Ngự Thuyết - TỐ PHONG
at 9/21/2013 02:40:00 PM
Ngự Thuyết
Tố Phong là một thi
sĩ, nhưng ít người biết đến. Quá ít! Những dịp
tiếp xúc với bạn bè trong giới viết lách, tôi hỏi về
Tố Phong, ai nấy đều lắc đầu bảo không biết. Có
người mách nước cứ tìm đọc cuốn Văn Học Miền
Nam - Tổng Quan của Võ Phiến là biết ngay. Tôi tìm
đọc cuốn đó. Đấy là một cuốn sách viết rất công
phu, rất giá trị, viết với tấm lòng tha thiết đối
với nền văn học Miền Nam; mà Võ Phiến bảo là một
nền văn học thành hình thật nhanh, phát triển tưng bừng
và vội vã, rồi bị vùi dập một cách tức tưởi; mà
nhà cầm quyền Cộng Sản đã tìm mọi cách tận diệt để
không còn sót lại một vết tích nào, và nếu có phần
nào không xóa bỏ nổi thì mang ra bôi bẩn, xuyên tạc.
Cuốn sách đề cập đến hàng trăm nhà văn, nhà thơ miền
Nam. Không thấy nói gì về Tố Phong. Cho nên tôi nghĩ
rằng Tố Phong thuộc lớp trước.
Tôi bèn tìm phần
nói về các tác giả thuộc giai đoạn "hồi cư"
từ sau 1945 cho đến ngày chia đôi đất nước năm 1954,
gặp những tên tuổi như Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Thiên
Giang, Thê Húc, Tam Ích, Triều Sơn, v.v. Ngay cả một số
vị mà sự nghiệp viết lách đang còn phôi thai, một số
vị chỉ có dăm ba bài thơ không lấy gì làm hay, một số
vị chỉ có liên hệ đôi chút với văn học, cũng được
đề cập. Võ Phiến sợ thiếu chứ không sợ dư. Do đó
trong phần Danh Biểu ở cuối sách, con số liệt kê thật
lớn lao, gần 500 người, theo thứ tự ABC, bắt đầu từ
những nhà văn như An Khê, Anh Đức ... cho đến những
người cuối cùng là Y Đạt, Y Uyên. Nhưng cũng không thấy
tên Tố Phong. Túng quá, tôi đến gặp ngay nhà văn Võ
Phiến để "hỏi cho ra lẽ". Và câu trả lời:
Rất tiếc, tôi không biết gì về thi sĩ đó.
Có lẽ có người
cho rằng người viết bài này rõ ngớ ngẩn. Đâu phải
hễ cứ có dăm ba bài thơ, bài văn là có quyền đòi hỏi
được ghi tên vào "bảng vàng bia đá"! Vậy Tố
Phong có đáng được nhắc nhở đến hay không khi đã cho
xuất bản vài tập thơ?
*
Tố Phong sinh sống
tại Đà Lạt. Vào khoảng từ năm 1948 đến năm 1952, ông
có đăng thơ trên một số tạp chí ở Bắc như Tiểu
Thuyết Thứ Bảy, một tạp chí có tiếng tăm trước
năm 1945, sau được tục bản tại Hà Nội do nhà viết
kịch lão thành Vũ Đình Long đứng làm chủ nhiệm, và ở
Nam như loại sách Bạn Trẻ của nhà xuất bản Nam
Việt tại Sài Gòn, v.v... Sau đó Tố Phong có cho in hai tập
thơ: Giòng Huyết Sử và Mai Sáng. (Người
viết bài này nhớ được hai câu đầu tiên trong bài thơ
Mai Sáng, không phải vì hai câu thơ ấy hay, mà vì
do tình cờ: Mai sáng ngày mai dậy sắc hương/ Và cây
thêm lục nắng thêm hường). Trong tuyển tập Thơ
Mùa Giải Phóng có thơ của Hoàng Cầm, Nguyễn Bính,
Vũ Anh Khanh, Thẫm Thệ Hà, Sơn Khanh ... cũng có bài Lòng
Mẹ của Tố Phong. Bài Lòng Mẹ cũng đã được
phổ nhạc. Vào thời đó, hào quang của kháng chiến
chống Pháp còn rực rỡ, bộ mặt thật của Cộng Sản
Việt Nam chưa hiện rõ. Nhiều người cầm bút có cảm
tình hoặc thiên hẳn về phe kháng chiến. Chính thi sĩ
Sơn Khanh, bút hiệu của luật sư Nguyễn văn Lộc, sau này
có thời làm thủ tướng của Miền Nam quốc gia, là người
chủ biên tuyển tập Thơ Mùa Giải Phóng.
