Võ Thị Điềm Đạm
Viết theo lời kể của Má, chị em và những gì đã in sâu trong trí nhớ của một cô bé mười-mười một tuổi.
Trước 75, Đồng Kho, một xã của quận Tánh Linh thuộc tỉnh Bình Tuy.
Vì tỉnh Bình Thuận được nhiều người biết đến qua ngành ngư nghiệp lâu
đời cũng như thương hiệu nước mắm Phan Thiết và những đồi cát tiếp nối
đồi cát long lánh ngập mắt; vì từ bao thế kỷ, tỉnh Bình Thuận được xem
là miền đất nối liền Trung phần với Nam phần và giọng người Bình Thuận
được phê là Trung không ra Trung, Nam không ra Nam; và vì chữ Bình nên
nhiều người hiểu lầm Bình Tuy là một quận của tỉnh Bình Thuận. Nhưng
chữ Bình trong tường hợp này không đủ sức bảo bộc cho số phận long đong
của tỉnh Bình Tuy.
Từ tháng 10 năm 1956, một phần đất thuộc phía bắc tỉnh Đồng Nai và
một phần đất thuộc phía nam tỉnh Bình Thuận như Tánh Linh, Hàm Thuận
Nam và Hàm Tân được xáp nhập lại thành tỉnh Bình Tuy. Theo thời chính
phủ Việt Nam Cộng Hòa, Bình Tuy thuộc quân khu 3, là một trong hai mươi
hai tỉnh của Nam phần. Sau năm 1976, tỉnh Bình Tuy, Bình Thuận và Ninh
Thuận được sáp nhập lại thành tỉnh Thuận Hải. Thế là tên Ninh Thuận,
Bình Thuận và Bình Tuy chết tức tưởi, nhưng đó là chỉ trên phương diện
hành chánh.
Cho đến năm 1991, tỉnh Thuận Hải lại được chia hai: Ninh Thuận và
Bình Thuận. Điều đó nghĩa là Ninh Thuận và Bình Thuận được lấy lại tên
cũ nhưng Bình Tuy trở thành huyện Tánh Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Nam, Đức
Linh và thị xã La Gi trực thuộc tỉnh Bình Thuận.
***
Tiếng heo eng éc cố vùng vẫy bỗng nhiên rống lên thống thiết,
tiếng rống vừa như hoảng hốt vừa như oán hờn khi con dao trên tay chú
Hai Dẹo thọc nhanh vô phần cuối cổ họng căng cứng vì khối không khí dồn
từ buồng phổi để lấy sức cho thanh quản. Máu phun mạnh vô cái thau dì
Năm Hiển đang chờ sẵn. Dì Tư Xuân thảy nắm muối vô thau, quậy nhanh đôi
đũa cái. Tiếng rống yếu dần, yếu dần theo màu máu đỏ càng lúc đậm,
càng đầy cái thau đang chòng chành muốn lan ra sân đất. Nặng quá, dì
Năm Hiển vừa để thau huyết hơi sền sệt xuống thì con heo cũng vừa đuối
sức, gục. Hối hả, vừa phụ cạo lông con heo chắc được hơn sáu chục kí
lô, đôi mắt dì Tư vừa canh chừng chuyến xe đò từ Tà Bao, lòng khấn thầm
cho xe đừng đến.
Đây là con heo Dì Tư Xuân mua từ tháng tám khi nó mới lọt lòng
được mươi ngày. Dì Tư Xuân bỏ vốn mua heo con, dì Năm Hiển nuôi ăn.
Đến bây giờ, hai mươi bảy tháng chạp, còn ba ngày nữa là năm cùng tháng
tận, hai chị em bạn hàng mướn chú Hai Dẹo thọc huyết con heo nuôi góp
bao tháng nay. Phần chú Hai Dẹo là bộ lòng nhưng ngoài trái tim vì dì
Tư Xuân muốn có món mì vàng xào cải xanh đăng đắng với tim heo cho chồng
con vào ngày mai, một trong những món ăn mà chú Tư Xuân ưa thích. Phần
thịt mỡ, sườn, mọi thứ, dì Tư Xuân và dì Năm Hiển chia đôi, có mà Tết
nhất trong nhà.
