Nguyễn Hoài Vân - KY TÔ GIÁO VÀ VIỆC CHÍNH TRỊ
at 11/10/2013 05:52:00 PM
Nguyễn Hoài Vân -
Tuy trên mặt tư tưởng thuần tuý, ý niệm TÌNH YÊU phải được coi như trụ cột
của Ky Tô Giáo (đọc bài Ky Tô Giáo), nhưng để hiểu vai trò của tôn giáo này
trong lãnh vực chính trị, người ta cần chú ý đến hai yếu tố khác:
1
Khái niệm
“mặc khải “
2
Và sự
tương quan giữa Ky Tô Giáo với đế quốc La Mã thời xưa.
KHÁI
NIỆM “MẶC KHẢI” :
Như đã nói ở phần trước, chữ “ Mặc Khải” được dùng để chỉ việc Thiên
Chúa hoặc sứ thần của ngài trực tiếp truyền dạy chân lý cho một vài người được
chọn, gọi là “tiên tri” . Do Thái Giáo, Ky Tô Giáo và Hồi Giáo đều là những tôn
giáo được truyền giảng bởi các “tiên tri”.
Khi nói đến mặc khải, người ta buộc phải phân ra hai hạng người:
- Những người nắm giữ
chân lý, tức các tiên tri và những kẻ nối tiếp vai trò của các tiên tri sau
này.
- Và những người không
nắm giữ chân lý, tức tuyệt đại đa số nhân loại.
Vừa phân ra hai loại người như trên, lại vừa quan niệm chỉ có một chân
lý tuyệt đối, duy nhất, không thể nghi ngờ, không được bàn cãi (vì do chính Thiên Chúa truyền lại),
người ta quan niệm ngay được những hệ thống quyền hành tập trung, trong đó kẻ nắm
“chân lý” hoàn toàn chỉ huy nhưng người còn lại. Quyền chỉ huy này có tính cách
tuyệt đối vì đến thẳng từ Thiên Chúa. Người nắm quyền hành ấy đã được Chúa chọn
và mọi quyết định của người này
đều phản ánh ý Chúa. Kết quả là một hệ thống trong đó người ta không mấy chấp
nhận việc mỗi người tự lực đi tìm chân lý theo con đường thích hợp với mình,
phù hợp với những nhân duyên của cuộc sống riêng. Vì thế, những khuôn khổ khắt
khe đã được đặt ra với những biện pháp chế tài, trừng phạt, nhiều khi rất
nghiêm ngặt, để giữ cho “chân lý” chỉ đến từ một nguồn gốc duy nhất.
Thuyết mặc khải đã phải chịu một số thay đổi trong thời
gian:
Ở thới kỳ đầu của Do Thái Giáo, thuyết này được áp dụng gần như hoàn
toàn. Thật vậy, suốt nhiều thế kỷ, quyền hành tôn giáo lẫn chính trị đều trực
tiếp nằm trong tay các tiên tri. Sau đó, kể từ thế kỷ XI trước Công Nguyên, dân
Do thái được cai trị bởi một chế độ quân chủ cha truyền con nối, nhưng các tiên
tri vẫn gián tiếp can thiệp vào việc chính trị. Thậm chí họ có thể lập hẳn lên
một triều đại, hay ngược lại, vận động lật đổ một giòng vua bị coi là phản lại Thiên
Chúa. Quyền lực chính trị của các vị này rất mạnh, dù cho họ đứng về phía chính
quyền hay ở từ thế đối lập. Sau thời gian bị lưu đầy ở Babylone, dân Do thái dựng
nước trở lại và các tiên tri cũng từ từ thưa thớt dần trước khi biến mất.
Malachie (Thế kỷ V trước Công Nguyên) thường được Do Thái
Giáo coi như vị tiên tri quan trọng cuối cùng. Khi ấy, quyền lực của các tiên tri được
“bàn giao” cho một hệ thống giáo quyền. Trong giai đoạn người Do Thái còn có một
quốc gia, thì một trong những bổn
phận trọng yếu của giáo quyền này là bảo vệ tính chất đồng nhất trong việc giải
thích “ý Chúa “đã được các tiên tri truyền lại, hay nói cách khác bảo vệ sự thống
nhất tư tưởng (*).