Thú thật vào thời
gian theo học những lớp đệ ngũ, đệ tứ trung học,
(tức lớp 8, lớp 9) không mấy quan tâm đến văn chương,
tôi có biết Tố Phong là ai đâu. Tôi cũng chưa từng đọc
một bài thơ nào của thi sĩ đó. Mãi đến khoảng
1956-1957, có dịp lui tới nhiều lần tại Đà Lạt, tôi
tò mò đọc Tố Phong. Đọc vì tò mò về con người mà
mình có dây liên hệ, mà đến lúc ấy mình mới biết là
người ấy có làm thơ. Cảm tưởng chung chung của tôi:
thơ Tố Phong có một số bài mang những tứ lạ, có gây
xúc động, nhưng thường thì tối tăm, hoang mang. Có thể
hồi đó tôi còn nông nổi chưa hiểu được ông chăng.
Về sau tôi cố tìm thơ ông để đọc lại xem sao nhưng
không tìm đâu cho ra dù một bài. Có một số câu thơ của
Tố Phong in hẳn vào trí nhớ của tôi, chẳng hạn:
Lênh đênh mực đọng lòng trang giấy
Chữ đảo điên
mờ chảy mấy trăng...
Riêng bài Lòng Mẹ
khá dài, tôi chỉ nhớ được bốn câu đầu và bốn câu
cuối:
Lòng đứt đoạn
nhìn con thơ tê tái
Thôi từ nay con
hỡi hết trông cha
Đường sá lạ
đi về nhà một mái
Nỗi niềm riêng
đau xót mẹ con ta
...
Thang xã hội con
bò trong tăm tối
Gió đông về
cùng rét mướt tả tơi
Đầu thơ ngây
tóc bù như cỏ rối
Làm đau lòng mẹ
lắm hỡi con ơi!
*
Tố Phong sinh ở
Truồi, một ngôi làng phía nam thành phố Huế thuộc huyện
Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên. Người mẹ yêu quý cuả ông
Minh -- ông nhắc nhở nhiều đến mẹ trong thơ, Tố Phong
tên thật là Nguyễn Ngọc Minh -- thường nói quê quán của
ông có dâu Truồi ngọt, núi Truồi cao.
Núi Truồi ai đắp
nên cao
Sông Gianh (?) ai
bới ai đào nên sâu.
Mồ côi cha từ bé,
ông theo mẹ vào Đà Lạt, có học nghề may đồ tây. Vào
thời đó biết may Âu phục là có thể kiếm được "bộn
bạc cắc". Cũng có học ít nhiều về nghề thuốc,
đến trình độ nào thì tôi không rõ. Nhưng ông không
thích hành nghề của mình để kiếm sống, mà lại xoay
qua viết lách. Ông sống tại nhiều nơi, Đà Lạt, Sài
Gòn, Huế, có đi Vinh tìm kế sinh nhai, và đã từng sống
ở Nam Vang. Ông không có gia đình, vợ con. Thân nhân của
ông cho biết ông từng yêu một người đẹp họ Bùi, nhà
giàu, có tiệm vàng, của thành phố Đà Lạt, một thành
phố cao nguyên hồi đó còn ít người, nhỏ bé, thanh
lịch, nơi có rất nhiều người gốc Huế, và hầu như
mọi người trong thành phố đều là họ hàng của nhau
hoặc quen biết nhau. Ông nhờ người mai mối, bị từ
chối khéo. Đó là một cú sốc lớn trong đời ông.