Năm nào cũng vậy, từ khi dì Tư Xuân đi buôn chuyến lên Đồng Kho
cách quận Tánh Linh chừng năm cây số, từ sau bảy mươi lăm, từ khi mọi
chuyện mua bán ngoài chợ đều bị cấm đoán, dì và dì Năm Hiển, chủ tiệm
tạp hóa lớn nhất của xã nằm dưới chân núi Ông, hùn hạp nhau nuôi con heo
và vài ba cặp gà, chuẩn bị Tết. Dì Tư Xuân bỏ vốn, dì Năm Hiển cho ăn,
thả vòng vòng trong vườn, chờ cuối năm.
Bằng cách này, vừa rẻ vừa chắc chắn có miếng thịt miếng thà ba
ngày Tết, lại vừa tươi và nhất là dì không cần phải bắt mấy đứa con gái
của dì xếp hàng chờ mua thịt hôi thịt cũ của hợp tác xã. Nếu… nếu… dì
Tư Xuân kịp đón chuyến xe ông Ba Minh, chuyến xe cuối cùng ra ga Suối
Kiết chờ xe lửa về Sài Gòn!
Ngóng cổ ngó chừng ra đường, dì Tư Xuân lắng tai chờ nghe tiếng xe
hàng đổ con dốc tuốt đằng trạm y tế. Bốn bao mè, loại bao cát làm hầm
chống đạn của lính Cộng Hòa ngày xưa, một giỏ mây lớn gồm đậu xanh, nếp,
lá chuối, bánh tráng, măng khô, bốn hộc cốm của dì Năm Hiển cho, chuối
khô… mọi thứ sẵn sàng nằm ngoài cổng đặng xe tới là cho lên xe ngay.
Còn cái giỏ mây rộng mành này, dì Tư Xuân chia hai, một nửa dành chỗ
cho cặp gà buồn bã quay qua quay lại kêu lục cục, cặp vịt mỏi chân nằm
co một góc, một nửa lót lá chuối, ếm chung quanh đặng có chỗ cho phần
thịt dì được chia.
Nếu may mắn thì khuya này về tới nhà, vị chi còn hai ngày nữa là
Tết. Lo sắm sửa cho gia đình ăn Tết hiệp với chuyến giao hàng cuối năm
như vầy thì sẽ có lợi đủ chuyện! Vừa rẻ vừa khỏi phải lật đật, có thì
giờ mà ngâm nếp gói bánh tét, ngâm măng, đi chợ mua bông trái bánh mứt…
đủ chuyện hết. Dì Tư Xuân biết, biết rằng trong căn nhà nhỏ ở Thủ Đức,
chồng và bảy đứa con ngóng chờ dì từ tối hôm qua.
Hôm kia, ráng đi chuyến hàng cuối năm, chồng dì, chú Tư Xuân cứ
hỏi: “Mình kịp về không? Năm nay ráng về sớm. Hay là… thôi, mình ở
nhà.” Dì Tư Xuân biết. Bốn năm nay, từ sau bảy mươi lăm, năm nào cũng
vậy, cứ mấy ngày cuối năm, dì làm lũ con bảy đứa nhấp nha nhấp nhỏm,
chồng dì khuya nào cũng khêu nhỏ ngọn đèn hột vịt bên bình trà đã nguội,
ngóng tiếng xe lam xình xịch từ ngoài đầu ngõ.
Chú Tư Xuân xót ruột mà nói vậy chớ chú cũng biết ở nhà sao được
mà ở nhà. Tiệm quán từ Tánh Linh ra Tà Bao đang chờ chuyến hàng cuối
năm này để có mà bán mấy ngày trước Tết. Rồi thì phần thịt heo, gà, đậu
nếp, bánh tráng, măng khô… dì đã dặn trước. Làm gì thì làm, túng thiếu
đến đâu dì Tư Xuân cũng ráng lo ba bữa Tết cho đầy đủ và tươm tất .
Nhưng… lo thì lo, ráng thì ráng, làm sao bì được với những năm trước
bảy lăm, càng không thể so được với những năm còn ở Phan Thiết. Cũng
tại mấy ổng hết!
