Muộn còn hơn không
Tô Văn Trường
Theo
quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020 có xét đến
năm 2030, tổng công suất thủy điện từ 9.200 MW năm 2009 sẽ được tăng lên
17.000 MW vào năm 2010, chiếm 23,1% trên tổng số 71.000 MW các nguồn
điện năng quốc gia.
Phát triển thủy điện đã
góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy
nhiên, song song đó là tình trạng loạn thủy điện và thủy điện “mì ăn
liền”. Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Công Thương qua rà soát đã loại bỏ
424 dự án, đồng thời không xem xét đưa vào quy hoạch 172 vị trí tiềm
năng, tạm dừng có thời hạn 136 dự án, tiếp tục xem xét đánh giá 158 dự
án thủy điện. Biết lắng nghe dư luận và nhận rõ thực trạng như vậy là
đáng ghi nhận, muộn còn hơn không!
Ai
cũng thấy việc loại bỏ các dự án thủy điện trong quy hoạch là bài học
cay đắng, trả giá bằng tổn thất về tiền bạc, thời gian, công sức nhưng
ai chịu trách nhiệm thì không rõ. Đây cũng là vấn đề được nhiều đại biểu
Quốc hội đặt ra trong phiên thảo luận ở hội trường ngày 13-11, kỳ họp
thứ 6 Quốc hội khóa XIII về Quy hoạch tổng thể thủy điện. Ngoài trách
nhiệm của Bộ Công Thương và các địa phương (các dự án thủy điện nhỏ hơn
30 MW) thì Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng phải tiếp thu ý kiến của các
ngành, các cấp và chuyên gia để hoàn thiện dự thảo Luật Bảo vệ môi
trường sửa đổi, dự thảo nghị định hướng dẫn về đánh giá môi trường chiến
lược và đánh giá tác động môi trường đặc biệt trong quy hoạch phát
triển thủy điện.
Nguồn năng lượng điện ở Việt
Nam từ trước đến nay vẫn chủ yếu dựa vào các nguồn nhiên liệu chính là
than đá, khí (nhiệt điện) và nước mặt ở các dòng sông (thủy điện). Tiềm
năng lý thuyết thủy điện Việt Nam khoảng 75.000 MW, tiềm năng kỹ thuật
khoảng 31.000 MW và tiềm năng kinh tế - kỹ thuật khoảng 20.000 MW. Trong
giai đoạn 2001-2010, một thập niên bùng nổ thủy điện, gần như tiềm năng
kinh tế - kỹ thuật nguồn thủy điện đã được khai thác tương đối. Trong
những năm tiếp sau 2010, chỉ còn một vài dự án lớn như Sơn La 2.400 MW,
Lai Châu 1.200 MW và một số thủy điện vừa và nhỏ (tổng cộng khoảng 2.100
MW) dự kiến được khai thác đến năm 2015 - gần như hết tiềm năng thủy
điện của nước ta. Chỉ còn lại một vài dự án thủy điện tích năng sẽ được
tiếp tục khai thác sau năm 2020.
Đối với Quy
hoạch Tổng sơ đồ điện từ trước đến nay, đã qua 7 kỳ quy hoạch và nhiều
lần hiệu chỉnh quy hoạch, việc quy hoạch chủ yếu dựa trên tiêu chí tối
ưu chi phí đầu tư, vận hành hệ thống điện và theo nhu cầu năng lượng của
quốc gia, tiêu chí ảnh hưởng môi trường chưa được chú trọng và đề cập
một cách chi tiết.
Việc khai thác thủy điện để
cung cấp năng lượng là tốt vì đây là nguồn năng lượng tái sinh. Vấn đề
là cần phải có tiêu chí đánh giá lựa chọn dự án khai thác tổng thể theo
sự tiến bộ về nhận thức của xã hội, đồng thời bổ sung công tác đánh giá
môi trường hậu dự án một cách nghiêm túc và có chi phí để thực hiện.
Ngoài
nguồn năng lượng thủy điện, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, việc tìm nguồn năng lượng sạch thay thế phù hợp với điều kiện của
Việt Nam vẫn là thách thức lớn đối với những người quản lý, điều hành
đất nước. Lắng nghe, tiếp thu ý kiến phản biện xã hội thể hiện qua việc
rà soát, loại bỏ hàng loạt dự án thủy điện không hiệu quả, tác động lớn
đến môi trường là việc làm tốt, tích cực, vì cái chung nên dù muộn cũng
phải làm.
T.V. T.
Nguồn: nld.com.vn
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 03:02
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/muon-con-hon-khong.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001