Vào những năm 1952,
1953 ông không còn viết được nhiều như trước. Ông
thường đi thơ thẩn một mình suốt ngày trên khắp các
đường phố Đà Lạt, trời mưa cũng đội mưa mà đi,
ướt như chuột lột, đêm về nhà thì thức thâu đêm
viết lách, xé bỏ, lầm bầm những gì không ai rõ, có
khi đập phá đồ đạc. Có người cho ông quẫn trí vì
chuyện hôn nhân thất bại, có người lại nghĩ rằng ông
không chịu nổi những cảnh trái tai gai mắt của một xã
hội nhiễu nhương nên ông thường lên cơn khủng hoảng
tinh thần. Cuối cùng vì những bài viết dữ dội đụng
chạm nặng đến nhiều nhân vật thế lực của thành
phố, của chánh quyền, ông bị bắt giam vào lao xá Đà
Lạt trong một thời gian ngắn. Sau đó ông bị đưa vào
nhà thương điên Biên Hòa.
Hè năm 1959 - 60 thì
phải, tôi và một người bạn, Phạm Đình Uyển, đến
Dưỡng Trí Viện Biên Hòa thăm ông. Ông trông còn khỏe
mạnh, phụ trách việc chia thuốc và chích thuốc cho bệnh
nhân tâm thần, nhưng ông không còn sáng suốt nữa. Trong
câu chuyện với chúng tôi, thật ra ông chỉ độc thoại
chứ không bắt được những gì chúng tôi nói, ông miên
man bàn về những đợt tiến quân của quân Anh, quân Ấn
từ phía Sài Gòn dồn ra, những binh đoàn của Tưởng
Giới Thạch, của Lư Hán từ phía Hà Nội tràn vào, khiến
bọn Nhật dã man, hung tợn cũng phải bó tay nộp khí giới
đầu hàng. Nhưng cái nguy mà chỉ một mình ông biết,
ông nói thế, là hiện giờ quân Pháp lại "đục nước
buông câu" rình rập mò về. Cho nên ta phải "đi
nước trước" lấy tre đực đánh vào đầu chúng nó,
tầm vông vạt nhọn đâm vào cổ chúng nó, bột ớt, bột
tiêu xịt vào mắt chúng nó, đào hố sâu bẫy và chôn
sống chúng nó. Chúng nó trốn dưới hầm, trong xó nhà,
thì đừng có dại xông vào lãnh đạn, chỉ việc lấy
rơm hun khói vào cho chúng nó nghẹt thở phải bò ra như
lũ chuột. Nhiều lúc ông quên hẳn chúng tôi đang ngồi
trước mặt, say sưa nói một mình đến sùi bọt mép.
Cũng may ông không có
vẻ gì nguy hiểm. Hai đứa chúng tôi thì ngơ ngác, không
biết làm thế nào để kéo ông về với thực tại. Cuối
cùng chúng tôi lục hết túi lấy ra được một ít tiền
tặng ông, rồi đứng dậy cáo từ ra về. Nhưng ông nhất
định không cho chúng tôi đi. Ông nắm chặt cả hai cánh
tay tôi, cặp mắt lóe ra những tia hung dữ, giữ tôi lại,
bảo chúng tôi không được khi dễ ông, phải ở lại
chơi với ông vài ba tháng vì bạn bè của ông đều đã
"đi chơi" đâu cả chưa ai chịu về, nhà vắng,
buồn lắm. Chúng tôi lại ngồi xuống chiếc ghế băng
dài đặt trước cái bàn gỗ hình chữ nhật cũ kỹ,
không có khăn bàn, không dơ dáy cho lắm, nhưng cũng bốc
ra một mùi khó tả, không giống như "mùi tù" mà
tôi đã từng biết. Thế là mùi gì vậy? Mùi bùn? Mùi
phèn? Mùi mốc? Mùi ải? Mùi rã? Mùi oải? Bạn tôi
bảo cứ cho nó là "mùi điên" cho gọn. Tôi hơi
khó chịu trước lối nói đùa đó. Thấy chúng tôi ngồi
xuống, ông vui vẻ nói:
"Mà trước hết,
tôi làm trà cái đã. Hai anh chờ tôi một chốc."