Ky Tô Giáo thừa hưởng di sản của Do Thái Giáo. Tuy nhiên, ở thời kỳ đầu
của Giáo Hội Công Giáo, cơ cấu tổ chức giáo quyền chưa được chặt chẽ nên sự thống nhất tư tưởng
chưa hoàn chỉnh lắm. Một thí dụ đã được nói ở bài trước là những tranh luận
quanh việc Đức Ky Tô vừa là người vừa là Chúa, với nhiều trường phái đối nghịch
nhau (xem bài Ky Tô Giáo). Dần dần hệ thống giáo điều được quy định một cách rõ ràng và chỉ còn một
cách duy nhất để giải thích “Lời Chúa” : đó là cách giải thích chính thức của
toà thánh La Mã. Đức Giáo Hoàng được coi như đại diện của Đức
Ky Tô ở trần gian, và chính Thánh Thần Thiên Chúa phát biểu qua Ngài.
Khi có một số người Ky Tô Giáo đòi được tự do hiểu “Lời Chúa” tức từ bỏ
nguyên tắc thống nhất tư tưởng, thì liền xảy ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng.
Tự do giải thích “Lời Chúa” không tránh khỏi cho ra đời nhiều
giáo phái (người mình gọi là
"Tin Lành") tách rời khỏi Giáo Hội La Mã, từ chối sự lãnh đạo của Đức
Giáo Hoàng. Điều này đã đưa đến những cuộc thánh chiến với vô số người thiệt mạng
và nhiều biến chuyển chính trị quan trọng.
Nhưng rồi tư tưởng cho phép tự
do hiểu lời Chúa, qua nhiều thế kỷ, cũng đã len lỏi được vào chính giáo quyền
La Mã. Có thể coi như sự chuyển hướng này đã được chính thức hoá từ Công Đồng Vatican II (1962 -1965 ). Quan niệm “không có sự cứu rỗi
ngoài Giáo Hội” dần dần lùi bước. Không những Giáo Hội La Mã không còn chủ trương ném xuống hoả ngục tất cả tín đồ của các Giáo Phái
Tin Lành, tức những người anh em Ky Tô Giáo khác, mà Giáo Hội cũng “tha” luôn
cho cả những người ngoài Ky Tô Giáo, không tin nơi Đức Ky Tô, miễn là họ sống một
cuộc đời thánh thiện, nhân ái. Và trong khi Toà Thánh lập ra những tiểu ban để
trao đổi trên mặt tư tưởng và giao hảo với hầu hết các Tôn Giáo từ Đông sang
Tây, thì các nhà Thần Học đề ra quan niệm “Phần Hồn của Giáo Hội” bao gồm mọi
người sống theo tinh thần của sự giảng dạy của Đức Ky Tô mà
không cần biết đến Đức Ky Tô, đối lại với “phần xác của Giáo Hội” tức những người Công Giáo thực thụ.
Tới đây, ta có thể nhận định rằng: thuyết mặc khải và những di sản của
nó đã phải lùi bước với thời gian. Tuy không có thì giờ nghiên cứu sâu xa,
nhưng tôi vẫn nghĩ rằng tư tưởng Đông Phương đã đóng một vai trò quan trọng
trong sự lùi bước này.
Gần đây, ông Salman Rushdie, một tác giả tự nhận mình là người Hồi Giáo, trong tác phẩm
The Satanic Verses, có đề ra một quan điểm về sự mặc khải như sau:
Nhân vật Mahound (được coi như tượng trưng cho tiên tri Mahomet) lên núi
vào một hang đá để đón nhận lợi Chúa. Ông tự đặt mình vào một tư thế đặc biệt rồi
cảm thấy từ người ông có một cái gì đó thoát ra
ngoài, trước mặt ông : đó là thiên thần Gabriel, hiện đến truyền dạy cho ông lời
Chúa. Có lần ông bị lừa, và thay vì thiên thần Gabriel ông lại thấy ác quỷ
Satan hiện ra, đọc cho ông ghi lại những “câu kinh của Ác Quỷ” (Satanic
Verses). Trong diễn tiến câu chuyện, tác giả cho ta hiểu không những Thiên Thần
Gabriel là Mahound, mà cả Ác Quỷ Satan cũng là Mahound nốt. Tất cả đều chỉ là
Mahound và chỉ có Mahound tĩnh tâm trong động đá mà thôi chứ không có quỷ thần
nào cả (ông Rushdie lại còn cắc cớ cho câu chuyện Mahound chỉ là những giấc mộng
của một anh tài tử điện ảnh Ấn Độ chuyên đóng vai Thần thánh, và hơi…điên !) Mặc khải ở đây có thể được hiểu như một sự
giác ngộ theo nghĩa của nhà Phật. Salman Rushdie với ảnh hưởng tư tưởng Ấn Độ
phải chăng đã muốn đẩy lùi khái niệm mặc khải trong Thiên Chúa Giáo ? (xin nhắc lại là Hồi Giáo cũng là một
trong ba nhánh chính của Thiên Chúa Giáo).
