Giáo dục khai phóng, con đường xa ngái… (*)
PGS TS Hoàng Dũng
Đại học Việt Nam từng trải qua nhiều đợt cải cách để mong chấm dứt tình
trạng đào tạo “học sinh cấp 4”, chất lượng đầu ra không cung ứng nổi
cho thị trường lao động đòi hỏi cao. Nhưng trong bảng xếp hạng đại học
thế giới của Times Higher Education – một trong những ấn phẩm xếp hạng
khách quan và uy tín nhất toàn cầu – đến nay vẫn không có một trường đại học nào của quốc gia 90 triệu dân này lọt vào danh sách 400 đại học ưu tú nhất.
Là người hàng ngày trực tiếp giảng dạy trên giảng đường đại học, PGS TS Hoàng Dũng nói:
Bất
chấp chúng ta có những nhà khoa học tầm cỡ thế giới, học sinh chúng ta
đoạt nhiều giải thưởng trong các kỳ thi quốc tế, giáo dục Việt Nam vẫn
bị đánh giá thấp – nghịch lý ấy từ lâu không còn làm ai ngạc nhiên.
Giáo
dục nói chung và đại học nói riêng ở Việt Nam đã trải qua nhiều đợt,
người thì nói nhẹ nhàng “cải cách”, mạnh hơn một chút thì “chấn hưng”,
nhưng cũng có người quyết liệt nói “cách mạng”. Nay thì, theo đúng từ
ngữ của nghị quyết vừa mới thông qua, là “đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo”! “Căn bản, toàn diện” là cách
mạng chứ gì nữa! Nhưng có lẽ lựa chọn cách nói như thế là người ta đã
bắt đầu biết sợ những diễn đạt quá “hoành tráng”.
Tất
cả cho thấy xã hội và các cấp có trách nhiệm đã thấy giáo dục đang
khủng hoảng; và để giải quyết khủng hoảng ấy phải có phương thuốc “trị
căn”, chứ không dừng lại ở “trị chứng”.
Để cải tổ đại học, theo ông phải bắt đầu từ đâu: gốc hay ngọn, hay cả gốc lẫn ngọn?
Nếu
bài toán giáo dục chỉ cần giải quyết ngọn mà xong, thì không thể nhận
định giáo dục Việt Nam, trong đó có đại học, đang khủng hoảng. Nhưng chỉ
chăm chăm lo phần gốc, mà không chú ý thích đáng phần ngọn, thì trong
một thời gian khá dài, bề ngoài vẫn chưa thấy thay đổi gì nhiều, vì
“thuốc” chưa đủ thời gian để ngấm.
Nhà quản lý
bỏ mặc những giải pháp chiến lược, để tập trung vào những vấn đề bề mặt
(như phong trào “Nói không với tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích
trong giáo dục”) thì trước mắt có thể tạo một ấn tượng tốt đẹp nào đó,
nhưng nhất định sẽ thất bại. Ngược lại, nếu bức tranh giáo dục không
được cải thiện trông thấy, thì xã hội không thể chờ đợi, gây áp lực đối
với nhà quản lý. Giáo dục tác động đến toàn xã hội, đến 100% dân số, vì
thế đây là áp lực hết sức lớn. Ở tầm quốc gia, giáo dục là một vấn đề
chính trị. Và không một nhà chính trị khôn ngoan nào lại liều lĩnh đến mức không cần cân nhắc đến điều đó. Giải pháp về giáo dục phải là một giải pháp tổng thể, cân bằng giữa “gốc” và “ngọn”.
Người
thầy, đầu vào của sinh viên, cơ sở vật chất… đều là vấn đề có thực của
giáo dục Việt Nam. Nhưng khó lòng cho đó là những vấn đề quan trọng số
một. Vì chất lượng và số lượng của người thầy, của tân sinh viên, của cơ
sở vật chất không phải tự nhiên mà có. Nó là sản phẩm của một cơ chế
nhất định.