Trong khi ông loay hoay
đi tìm cái gì đó dưới gầm bàn, gầm giường, có lẽ
ông tìm bình trà, ấm nước để pha trà, lò đun, không
thấy đâu cả, ông chạy ra ngoài hiên lại lục lọi tìm
tòi, chúng tôi thừa cơ lẻn bước đi nhanh.
Từ đó, khá lâu tôi
mới đến thăm ông một lần. Ông không nhớ gì về
những chuyến viếng thăm trước của tôi, cũng miên man
nói chuyện quân Đồng Minh, quân Nhật, cũng giữ tôi lại,
cũng loay hoay đi tìm bình trà, và nhân đó tôi cũng lẻn
đi không cáo từ. Có một lần tôi gợi ý nói xa gần về
thi sĩ Tố Phong, thì ông có vẻ ngơ ngác, thẫn thờ, đôi
mắt nhìn đâu đâu như thất thần. Câu chuyện giữa ông
và tôi vốn thường đã lông bông lại càng lạc lõng
thêm.
"Thi sĩ hả, thi
sĩ nào?"
"Nhà thơ Tố
Phong ở Đà Lạt, anh có nhớ không?" tôi nhắc chừng.
"Đà Lạt hả?
Tiệm vàng gần chợ Đà Lạt tôi đâu thèm ghé lại bao
giờ."
Rồi ông lẩm nhẩm
nói một mình chứ không phải hát: "Một ra đi là
không trở về/Lòng tráng sĩ thề không nao núng"...
Tôi cố hỏi gặng
thêm về nhà thơ Tố Phong thì ông đổi đề tài một
cách đột ngột:
"Anh phải đồng
ý với tôi là giải pháp Bảo Đại rồi cũng chả đi đến
đâu. Bảo Đại rốt cuộc biến thành bù nhìn. Mà bọn
Anh Mỹ Nga Tàu Pháp có bao giờ thực tâm giúp người
mình. Nhưng những tụi ngu xuẩn cầm quyền bây giờ đâu
biết được điều đó ... "
Tôi không thể đoán
liệu ông ta có biết thi sĩ Tố Phong chính là ông hay
không, hay ông ta có biết nhưng cứ giả vờ ngớ ngẩn,
hoặc không muốn nhắc đến.
Khoảng cuối thập
niên 60, may thay, tôi tình cờ đọc được một bài viết
vắn tắt về Tố Phong, người viết là Thế Phong, còn có
bút hiệu là Đường Bá Bổn, chủ trương nhà xuất bản
Đại Nam Văn Hiến tại Sài Gòn. Dường như có
nhiều tác phẩm của nhà xuất bản này được in bằng
ronéo. Rất tiếc, tôi không nhớ một chút gì về bài
viết đó. Và tôi nghĩ rằng bài viết ấy của Thế Phong
là lời nói cuối cùng về nhà thơ Tố Phong. Quả thế,
hơn 30 năm kể từ bài viết ngắn ấy, tên tuổi của Tố
Phong hoàn toàn chìm trong quên lãng.