TƯƠNG
QUAN GIỮA KY TÔ GIÁO VÀ ĐẾ QUỐC LA MÃ THỜI XƯA:
Nếu “Mặc Khải” có thể được lấy làm căn bản cho chủ trương thống nhất tư
tưởng với quyền uy tuyệt đối của một giáo quyền triệt để bảo vệ một chân lý duy nhất, khái niệm này vẫn chưa đủ để giải
thích phương thức tổ chức trung ương tập quyền của Giáo Hội La Mã. Một số yếu tố
khác cần được chú ý, đặc biệt là mối quan hệ giữa Ky Tô Giáo và Đế Quốc La Mã
thời xưa.
Đế Quốc La Mã thường phải đối đầu với hiểm hoạ những địa phương nổi lên
chống lại quyền hành trung ương. Đế Quốc lại vốn đa thần, theo ảnh hưởng của
cổ Hy Lạp (và khối văn hoá Ấn Âu). Khổ nỗi, việc những phe nhóm, giai cấp hay địa phương thờ những
thần linh khác nhau chỉ làm cho nguy cơ tan rã của Đế Quốc càng thêm trầm trọng.
Ý thức
được điều ấy, trong nhiều năm dài,
người ta đã cố sức suy tôn Hoàng Đế La Mã lên địa vị thần linh, bắt mọi người phải phụng thờ, như một
tín ngưỡng duy nhất trên toàn Đế Quốc.
Tuy nhiên, ai cũng biết điều này chỉ có giá trị hình thức, ít kẻ nào ngây thơ đến
độ coi đó như một tôn giáo thực thụ. Vì thế, đến một lúc nào đó, cần một “mô hình“ tâm linh khác để giúp cho Đế
Quốc khỏi tan rã. Hoàng Đế Constantin (280 – 337 ) đã tìm ra mô hình này: chỉ cần
thay thế tín ngưỡng đa thần cũ bằng một
tôn Giáo độc thần có sức hấp dẫn mạnh. Tôn Giáo Độc thần này, trong bối cảnh lịch
sử thời đó, không gì hơn Ky Tô Giáo. Dưới lá cờ thập tự giá, các đạo
binh của Constantin đã có một lý tưởng mới, một khí thế mới, để chinh phục lại
những vùng đất không phục tùng Hoàng Đế,
bắt mọi “sứ quân” phải quy thuận về một mối, nhân danh Thiên Chuá toàn năng và “lòng lành vô
cùng” (!). Một sự ngẫu nhiên đáng được ghi nhận là khi Constantin triệu tập
công đồng Nicea
để thống nhất tư tưởng Ky Tô Giáo (xin đọc bài Ky Tô Giáo), loại bỏ các trường
phái bị kết án là “lác giáo”, thì ông cũng vừa thực hiện được sự thống nhất Đế
Quốc khi đánh bại kẻ địch cuối cùng của ông là Licinius. Contantin đã gắn liền
Giáo Hội Công Giáo với Đế Quốc La Mã.
Rồi, Đế Quốc La Mã như mọi Đế Quốc khác, cũng phải sụp đổ. Giáo Hội La
Mã không những không sụp đổ theo mà còn bành trướng mạnh, mở rộng bờ cõi của Đế Quốc cũ đến những chân trời mới, có khi
rất xa xôi …Có thể nói, dưới một
khía cạnh nào đó, Giáo Hội Công Giáo đã
nối tiếp sự nghiệp của Đế Quốc La Mã.