Tự chủ đại học là một trong những cơ
chế như thế. Xin nêu một trường hợp đáng ngẫm nghĩ: khi giáo sư Thí Xuân
Phong (Shih Choon Fong) được chọn làm hiệu trưởng Đại học Quốc gia
Singapore (NUS) năm 2000, ông đã cho tiến hành những cải cách mạnh mẽ.
Tất nhiên, ông bị phản đối gay gắt, đến mức bị Chủ tịch Uỷ ban Giáo dục
của Quốc hội lúc ấy cáo buộc ông đã đảo lộn các chuẩn mực tuyển dụng ở
trường đại học. Mặc, giáo sư Thí Xuân Phong vẫn cứ làm theo ý ông. Kết
quả đến năm 2004, NUS đã có một cuộc thăng hạng ngoạn mục: vươn lên đứng
thứ 18 trong các trường đại học tốt nhất thế giới, theo xếp hạng của Times. Giả
sử giáo sư Thí Xuân Phong làm hiệu trưởng một trường Việt Nam trong
khuôn khổ cơ chế hiện nay, tôi tin giáo sư sẽ bị cách chức trước khi
thấy kết quả công việc của mình.
Theo
ông, tự do học thuật có vai trò và giá trị thế nào trong cách tân giáo
dục nước nhà vào thời điểm hiện tại? Có rào cản nào không về ngân sách -
thể chế trong việc thực hiện không gian tự do học thuật và đảm bảo chất
lượng đào tạo đại học?
Tự chủ đại học
không chỉ là tự chủ về mặt hành chính mà quan trọng không kém, thậm chí
có thể nói là quan trọng hơn, là tự do học thuật. Ở ta, tự chủ về mặt
hành chính tuy khó nhưng còn dễ hơn là chuyện tự do học thuật. Người ta
không quen. Đã xảy ra chuyện một cơ quan quyền lực biên soạn giáo trình
đại học, buộc tất cả các trường phải dùng làm tài liệu chuẩn. Đã xảy ra
chuyện một cơ quan hành chính ra lệnh kiểm điểm những giáo sư đánh giá
cao một luận văn thạc sĩ văn học, vì cho luận văn đó “có quan điểm sai
trái”.
Không ai lú lẫn đến mức khẳng định tất cả
hoạt động học thuật nói chung và ở đại học nói riêng đều đúng đắn.
Nhưng vấn đề là cần phải giải quyết ở góc độ học thuật và bằng học
thuật. Để bất cứ quan điểm ngoài học thuật nào xen vào, dù dưới bất cứ
danh nghĩa nào, “chính đáng” hay “cao cả” đến đâu, cũng làm phương hại
đến học thuật. Năm 1956, trong bài “Muốn phát triển học thuật”, Đào Duy Anh đã than: “Trong
địa hạt khoa học tự nhiên, sự xâm phạm của những cán bộ chính trị vào
địa hạt chuyên môn như thế cố nhiên là rất trở ngại cho công tác chuyên
môn, nhất là công tác nghiên cứu khoa học. Trong địa hạt khoa học xã hội
thì mối tệ cũng không kém”. Chắc ông không tưởng tượng được rằng gần 60 năm sau, “mối tệ” ấy vẫn còn!
Đại
học là trí tuệ của đất nước, là nơi sinh dưỡng hiền tài. Mà như một câu
nổi tiếng của Thân Nhân Trung khắc trên tấm bia tiến sĩ đầu tiên của
Văn Miếu Quốc Tử Giám: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí
thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu
mà thấp hèn”. Khoá cho thật chặt để tránh gió độc, thì cũng bịt lối vào
của gió lành. Hiền tài nào sống được trong môi trường thiếu dưỡng khí
đó!
Còn chuyện tiền bạc? Khó lòng cải cách giáo
dục mà không có đủ tiền hay chính xác hơn, không quyết tâm dành tiền cho
giáo dục. Có tốn nhiều tiền không? Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn đã tính toán
là để nâng cấp và xây dựng mới khoảng 200 bộ môn ở các trường đại học
đủ trang thiết bị hiện đại và hàng năm mời 200 chuyên gia nước ngoài đến
làm việc trong vòng 10 năm thì tốn chừng 125 triệu USD/năm. Để so sánh,
xin nhắc kinh phí làm đường cao tốc Bến Lức - Long Thành là 28 triệu
USD/km.