***
Nghĩ thương chồng con bao nhiêu thì dì Tư Xuân càng oán hận
mấy-ổng bấy nhiêu. Mà cũng bởi dì “mắc nợ” mấy-ổng. Hồi thời ông Diệm,
qua vài chuyến thâu mua lúa trên Tánh Linh, Tà Bao, dì Tư Xuân đâm ra
mê miền đất Đồng Kho phì nhiêu nằm dưới chân núi Ông, trên đường từ Tánh
Linh ra Tà Bao, một xã đầu tuyến của miền Nam. Vùng đất đã được chính
phủ Ngô Đình Diệm khai khẩn trong chương trình dinh điền đưa dân từ vùng
giao chiến về vùng bình yên nhưng phải ngưng lại vì sự cản trở của Việt
Cộng nên cỏ sậy cao hơn đầu người mọc đầy, trở thành hoang dã. Cách đó
khoảng vài kilomet là khu dinh điền đã hoàn tất, người thượng được đưa
tập trung về, được cấp nhà, đất rẫy, có trạm y tế, vài ba cảnh sát ấp…
nhưng chưa có trường học.
Lúc đầu dì Tư Xuân chỉ muốn khai khẩn mười mẫu. Nghe dì vạch kế
hoạch, theo dì lên thăm đất đai, nhìn thấy sự màu mỡ, nhìn thấy tương
lai nhiều hứa hẹn, chú Tư Xuân khuyên dì nên xin khai khẩn hai mươi mẫu.
Chú biểu:
“Xin hai mươi mẫu hay mười mẫu gì thì cũng một lần xin. Chính
sách mở mang dinh điền khuyến khích người dân đi xây cư lập nghiệp những
vùng đất mới, xin khai khẩn bao nhiêu, ông phó tổng thống Nguyễn Ngọc
Thơ cũng cho hết. Sở phí khai khẩn mười mẫu với hai mươi mẫu cũng không
chênh lệch bao nhiêu, ngân hàng cho mình mượn đầy đủ, ba năm sau mới
bắt đầu trả góp. Một lần làm, một lần công, thôi thì làm luôn một thể.
Ông nội lũ nhỏ cũng là người tiên phong khai khẩn ruộng trên Mương Mán,
làm nên sự nghiệp. Mình theo bước chân ông.”
Được sự khuyến khích của chồng, cộng thêm bản tính ham kinh doanh,
dì Tư Xuân xay hết số lúa dự trữ ở nhà máy xay gạo ngoài Sở Muối, vay
nợ ngân hàng Việt Nam Thương Tín, quyết thực hiện mộng ước như cha chồng
ngày xưa, mong làm cho chồng, cho con cái rạng mặt. Lên xuống Đồng Kho
cả nửa năm trời để chuẩn bị, khi cầm giấy tờ cho phép khai khẩn, dì Tư
Xuân mua ngay một căn nhà ở xã Đồng Kho cách khu rừng sắp khai khẩn
khoảng mười lăm phút đi bộ, làm nơi đi lại cho gia đình và thợ từ Tánh
Linh lên.
Năm ấy, năm 1964, ăn Tết xong, dì Tư Xuân mới dứt khoát giao
chuyện nhà chuyện cửa, chuyện con cái cho chú Tư Xuân và người làm. Dì
cùng hai người đàn ông thân tín hành trang lên đường. Ngay cả cha dì là
ông Giáo Tâm cũng tình nguyện bỏ vườn bỏ tược lên coi ngó giúp thêm.
Đồng Kho nằm dưới chân núi Ông, một làng tập trung người thượng từ
chính sách dinh điền của chính phủ Ngô Đình Diệm nên số người kinh không
quá hai bàn tay cư ngụ tại xã chỉ là nhân viên y tế, cảnh sát và buôn
bán tạp hóa trở thành một thiểu số tất nhò, hân hoan đón chào đoàn người
phá rừng khai rẫy từ thành phố lên.
Từ ngoài đường lộ, trên đường từ Tà Bao ra Tánh Linh, phía tay
mặt, đi vào hướng rừng chừng vài trăm mét, dì Tư Xuân cho thợ xây một
căn nhà sàn rộng độ năm mét, dài tám mét, cao khỏi mặt đất gần hai mét,
dựng lên giữa rừng cây vông gai cứng nhọn chỉa tua tủa. Phía trên căn
nhà sàn vừa là nơi nghỉ ngơi qua đêm của những người thợ chính từ Phan
Thiết và Tánh Linh, vừa là kho chứa thức ăn, dụng cụ. Phía dưới là nơi
nghỉ trưa, ăn uống của nhóm thợ phá rừng, vừa kinh vừa thượng. Hàng rào
tre nhọn cao cả mét bao bọc quanh căn nhà sàn để ngăn chừng thú dữ và
cũng là ranh giới giữa rừng thiêng trầm lặng chứa đầy bí hiểm với một
thế giới loài người hăng say khai phá thiên nhiên. Khói xám từ đống lửa
kế bên nhà sàn cháy ngày đêm vừa để sưởi ấm, vừa đánh tan sương rừng
khí độc, vừa dọa dẫm những con thú rừng lân la rình rập.
