. Fait
pour humilier. La société se venge par lui des libertés qu'on a prises avec
elle.[...] A ces impertinences, la société réplique par le rire qui est une
impertinence plus forte encore).
(5)- Beaumarchais: Le frontière est fragile entre la comédie et la
tragédie.
(6)- Trắc Dĩ : chỉ lòng
nhớ mẹ, do chữ trong Kinh Thi : « Trắc bỉ Dĩ hề, chiêm vọng mẫu
hề » nghĩa là :Trèo lên núi Dĩ kia a, trông ngóng mẹ a ! Chung thiên : suốt ngày.
(7)- Theo Lâm Ngữ Đường, The importance of living, đoạn dẫn nhập.
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/11/vo-thu-tinh-tieng-cuoi-cua-dan-viet.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001