Thế rồi, một ngạc
nhiên lớn đã đến với tôi. Trong tờ Văn Học Xuân
Quý Mùi 2003, nhà văn Trúc Chi trong bài tùy bút nhan đề
Nụ Đào Trong Sương đã nói đến Tố Phong bằng
một giọng văn thật duyên dáng. Tôi xin mạo muội trích
một đoạn trong bài ấy:
“Tôi
dừng bước nhìn vào một gốc anh đào trong một khu vườn
khá rộng. Qua ánh đèn đường, gốc anh đào trụi lá và
đầy nụ non này nổi hẳn giữa những loài cây khác, xum
xuê giữa tháng cuối năm. ‘Vậy là gốc anh đào năm nay
lại nở chậm rồi.’ Tôi nghĩ thầm vậy, rồi bất giác
tôi nhớ đến anh Tố Phong, tác giả tập thơ Giòng
Huyết Sử. Thơ của anh hay hoặc dở, có
hay không có giá trị, tôi không hề biết mà có lẽ
cũng sẽ không bao giờ biết, vì tôi chưa bao giờ đọc
cái ấn phẩm ấy, bìa màu hồng với ba chữ Giòng
Huyết Sử màu đỏ. Từ lúc rời Dalat vào năm 1953 cho
đến năm 1975, tôi không hề gặp lại bút hiệu của anh
trên sách báo trong nước. Trên văn đàn, có nhiều cái
bóng lướt qua rồi tan biến như vậy.
Tôi cũng không nhớ
đã quen anh trong trường hợp nào. Hồi ấy, tôi tò mò
về anh vì nghe thiên hạ ‘xầm xì’ rằng anh là thi sĩ,
một ‘loại’ người xa lạ đối với tôi. So với
người Việt thời ấy, anh khá cao lớn, vạm vỡ, da ngăm
đen, mái tóc dày, cao mà không bờm xờm. Dalat có ngày
lạnh buốt mà tôi không hề thấy anh mặc áo len. Luôn
luôn quần dài xám hoặc xanh và sơ-mi trắng tay dài.
Từ chợ Dalat
xuống đường Cầu Quẹo cũ, có một lối đi tắt toàn
là bậc đá. Hai bên lối đi dốc dựng ấy có nhiều căn
nhà gỗ. Anh Tố Phong sống trên cái gác xép ở một trong
những căn nhà ấy. Tết năm ấy, vì lý do nào tôi không
nhớ, tôi không về nhà. Sáng Mùng Một, ở trường
ra, tôi đi lòng vòng khu Chợ, chưa dám vào nhà người
quen nào, mà cũng không có cái quán nào trong chợ hoặc
tiệm nào bên chợ mở cửa. Lục lọi mãi trong đầu,
chỉ còn anh Tố Phong. Tôi bước xuống đi lối tắt,
trèo lên gác trọ của anh thấy anh đang lui cui đun nước
sôi từ một cái lò điện, loại cũ rích có cái lò - xo
khoanh tròn đỏ rực. Tôi chúc năm mới rồi nói thật
với anh là không biết đi đâu cả nên ‘phải’ ghé
thăm anh. Anh tỉnh bơ:
‘Không hề gì
... trai nam nhi đầu đội trời chân đạp đất... có
nghĩa là đất nhà ai mình cũng có quyền đạp cả, đừng
có xô cửa vào nhà người ta là được rồi. Ngồi đấy,
uống một ly cà phê đầu năm rồi xuất hành với anh
luôn. Anh cũng chưa biết đi đâu nữa, nhưng cứ ra đường
thở chút không khí Tết.’
Phòng trọ của
anh không có một chút gì gọi là Tết trừ một cành đào
hàm tiếu trong chiếc bình sứ Nhật Bản trên bàn viết
của anh. Thấy tôi ngắm mãi những nụ hoa mới hé, anh
nói:
‘Anh mới cắt ở
nhà một người quen chiều hôm qua đấy. Nở hết là anh
thay nhánh khác. Từ đây cho hết tháng Giêng, năm nào
cũng vậy, phòng luôn có anh đào hàm tiếu. Cuối tháng,
K. có dịp ghé vào đây sẽ thấy nhánh đào cuối cùng
của mùa Xuân. Hoa cuối mùa đã quý mà lại có vẻ đẹp
khiêm tốn của nó.’