Sự tổ chức của Giáo Hội Công Giáo, từ thời Hoàng Đế Constantin, nhằm mục
đích tập trung quyền hành về một mối. Chiều hướng này vẫn được giữ gần như y
nguyên sau khi Đế Quốc La Mã sụp đổ. Cách tổ chức trung ưong tập quyền khiến Giáo Hội có được điều kiện thuận lợi
để đóng một vai
trò chính trị quan trọng, trong suốt dòng lịch sử.
VÀI
TRÒ CHÍNH TRỊ CỦA KY TÔ GIÁO TRONG THỜI ĐẠI CHÚNG TA:
Hầu hết các quốc gia theo truyền thống Ky Tô Giáo hiện nay đều chủ
trương tách rời tôn giáo khỏi chính trị. Vai trò chính trị của Ky Tô Giáo hiện nay chỉ còn dựa trên uy tín và sức
mạnh ngoại giao của hệ thống giáo quyền, đặc biệt là của Đức Giáo Hoàng và toà
thánh Vatican. Vai trò này có thể được tăng cường trong tương lai, cùng với khuynh hướng "trở về truyền thống"
(fondamentalisme) tại một số nơi.
Sự mất tin tưởng nơi thuyết Cộng Sản cũng có thể khiến một số người nghèo khổ trên thế giới
đến với Giáo Hội. Những hình thức chuyển tiếp, như sự kiện một số giáo quyền và
giáo dân bày tỏ lập trường thiên tả, có thể là một trong những dấu hiệu của
điều này. Việc các Đức Giáo Hoàng gần đây, đặc biệt là đức Gioan Phao Lồ đệ
nhị, không ngừng đến thăm các nước
nghèo nhất trên địa cầu cũng rất đáng được chú ý.
Chúng ta cũng cần phải hiểu rằng sự kiện một tôn giáo mang một vai trò chính trị không
đương nhiên là không tốt . Nếu vai trò chính trị này phục vụ một mục tiêu tốt
thì sự
kiện ấy vẫn …tốt. Cái khó là khi
người ta không đồng ý được với nhau trong sự lựa chọn cái nào tốt cái nào xấu. Dân chủ có thể là một
cách giải quyết khó khăn này, với điều kiện là mọi người chịu chấp nhận dân chủ.
Phải công nhận là Giáo Hội Công Giáo hiện nay vẫn còn giữ truyền thống
trung ương tập quyền, từ chối dân chủ đa nguyên trong nội bộ của mình, nhưng
trên lĩnh vực chính trị phổ quát, thì mọi phát biểu chính thức của Toà Thánh
Vatican, và của các Đức Giáo Hoàng gần đây đều hoàn toàn ủng hộ lý tưởng dân chủ.
CÔNG
GIÁO VÀ VIỆC NƯỚC VIỆT NAM :
Giai đoạn thực dân :
Công Giáo đã phát triển ở nước ta trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt.
Trong một bài viết khác, chúng tôi đã đề nghị một trong những nguồn gốc của nạn phân hóa của xã hội
VN : đó là sự đụng chạm của văn minh sắt thép Tây Phương với cái bình quý Á
Đông. Cái bình quý đã phải chịu tan vỡ, mỗi mảnh vụn văng đi
một nơi, để rồi không còn bao
nhiêu mảnh biết ý thức mình là thành phần của cùng một cái bình quý. Kết quả là
những mảnh vụn ấy quay ra thù hằn
nhau, giết hại nhau. Ky Tô Giáo đã phát triển trong giai đoạn đầu của sự đổ vỡ
này, lúc “tâm tư quốc dân bị bỏ ngỏ”. Tâm tư quốc dân bị bỏ ngỏ vì họ đã mất
tin tưởng ở sở học truyền thống của tiền nhân trước uy dũng của văn minh cơ khí
Tây Phương ...
Một trong những duyên cớ được thực dân Pháp nêu ra để biện
minh cho sự đánh chiếm nước ta là việc
triều đình Việt Nam bắt bớ, giết hại người Công Giáo. Pháp đã vào Việt
Nam qua ngưỡng cửa Giáo Đường, và Giáo Hội Công Giáo Việt Nam “bị“ vào lịch sử
qua họng súng của thực dân. Đây không phải là lỗi của người Công Giáo Việt Nam.
Trong số họ có nhiều người đã anh dũng hy sinh cho độc lập và tự do của dân tộc.