Những người thanh niên thượng vung đôi cánh tay da nâu đồng cuồn
cuộn bắp thịt căng cứng lên quá đầu, chân trái bước tới, hơi nghiêng
người về phía phải, hạ con dao lưỡi dài một mét, rộng bằng bàn tay, được
mài bén mỗi ngày, lướt xuống. Từng bước đi, từng đám lau sậy cao quá
đầu ngã gục, ngã gục. Nhịp chân bước, cánh tay vung cao, lưỡi dao lướt
nhanh xuống… đều đặn, hài hòa như cuộn phim ngắn được quay tới quay lui,
chỉ khác là hậu cảnh càng lúc càng mở rộng. Cả một vùng đồng trống
hiện ra càng lúc càng mênh mông, càng ngút mắt và cánh tay thợ càng hớn
hở vung cao.
Hai tháng sau, con đường in dấu mòn xe trâu dẫn từ lộ chính đến
cánh đồng giữa rừng vông già hân hoan chào đón hai chiếc xe máy cày màu
xanh lá cây đậm hùng hổ tiến vào. Những người thượng đang đấp bờ hoảng
hốt cắm phập lưỡi cuốc xuống đất, ngưng tay, giương to mắt theo dõi con
thú khổng lồ ngang nhiên lăn đôi bánh xe tiến thẳng xuống phần đất đã
sạch lau sậy. Từng mảng, từng mảng đất to không thua gì cái cùi trên
lưng người thượng được bới tung, đảo ngược một trăm tám mươi độ, cho
phần rễ lau sậy khô xám xoay xuống dưới và phần đất đen vươn mình lên
cao hơn, ngạo nghễ soi mình dưới ánh nắng cuối xuân đang ngỡ ngàng trước
hoạt cảnh làm rúng động muông thú chung quanh.
Đang là mùa khô nhưng màu đen ẩm ướt từng mảng đất nằm ngổn ngang
chống chất phía sau hai chiếc xe máy cày làm phấn khởi những đôi mắt đầy
khát vọng. Ông Giáo Tâm, cha của dì Tư Xuân nóng lòng trước chương
trình khai khẩn táo bạo của con gái, cũng tình nguyện giao cả ruộng vườn
ở Đại Nẫm cho bà Giáo, hành trang lên Đồng Kho làm hậu thuẩn cho con.
Say sưa dõi mắt nhìn theo màu xanh chiếc xe máy cày nhấp nhô theo nhịp
đất trồi ở cuối chân trời, hai cha con mỗi người một tâm trạng.
Dì Tư Xuân: “Ước chi ba tụi nhỏ có mặt lúc này để chú hãnh diện
khấn trình với người cha đang nuốt hận dưới lòng đất sâu vì Việt Cộng đã
biến ruộng vườn mút mắt Bàu Cá ở Mương Mán mà ông đã dầy công khai khẩn
thành chiến địa của mấy-ổng, rằng, con dâu đang nối nghiệp cha chồng.
Ông Giáo Tâm: “Anh Tư Thăng, anh phù hộ cho con dâu anh, nó đang
nối nghiệp anh. Đất đai thì đầy hứa hẹn làm tôi cũng ham không kém gì
nó, mà chiến tranh thì đang gần kề làm tôi lo âu vì nghĩ đến số mệnh đứt
đoạn ruộng vườn Bàu Cá của anh hồi trước. Cầu mong mấy-ổng để yên cho
nó được vài năm, lấy lại vốn. Nói cho cùng, cầu mong cuộc chiến này tìm
được một giải pháp hòa bình nhanh chóng để bà con nông dân mình còn có
đất mà sống, còn có ruộng vườn mà nương thân.”
***
Thảo, Thi, Thông, Nga và Dân dành nhau leo lên chiếc xe đò vừa
ngừng ngay trước nhà, chiếm chỗ ngồi ở băng ghế giữa, trong cùng, theo
lời biểu của chú lơ xe. Mỗi đứa một giỏ quần áo và giày dép trước bụng,
miệng thì bàn tán, tai thì lắng nghe lời chuyện trò của chú Tư Xuân với
chú tài xế, bụng thì nôn nao chờ bánh xe lăn mau.