Ngày ấy, tôi
không biết hoa đầu mùa và hoa cuối mùa khác nhau ra sao.
Mà cho đến bây giờ, ngồi gõ những hàng chữ này, thú
thật tôi cũng chưa biết. Nhưng tôi tin rằng anh
nhạy cảm hơn tôi khi ngắm những nét cười khác nhau của
một loài thảo mộc. Lúc dừng lại bên đường để
nhìn những nụ đào trong sương đêm, tôi đã nghĩ rất
nhiều về con người Tố Phong mà tôi biết rất ít. Tôi
biết anh nghèo. Không nghèo sao được khi anh cứ sống lì
mãi trong cái gác trọ rẻ tiền, chênh vênh và trống trải
ấy suốt mấy năm. Tôi biết thơ anh, dù đã in thành
sách, rất ít người biết đến. Nhưng tôi cũng biết
rằng anh có một tâm hồn thơ. Tôi nghĩ rằng anh giàu ở
điểm này.
Bên hàng chữ mà
tôi ghi vội trong khách sạn Duy Tân năm ấy, tôi cũng có
nguệch ngoạc: ‘Có lẽ cũng nên bắt chước anh Tố
Phong. Ngắm và tìm nét đẹp của hoa từ đầu đến cuối
mùa. Như vậy chắc chắn sẽ có thêm nhiều ngày Xuân cho
chính mình. Biết đâu lại còn thêm được một mùa Xuân
trong lòng người khác.’”
Sau
hơn 30 năm tôi mới được nhìn thấy những dòng chữ nói
đến người mà tôi quyến luyến. Tôi cảm động vô
cùng, gọi ngay Trúc Chi, rủ đi uống cà phê dù chúng tôi
ở xa nhau hơn một giờ lái xe. Có cả Huy Văn cùng đi với
Trúc Chi. Tôi đưa cho Trúc Chi xem tấm ảnh nhiều người
chụp chung, chụp từ năm 1952, mà người thân của Tố
Phong gởi cho tôi, trong đó có hình của ‘quái kiệt’
Trần văn Trạch. Trúc Chi nhận ra Tố Phong trong tấm hình
đó ngay.
*
Tôi nghĩ đến Nhà
Văn Hiện Đại của Vũ Ngọc Phan, Thi Nhân Việt Nam
của Hoài Thanh, Văn Học Miền Nam của Võ Phiến.
Đó là những công trình đồ sộ ghi lại diện mạo và
những nét đặc trưng của những thời kỳ văn học cận
đại. Đặc biệt là bộ Văn Học Miền Nam giai
đoạn 1954-1975 của Võ Phiến với tham vọng bảo tồn,
gìn giữ "toàn bộ thành tích văn nghệ phản ảnh
những cảm nghĩ, băn khoăn, những buồn vui khóc cười
của hai mươi triệu đồng bào trong suốt thời gian hai
mươi năm" (Văn Học Miền Nam, tổng quan), mà chính
quyền cộng sản tại quốc nội đã và đang tìm mọi
cách xóa bỏ. Tại quốc nội, chánh quyền quả đã có
sức chi phối vô cùng mãnh liệt đối với giới cầm
bút. Trên văn đàn trong nước, văn học Miền Nam, văn học
Việt Nam ở hải ngoại hoặc không được nhắc tới,
hoặc bị sổ toẹt, hoặc bị xuyên tạc, bôi bẩn, trong
khi đó Miền Nam vẫn quý trọng những tên tuổi như
Nguyễn Tuân, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế lan Viên ... Ngay cả
Tố Hữu cũng chỉ bị phê phán về mặt ca tụng lãnh tụ,
ca tụng đảng, ca tụng Liên Xô, Trung Quốc một cách quá
đáng và lố bịch. Ở hải ngoại thì một số người
viết tha hồ nhận định, tán tụng những Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Phan Ngọc, Phan Cự Đệ v.v...
