Dân chủ và tự do thông tin
Nguyễn Hưng Quốc
Tổng thống Obama bước đến bục để đọc diễn văn trước nhân dân Mỹ, ngày 10/9/2013.
Xưa
nay, hầu như ai cũng biết một trong những nguyên tắc căn bản để giành
thắng lợi trong mọi cuộc chiến là tận dụng được yếu tố bất ngờ: Ra tay
đánh vào lúc và vào chỗ địch quân sơ ý nhất, và vì sơ ý, nên phòng thủ
kém nhất. Từ nguyên tắc căn bản ấy, nhìn những gì đang diễn ra tại Mỹ
trong mấy tuần vừa qua liên quan đến kế hoạch trừng phạt chính phủ
Bashar al-Assad ở Syria, chúng ta không khỏi ngỡ ngàng: Mọi chuyện đều
công khai. Chả có chút xíu gì là “bí mật quân sự” cả.
Trước
hết là quyết định có tấn công Syria hay không, Tổng thống Barack Obama
đề nghị giao cho Quốc hội Mỹ thảo luận và bỏ phiếu, nghĩa là mọi chuyện
được tiến hành dưới các ống kính truyền hình để không những dân chúng Mỹ
mà mọi người trên thế giới cùng… xem. Dĩ nhiên, trong số khán giả ấy,
những người xem chăm chú nhất, kiên nhẫn nhất, và cũng căng thẳng nhất
chắc chắn là chính phủ Syria.
Việc bày binh bố
trận cũng vậy: Tất cả đều được báo chí tường thuật đầy đủ. Mỹ điều bao
nhiêu tàu sân bay và khu trục hạm đến khu vực gần Syria: mọi người đều
biết rõ. Trên các tàu sân bay và khu trục hạm ấy, có bao nhiêu hỏa tiễn
hành trình Tomahawk và đặc điểm của các loại hỏa tiễn này như thế nào:
mọi người đều biết rõ. Chung quanh Syria, Mỹ có bao nhiêu máy bay chiến
đấu, từ F-15 đến F-16; các máy bay ấy đang đậu ở đâu, có thể bay được
bao xa và chở được bao nhiêu quả bom: mọi người đều biết rõ.
Chưa hết.
Ngay
cả kế hoạch tấn công với những chi tiết như tấn công bằng loại vũ khí
gì, nhắm vào những địa điểm nào, và sẽ kéo dài bao lâu cũng được đem ra
bàn tán công khai trên mọi diễn đàn. Bản dự thảo nghị quyết của Ủy ban
đối ngoại thuộc Nghị viện Mỹ soạn thảo ngày Thứ Tư 4/9 ghi rõ: Một, chỉ
cho phép Tổng thống tiến hành việc trừng phạt Syria trong vòng 90 ngày; và hai, không được sử dụng bộ binh trên đất Syria.
Cũng chưa hết.
Chưa
tấn công, thậm chí, có khi sẽ không bao giờ tấn công Syria, mọi người,
từ những người lãnh đạo cao nhất trong ngành hành pháp và lập pháp đến
các cố vấn, các bình luận viên trên các cơ quan truyền thông đại chúng
đã nhao nhao bàn luận về những cái được và những cái mất, những cái lợi
và những cái hại, những nguy hiểm, thậm chí, những nguy cơ thất bại của
Mỹ. Dư luận cũng chia phe rõ rệt: người ủng hộ, kẻ chống đối. Các bên
đều lên tiếng ồn ào và đả kích nhau kịch liệt. Ở Syria, Mỹ chưa nổ phát
súng nào; trên trận địa truyền thông trong nước, súng đạn đã ầm ầm. Tấn
công Tổng thống Obama nhiều và dữ dội nhất chưa phải là Syria mà chính
là người… Mỹ, đủ mọi giới!
Cũng vẫn chưa hết.
Nếu
Quốc hội Mỹ đồng ý, trước khi chính thức tấn công Syria, chắc chắn Tổng
thống Obama sẽ lên truyền hình tuyên bố: Trong mấy giờ nữa, chúng ta sẽ
nổ súng! (Để quân lính Syria đủ thì giờ để chui xuống… hầm!)
Những chuyện như trên có vẻ như nghịch lý. Nhiều người có lẽ sẽ không thể hiểu được. Nhất là người...Việt Nam.
Nhớ,
năm 1968, trong chiến tranh Việt Nam, các bên tham chiến đã ký kết thỏa
thuận đình chiến trong dịp Tết với lý do đó là ngày lễ thiêng liêng
nhất của dân tộc. Phía miền Nam, quân lính an tâm chào đón Tết. Một số
được về nghỉ phép với gia đình. Ngay Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng về
quê vợ ăn Tết. Nhưng ngay lúc ấy, rạng sáng ngày 30 tháng 1, tức sáng
mồng một Tết âm lịch, phía… bên kia nổ súng, đồng loạt tấn công 36 trong
tổng số 44 tỉnh, thành ở miền Nam, kể cả Sài Gòn. Tại sao họ lại chà
đạp lên sự thỏa thuận do chính họ ký kết như vậy? Câu trả lời rất đơn
giản: Tận dụng yếu tố bất ngờ.
Nhìn từ kinh
nghiệm ấy, các diễn biến tại Mỹ hiện nay (cũng như trong cuộc chiến
tranh tại Afghanistan và Iraq trước đây) không những nghịch lý mà còn
phi lý nữa. Cái gì cũng tô hô trước giới truyền thông như vậy thì còn gì
là “bí mật quốc phòng” và làm sao mà thắng trận được chứ?