Kể đến những chuyện này, tôi không khỏi nhớ đến một Giáo sư Việt Văn của
tôi lúc còn
trung học, là ông Bùi Quang Nga (từng làm dân biểu đệ nhất cộng hoà). Ông hay đọc cho học trò nghe một bài biểu bằng chữ Hán của một linh
mục Việt Nam dưới thời chiến tranh Việt Pháp vào thế kỷ 19, đề nghị nhà vua lập nên những Đạo Quân “Gia
Tô” để đánh Pháp. Thày tôi nhấn mạnh : “Người Công Giáo Việt Nam trước tiên là người Việt Nam!”
Còn vai trò của các giáo sĩ Pháp ?
Khi Đức Giáo Hoàng Gioan Phao Lồ đệ nhị viếng nước Côte d’Ivoire, ngài
đã đến khánh thành Thánh Điện
Yamoussoukro. Thánh điện vĩ đại này được xây cất theo mô hình của Thánh Điện Saint
Pierre ở Vatican, với những chi phí khổng lồ trong bối cảnh một xã hội bần
cùng, nghèo đói. Nhiều nhà bình luận ở Pháp gọi đó là một di
tích của “thực dân tín ngưỡng” (colonialisme religieux). Thật vậy ở thời thực
dân, đương nhiên là một số lớn giáo sĩ Tây Phương đã có những chủ trương kiểu
như “đem Phúc Âm đến mọi nơi, bằng mọi cách”, và trong số họ không khỏi có kẻ bị
cám dỗ lợi dụng thể lực của chính quyền thực dân để chèn ép những tôn giáo “bản
xứ” hầu đưa Ky Tô Giáo lên ngôi vị độc tôn. Có những chứng liệu của giáo sĩ Pháp khuyên chính quyền
thực dân nên nỗ lực diệt Nho học vì tinh thần
Nho Phong Sĩ Khí là một mầm mống chống đối quan trọng, có hại cho người Pháp lúc đó, và cả cho Giáo Hội.
Sau thời Pháp thuộc :
Tuy nhiên, để cho công bằng, cũng phải nghĩ đến các giáo sĩ Tây Phương đến
nước ta làm việc thiện, giúp đỡ những kẻ tật nguyền, đau, yếu, nghèo khổ, và
bên cạnh các ông cố đạo thực dân hung hăng kiêu hãnh, ta cũng có vô số thí dụ tốt. Tôi nghĩ đến những
người như Đức Cha Cassaigne, từ bỏ chức Tổng Giám Mục Sài Gòn đến sống ở một trại
cùi, phục vụ người cùi, rồi mắc bềnh cùi như họ, và chết trong sự quên lãng của
mọi người. Tôi cũng nghĩ đến một vị linh mục thuộc dòng "Tiểu Đệ", được gặp trong đám khách của nhà dòng Châu
Sơn (đọc bài Ky Tô Giáo). Ông rất thông thái, nhưng từ bỏ tất cả, sống trong một
căn chòi, làm việc lao động cực nhọc suốt ngày giữa những người Việt nghèo khổ.
Tôi còn nghĩ đến một nữ tu con nhà quý phái, có nhan sắc lộng lẫy, sau khi dạy
học một thời gian ở Sài Gòn, xin đến làm việc ở một trại cùi…và còn nhiều thí dụ
khác.
Sau thời Pháp thuộc, đương nhiên là ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo từ
từ giảm đi:
Ảnh hưởng ấy còn mạnh mẽ trong thời Đệ nhất Cộng Hoà, rồi nhường chỗ cho
Phật Giáo trong vài năm sau cuộc đảo chánh 1963, để lại từ từ tăng trưởng trở lại
với một số phong trào chính trị khá quy mô.
Sẵn dịp xin kể lại một giai thoại như sau:
Trước khi có những dấu hiệu cho biết ông Ngô Đình Diệm sẽ ra làm thủ tướng,
một cộng sự viên của ông Trần Văn Ân là ông Hồ Hán Sơn có việc đến gặp ông Ngô
Đình Nhu tại toà báo Xã Hội, đường d’Ypres Sài Gòn. Ông Nhu lúc ấy điều khiển tờ
báo này. Trong cầu chuyện, ông Nhu mở tờ Xã Hội ra, đặt cạnh tờ Đời Mới của ông
Ân, và nói:
“Anh coi, dù cho tất cả bài vở trong Đời Mới có hơn hẳn bài vở trong báo
Xã Hội của chúng tôi, rốt cuộc rồi chúng tôi cũng sẽ cầm quyền, chứ không phải
các anh”.