Ngoài ra, những công
trình khác như Văn học Việt Nam Dưới Chế Độ Cộng
Sản 1945-1990 của Nguyễn Hưng Quốc in tại California
năm 1991, Bốn Mươi Năm Thơ Việt Nam của Thi Vũ in
tại Paris vào năm 1993 (mới in tập hai, giai đoạn
1954-1963), Lưu Dân Thi Thoại (Tập I) của Diên Nghị
và Song Nhị in vào năm 2003 tại San Jose, Hoa Kỳ, v.v…
cũng là những tác phẩm rất cần thiết. Người đọc
tùy theo nhãn quan của mình có thể đồng ý hay không đồng
ý với một số luận điểm của người viết, nhưng phải
thừa nhận rằng đó là những tiếng chuông gióng lên chờ
những giao hưởng, những hồi âm và đối thoại.
Nhờ
những nỗ lực biên khảo, nghiên cứu, phê bình như nói
trên, cả một nền văn học “phi chính thống” và lớn
lao sẽ không có nguy cơ bị chìm trong quên lãng. Hoặc
những số phận hẩm hiu như Tố Phong có thể cũng sẽ
dần dần được biết đến.
*
Vài dòng viết thêm.
Sau biến cố tháng
Tư,1975, và sau mấy năm tù cải tạo, chúng tôi tìm cách
đến Nhà Thương Điên Biên Hòa với một chút hy vọng là
thi sĩ Tố Phong còn sống, và còn ở đó. Gọi là "tìm
cách đến Nhà Thương" là vì tuy được "ra trại"
trở về với gia đình, với xã hội, nhưng tôi còn bị
quản chế thêm hai năm. Trong thời gian quản chế, tôi
không được đi ra khỏi thành phố Sài Gòn, ngoại trừ
tình nguyện đi "Kinh Tế Mới". Ngoài ra mỗi ngày
phải tường trình với công an phường nhất cử nhất
động của mình vào cuốn sổ "Báo Cáo Sinh Hoạt".
Cho nên muốn đi Biên Hòa, tôi phải mượn xe gắn máy
chạy trên những con đường không có trạm kiểm soát,
chứ không dám đi xe đò. Đến nơi, sau một khoảng thời
gian khá dài bị hỏi han, chất vấn đủ điều, cuối
cùng tôi được đưa đến gặp ông Tố Phong. Ông già đi
nhiều, mái tóc đã bạc, cặp mắt lờ đờ có vân đục
che kín một phần, và gầy gò, rách rưới, hôi hám. Ông
hoàn toàn không biết gì về những biến động bên ngoài
bệnh viện, vẫn sống mải mê trong quá khứ, vẫn nhắc
đến quân Anh, Ấn, thực dân Pháp, kháng chiến, giải
pháp Bảo Đại v.v... nhưng bằng một giọng mệt mỏi,
buồn bã. Khi tôi cáo từ ra về, ông không còn níu tay
giữ tôi lại, cũng không loay hoay sục sạo đi tìm ấm
pha trà. Tôi cũng ốm yếu, đói và buồn bã như ông,
nhưng tôi cố gắng vài ba tháng lên thăm ông một lần.
Trước chuyến đi vượt biên đầu tiên thất bại, tôi
lên thăm ông, khoảng năm 1980. Không gặp.