Thật ra, nguồn tài chính cho giáo dục
không thể chỉ trông cậy vào ngân sách nhà nước. Nhưng một khi đại học
trở thành một trong những thiết chế không thể thiếu của nền kinh tế, thì
xã hội sẵn lòng chi tiền. Sự sẵn lòng ấy về căn bản không phải xuất
phát từ lòng tốt, mà do đồng tiền bỏ ra thu được lãi. Ở Mỹ, 70-80% ngân
sách của các đại học đến từ tài trợ của các công ty, của hợp đồng nghiên
cứu hay triển khai khoa học… Xã hội đặt hàng và đại học đáp ứng. Và
điều đó làm ra tiền. Ở ta, khái niệm “xã hội hoá” giáo dục hầu như bó
hẹp trong chuyện bắt phụ huynh học sinh phải xuỳ tiền ra!
Cho
nên, cách tân giáo dục là chuyện vượt tầm của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo. Nó là chuyện thể chế. Nó là chuyện quyết tâm chính trị của cơ
quan cao nhất.
Trong khi chờ đợi giáo dục Việt
Nam cất cánh, những người có tiền hay có thế lực hoặc may mắn, giải
quyết theo cách mà báo chí gọi là “tỵ nạn giáo dục”. Nhưng đa số người
dân Việt thì đành phải chịu một nền giáo dục như nó có.
Đề
án đổi mới toàn diện giáo dục lần này đặt vấn đề “trước đây nặng về dạy
chữ, nhẹ dạy người”… Vậy mục tiêu của đại học là đào tạo ra những con
người như thế nào?
Đánh
giá rằng “trước đây nặng về dạy chữ” là không đúng. Vì nếu thế, không
thể lý giải được tại sao đã “nặng về dạy chữ” mà chất lượng sinh viên
nhìn chung vẫn thấp. Còn “nhẹ về dạy người”? Nếu căn cứ vào lời lẽ và cơ
chế, thì giáo dục Việt Nam không hề xem nhẹ vấn đề này. Trái lại, còn
quá nặng. Không khó khăn để trích dẫn những câu chữ trong các văn bản
chính thức nhấn mạnh đến việc “dạy người”. Nhưng dạy thành công hay
không, là chuyện khác. Chính xác hơn, nhà trường ta nhẹ về dạy người lẫn dạy chữ!
Một
nền giáo dục khai phóng, là mở ra những chân trời rộng lớn, ở đó con
người tự do, tự chủ. Đó là mục đích của một nền giáo dục đích thực, bất
cứ thời nào và nơi nào. Đất nước có thể “rũ bùn đứng dậy sáng loà”,
“sánh vai với cường quốc năm châu” được không, nếu thiếu điều đó? Nhưng
hiện nay và ở ta con đường đi đến nền giáo dục khai phóng còn xa ngái!
Riêng
đại học sư phạm – trường có vị trí hàng đầu trong câu chuyện cách tân
giáo dục – vẫn đứng trước thách thức “chuột chạy cùng sào…”, theo ông
phải cải tổ như thế nào?
Truyền
thống Việt Nam đề cao “tôn sư trọng đạo”. Nhưng người thầy nay đã “mất
giá” theo nghĩa đen. Một cuộc điều tra gần đây cho thấy thu nhập bình
quân từ lương và phụ cấp của giáo viên từ 3 đến 3,5 triệu đồng/tháng;
sau 25 năm giảng dạy mới có mức lương 4,1-4,7 triệu đồng/tháng; và đến
50% số giáo viên lương thấp hơn mức lương bình quân. Trong hoàn cảnh đó,
nhấn mạnh đến “thiên chức cao quý” của nghề giáo chỉ là một sự mỉa mai,
làm tăng vị cay đắng cho nghề sư phạm. Chưa từng thấy một quốc gia nào
có nền giáo dục phát triển, mà lương nhà giáo lại thấp (lương trung bình
một năm của giáo viên ở Singapore là 45.755 đô la, ở Hàn Quốc, Mỹ, Đức
và Nhật Bản đều trên 40.000 đô la).