Dĩ
nhiên, tất cả mọi người trong giới lãnh đạo và chính khách Mỹ cũng như
Tây phương nói chung, đều hiểu việc công khai hóa như vậy sẽ gây rất
nhiều khó khăn cho các chiến dịch quân sự của họ. Hiểu. Nhưng họ không
có cách gì khác. Lý do đầu tiên: Đó là trò chơi dân chủ. Lý do thứ hai:
trong chiến tranh, thắng địch đương nhiên là một mục tiêu lớn, nhưng đó
không phải là mục tiêu duy nhất. Mọi chiến thắng chỉ có ý nghĩa khi nó
mang lại lợi ích cho con người, và một trong những lợi ích ấy là con
người phải được tôn trọng; những người cần được tôn trọng trước hết là
các công dân của mình; điều họ cần được tôn trọng đầu tiên là quyền công
dân của họ, trong đó, có quyền được… biết!
Từ
góc độ ấy, chúng ta dễ dàng nhận thấy sự khác biệt lớn lao giữa giới
lãnh đạo ở các nước dân chủ và giới lãnh đạo ở các nước độc tài: Ở các
nước độc tài, giới lãnh đạo lúc nào cũng lén lén lút lút như những tên
ăn trộm, giới lãnh đạo các nước dân chủ, ngược lại, trong phần lớn các
trường hợp, đều chọn cách chơi bài ngửa một cách quanh minh chính đại.
Điều đó gây nhiều khó khăn cho họ nhưng không làm cho họ yếu đi. Lịch sử
cho thấy, các quốc gia dân chủ có thể thua trận ở một số cuộc chiến
tranh cục bộ nào đó, nhưng nhìn chung, trên đại cuộc, họ vẫn thắng. Cuộc
chiến tranh lạnh giữa hai khối dân chủ và độc tài kéo dài cả nửa thế kỷ
đã kết thúc với phần thảm bại thuộc về những kẻ giấu giếm nhiều và kỹ
lưỡng nhất.
Ở các quốc gia dân chủ, việc “dân
biết, dân bàn, dân kiểm tra” không phải chỉ là một khẩu hiệu. Mà là một
thực tế được hiến pháp và luật pháp bảo vệ. Từ mấy thập niên trở lại
đây, hầu hết các quốc gia dân chủ đều có đạo luật về vấn đề tự do thông
tin (freedom of information), một hình thức mở rộng của quyền tự do ngôn
luận (freedom of speech) đã có từ lâu: Tự do ngôn luận sẽ không có ý
nghĩa gì nhiều nếu không gắn liền với tự do thu nhận thông tin, xử lý
thông tin và truyền bá thông tin dưới mọi hình thức.
Theo luật về tự do thông tin,
mọi người dân đều có quyền được biết tất cả những gì liên quan đến
chính phủ (dĩ nhiên trừ một số vấn đề quan trọng liên quan đến an ninh
quốc phòng và kinh tế thường được bảo mật trong một thời gian nhất định
nào đó). Khi dân chúng hỏi, các cơ quan chính phủ, từ Quốc hội đến các
cơ quan hành pháp và tư pháp các cấp, từ các bộ, sở, ngành đến các tổ
chức được chính phủ tài trợ (kể cả các trường đại học) đều có bổn phận
phải trả lời. Người hỏi chỉ cần trả một số tiền cho việc tìm kiếm các
tài liệu, tiền làm photocopy và tiền tem gửi đến nhà mình. Số tiền ấy
rất phải chăng. Hầu như ai cũng có thể trang trải được, nếu muốn. Người
được hỏi phải trả lời trong thời gian quy định (tùy từng quốc gia, nhưng
trung bình là vài tuần và tối đa là một tháng). Không ai có quyền làm
ngơ.
Người ta xem quyền tự do thông tin như thế
là điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất để bảo đảm tính chất minh bạch
(transparency) và tính khả kiểm (accountability) của chính phủ. Cả tính
minh bạch và tính khả kiểm ấy lại là điều kiện đầu tiên và quan trọng
nhất của dân chủ.
Bởi vậy, có thể nói một cách
đơn giản và tóm tắt thế này: Bạn có thể biết được một chế độ có dân chủ
hay không chỉ dựa vào một tiêu chí duy nhất: ở đó, dân chúng có được
quyền biết các thông tin liên quan đến chính phủ và giới lãnh đạo hay
không? Ví dụ, riêng trong trường hợp của Việt Nam, chúng ta có thể được
cung cấp thông tin chính xác là Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng có bao nhiêu
căn nhà và bao nhiêu tiền được ký gửi ở các ngân hàng từ Việt Nam đến
ngoại quốc? Mỗi năm ông nhận bao nhiêu quà (kể cả quà trong các phong
bì)? Trị giá mỗi món quà là bao nhiêu? Và do ai trao tặng? Những món quà
ấy được dùng để làm gì? Cất giữ ở đâu? Vân vân.
Bạn có thể trả lời các câu hỏi ấy được không? Nếu không, bạn có thể hỏi cơ quan nào không? Họ có trả lời cho bạn không?
Bài kiểm tra xem chừng rất đơn giản.
N.H.Q.
Nguồn: voatiengviet.com
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 06:35
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/dan-chu-va-tu-do-thong-tin.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001