Là vì Tố Phong không
còn nữa! Tôi lặng người. Tôi có cảm tưởng như bị
hụt chân, dù tôi biết rằng cái chết bây giờ hiện ra
nhan nhản hàng ngày với người Miền Nam một cách quá
nhanh chóng và dễ dàng và "hồn nhiên". Nhất là
vô số cái chết trên biển. Người phụ trách ở Nhà
Thương cho biết một hôm ông theo xe lãnh thực phẩm ra
thành phố Biên Hòa, ông thuộc vào loại "điên hiền"
nên thỉnh thoảng được theo xe để làm những công việc
lặt vặt, thì ông trốn mất. Vài ba ngày sau, Bệnh Viện
nhận được tin ông đã nằm chết bên lề đường gần
rạp chiếu bóng Biên Hùng, kiến lửa bu đầy người.
Những người chứng kiến nói thêm rằng thoạt đầu họ
tưởng ông già mất trí ấy nằm xuống ngủ yên sau khi
quờ quạng hai bàn tay lên đầu, lên vai, lên bụng ... để
giết những đàn kiến lửa. Rồi tôi được dẫn đến
ngôi mộ của ông, một nấm đất sỏi cát méo mó màu
trắng, Biên Hòa có nhiều vùng đất trắng, cao chừng một
tấc chưa có cỏ mọc. Tôi nghĩ rằng chỉ sau một mùa
mưa, nấm đất đó sẽ bị san bằng. Thân nhân của ông
xin được thờ cúng ông tại chùa Hải Quang gần Ngã Ba
Ông Tạ, nhưng về sau, không hiểu vì lý do gì, lại thờ
ông tại chùa Phước Hòa vùng Bàn Cờ, Sài Gòn.
Lại
viết thêm.
Tháng
7/ 2013 vừa rồi nhân dịp Hội thảo về Tự Lực Văn
Đoàn do nhà văn Phạm Phú Minh tổ chức tại Nam Cali, tôi
được gặp nhà văn Nguyễn Văn Sâm. Chúng tôi nói với
nhau đủ thứ chuyện, rồi lang bang đến chuyện văn
chương. Tôi nhắc đến Vũ Anh Khanh, Thẩm Thệ Hà, Lý Văn
Sâm, Sơn Khanh, Thiếu Lăng Quân …- những nhà văn, nhà
thơ miền Nam thuộc giai đoạn giữa năm 1945 và 1954 - với
những truyện dài truyện ngắn như Nửa Bồ Xương Khô,
Đầm Ô Rô, Bên Kia Sông, Bạc Xiu Lìn, Xin Đắp Mặt Tôi
Mảnh Lụa Hồng, Thù Nhà Nợ Nước v.v…Tôi nói đến
đâu Nguyễn Văn Sâm nói đến đấy, như “chim liền
cánh, cây liền cành.” Tôi mừng quá, nghĩ đến Tố
Phong. Tôi liền đề cập đến cuốn tuyển tập thơ Thơ
Mùa Giải Phóng do Sơn Khanh chủ biên trong đó có thơ
của Tố Phong, lòng đầy hy vọng nhưng cũng không ít lo
âu. Thì ra Nguyễn Văn Sâm có cuốn đó, và có cả tập
thơ Giòng Huyết Sử của Tố Phong. Đã thế, mấy
hôm sau Nguyễn Văn Sâm nhờ người học trò ở Việt Nam
đến chùa Phước Hòa ở Bàn Cờ, Sài Gòn, chụp tấm
hình của Tố Phong được thờ ở đấy.
Thế
là hơn 10 năm lại trôi qua kể từ ngày tôi may mắn đọc
bài viết của Trúc Chi trên tờ Văn Học Xuân Quý Mùi
2003, và nay, 2013, may mắn hơn, gặp được Nguyễn Văn
Sâm. Ở đời quả có lắm chuyện tình cờ lạ lùng.
Nhìn
lại hình anh Nguyễn Ngọc Minh - Tố Phong, mái tóc dày,
cao, mà không bờm xờm như Trúc Chi nhận xét, tôi rất
xúc động, đồng thời không biết nói gì hơn là cảm ơn
anh chị Nguyễn Văn Sâm vô cùng./
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/09/ngu-thuyet-to-phong.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001