Trong sự
xuống cấp chung của đại học, sự xuống cấp của đại học sư phạm phải gây
cho những người có trách nhiệm biết nghĩ xa và sâu một sự lo lắng đặc
biệt. Vì điều đó rút cục sẽ tác động tệ hại đến giáo dục nói chung.
Một
quan chức lớn có nói với tôi rằng tăng lương cho giáo viên không dễ. Vì
giáo viên có số lượng đông đảo (theo Tổng cục Thống kê, số giáo viên
phổ thông năm học 2010-2011 là 830.900 người). Vì các ngành khác “tỵ nạnh”. Nhưng chính vì thế mà như đã nói ở trên, giáo dục cần đến quyết tâm chính trị của cơ quan cao nhất.
Xin
nói thêm: Đã không còn hiếm việc phải chạy chọt, có khi mất hàng trăm
triệu, mới có một chân giáo viên. Lương thì thấp, phải dạy không công
bao nhiêu năm mới bù được? Nhiều sinh viên sau khi tốt nghiệp không thể
kiếm việc làm đúng chuyên môn, đã tâm sự với tôi đầy chua xót. Hơn 30
năm giảng dạy ở trường đại học sư phạm, tôi chưa từng thấy tình hình
nặng nề như thế. Tăng lương cho nhà giáo là cần, nhưng đã đủ chưa?
Tác
gia Mỹ W.A. Ward từng nói: “Người thầy trung bình chỉ biết nói, người
thầy giỏi biết giải thích, người thầy xuất sắc biết minh hoạ, người thầy
vĩ đại biết truyền cảm hứng”, nghĩa là sao thưa ông?
Trong
một cuộc hội thảo về văn hoá, giá o sư Hoàng Tuỵ nhận xét rằng người
Việt Nam học phổ thông thì không đến nỗi nào, nhưng lên đại học thì kém
hơn, và ở bậc trên đại học thì thua xa so với các nước tiên tiến. Giáo
sư cho rằng đó là do người Việt thiếu óc tưởng tượng. Rất có thể.
Cảm
hứng chỉ được nuôi dưỡng khi nảy mầm trên những mảnh đất mới mẻ. Thầy
giáo truyền được cảm hứng là nhờ biết gieo hạt tưởng tượng trong tâm trí
người học, cung cấp cho họ năng lượng cần thiết để vượt qua những khổ
nhọc trên con đường khám phá. Chân trời của tưởng tượng vốn không có
biên độ. Ở đấy con người thoát ra những lẽ thường và hoàn toàn tự do.
Nhưng như thế thì ta lại quay về chuyện “tự do học thuật”!
Cho
nên, có một cách giải thích khác với ý kiến của giáo sư Hoàng Tuỵ. Cũng
là người Việt Nam, tại sao ở nước ngoài nhiều người Việt học hành, làm
việc chẳng thua ai? Tưởng tượng, như thế, còn là do môi trường. Làm sao
cho nhà trường Việt Nam trở thành một nơi chốn khuyến khích người học
tha hồ tưởng tượng mà chẳng sợ ai chê trách, thậm chí đe doạ? Những thứ
“văn mẫu”, “tư tưởng mẫu”, “giải pháp mẫu”, “con đường mẫu”… không thể
là vòng kim cô trói buộc đầu óc của con người. Khai phóng là ở đó, chứ
đâu nữa!
Minh Nguyễn thực hiện
|
(*) Trả lời phỏng vấn báo Người đô thị (số 08 bộ mới, ra ngày 7.11.2013). Do khuôn khổ có hạn, một số câu bị cắt (đánh dấu màu đỏ).
Người trả lời phỏng vấn gửi trực tiếp cho BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 05:37
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/11/giao-duc-khai-phong-con-uong-xa-ngai.html
======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001