Trước cái nhìn dò hỏi của ông Hồ Hán Sơn ông Nhu nói tiếp:
“Chúng tôi có Vatican ở sau lưng”.
Ông Sơn về thuật lại cho ông Ân, và được nghe trả lời :
“ Dám lắm chứ không phải chơi, vì Âu Mỹ tin người Công Giáo và các cha cố
hơn những người Việt khác. Ông Nhu nói Vatican là nói hệ thống Công Giáo có
liên lạc với nước ngoài đó”.
Nhận xét này hoàn toàn phù hợp với tâm lý thông thường. Khi ta muốn cộng
tác làm ăn với người khác, hay đơn giản hơn là thuê người làm công, thì ta thường chọn
những người có cái gì chung với mình, gần với những gì mình quen thuộc. Người
Tây Phương cảm thấy thân thuộc với các cha cố hay với những người cùng tín ngưỡng
với họ, hơn là với các nhà sư hay người Phật tử. Đó chỉ là “tâm lý bộ lạc” !
Ngày
nay Công Giáo đóng vai trò gì trong việc nước Việt Nam ?
Điều chắc chắn là Giáo Hội Công Giáo có một tiềm năng chính trị rất lớn
do nhiều yếu tố như:
-
Tổ chức chặt chẽ dựa trên một sự chỉ huy
thống nhất và số “cán bộ“ đông đảo, được tuyển chọn và huấn luyện rất kỹ lưỡng
(7 năm Đại Chủng viện, chưa kể những năm tập sự và những năm tiểu Chủng Viện).
-
Giáo dân có một truyền thống đoàn kết,
nhiều cố gắng vươn lên trong cuộc sống, và một trình độ hiểu biết trung bình
tương đối cao, khiến họ có nhiều khả năng trong những lĩnh vực then chốt (đây
là những phản ứng thông thường của các tập thể có mặc cảm thiểu số).
-
Sự liên lạc quốc tế dễ dàng hơn nhiều tổ chức khác, dựa trên hệ thống giáo quyền
và sức mạnh ngoại giao của toà Thánh Vatican.
Tóm
lại,
Công Giáo
đã đang và sẽ là một lực lượng chính trị mạnh ở Việt Nam. Tất cả các
nguyên thủ quốc gia Việt Nam từ sau triều Nguyễn, đều hoặc là người Công Giáo,
hay người Cộng Sản. Trong bối cảnh phát triển của dân tộc chủ nghĩa cực đoan, nếu người ta không cố gắng làm mọi cách để
tránh những thái độ quá khích từ cả hai phía, thì người Công Giáo Việt Nam có nguy cơ sẽ trở thành vật tế thần của những thế lực phi
nhân.
Việc nhiều giáo sĩ và Giáo dân Công Giáo gần đây hết lòng tuyên dương và
phát huy tinh thần dân tộc cũng như nền minh triết của tiền nhân, là một khích
lệ lớn trong chiều hướng này.
Bên cạnh đó, người Công Giáo cũng cần phải trở thành những tác nhân mạnh mẽ cho những
cải tổ xã hội có ích lợi thực sự cho người dân. Giáo quyền cần nghĩ đến quyền lợi
của đất nước nhiều hơn là quyền lợi của một tập thể. Ý thức “Công Giáo như một
thành phần mang lại lợi ích cho cộng đồng dân tộc”, cần phải
được vun bồi hàng ngày, cần được
nuôi dưỡng bằng thiện chí, bằng nỗ lực, bằng dấn thân, và hy sinh.
Nguyễn Hoài Vân
1990
Chú
thích :
(*) Sau
khi người Do Thái mất nước và phải sống lưu vong ở nhiều nơi, thì việc bảo vệ một
hệ thống giáo điều thuần nhất biến thành nỗ lực duy trì truyền thống lễ nghi,
phong tục.
Xem :
http://nguyenhoaivan.com/default.asp?do=news_detail&id=634&kind=10
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/11/nguyen-hoai-van-ky-to-giao-va-viec.html
=================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001