…
- Anh ghé nhà ở Đồng Kho mà không có má tụi nhỏ thì gởi các cháu ở nhà dì Mười bán tạp hóa bên kia đường.
- Dạ, anh đừng lo. Chị Tư dặn tui đem xe tận nhà đón tụi nhỏ mà,
chiều nay chị Tư chờ tụi nhỏ ở nhà. Tui với chị Tư là chỗ quen biết
nhau cũng lâu rồi, chị Tư theo xe tui ra Tánh Linh hoài đó mà. Cha… tui
mong bữa nào có dịp ngừng lâu lâu, chạy vô ngó qua đám ruộng của chị.
Nghe bà con ngoài Tánh Linh, Tà Bao đồn rầm rang làm tui cũng náo nức
muốn coi đất tốt ra sao. Anh lên đó rồi chớ?
- Ờ, cũng hai bận, lên được ngày trước ngày sau là phải lo về.
Kẹt tụi nhỏ đi học, kẹt công sở, tôi không phụ gì được má tụi nhỏ hết.
- Thì anh coi nhà coi cửa cho chị Tư an lòng. Hậu cần mà an toàn
thì chị Tư mới dốc được hết lòng mà tiến hành. Nghe nói đất tốt lắm hả
anh?
- Ờ, đất đen mịn, nắm lên tay bóp là rả ra. Ông ngoại tụi nhỏ cũng mê lắm, ở miết trên đó, có chịu về đâu.
- Được bao nhiêu mẫu, anh?
- Chắc độ trên dưới hai mươi mẫu.
- Quá trời đất! Một tay chị làm hết?
- Ờ, thì tiếng là con nhà nông chớ tôi có biết gì tới chuyện ruộng
đất. Thiệt ra thì má tụi nhỏ chuyên nghề mua bán lúa gạo, cũng không
biết gì chuyện đất đai. Người này giúp ý, người kia chỉ vẽ, thêm tánh
ham làm nên má tụi nhỏ mới cực vậy. Được cái là có ông ngoại tụi nhỏ
sát cánh ngày đêm trên đó nên tôi cũng an tâm.
- Nghe bà con từ Tánh Linh tới Hoài Đức kháo nhau, tui cũng ham lắm, tính lần mò thăm coi rồi hỏi thêm.
- Chà, tui cũng mong có người khai khẩn gần đó, đất còn nhiều lắm anh.
- Thấy chị Tư đàn bà mà xông xáo được vậy, tui cũng ham lắm.
- Anh coi hỏi thăm thêm, có gì tôi chỉ anh cách lo giấy tờ.
- Được vậy thì tui mừng lắm, tui chỉ ngại chuyện xin xỏ giấy tờ thôi.
- Không khó khăn gì lắm đâu, chính sách dinh điền của nhà nước mà.
Tôi làm giấy tờ một lần rồi nên biết đường đi nước bước, không tốn
đồng nào hết, vay tiền ngân hàng cũng dễ.
- Chà, điệu này tui phải ghé ruộng Đồng Kho mới được.
- Ờ, anh ghé mà coi. Đây, gởi anh tiền xe và thêm chút đỉnh đặng
nếu anh có ghé Suốt Kiết hay Tánh Linh thì anh cho tụi nhỏ đứa ly nước
đá.
Thấy chú phụ lơ giúp Hai Cao, người làm thân tín của gia đình nhét
mấy giỏ cá khô, nước mắm dưới băng ghế, chú Tư Xuân hỏi:
- Có nhớ gói xôi theo cho tụi nó ăn dọc đường không Hai Cao?
- Dạ có, chú.
Chị Hai Cao vừa đẩy Thi xích vô để ngồi xuống, vừa trả lời, lòng
nôn nao mong cho chú tài xế đề máy, không kém gì tụi kia. Đã từng giúp
dì Tư Xuân mua sắm chuẩn bị cho các chuyến lên dinh điền, đã nghe ngóng
chú thím bàn tán, nay được chú Tư Xuân cho lên dinh điền với tụi nhỏ để
lo cho tuị nó, Hai Cao mừng lắm, nôn nao từ hôm nghe tin dì Tư nhắn về.
***
Đây là khu Dinh Điền do chính phủ Ngô Đình Diệm lập ra để tập
trung người Thượng sống rải rác từ các vùng núi rừng quanh núi Ông, giúp
họ quen dần với đời sống dân sự. Một lý do không kém quan trọng là sự
an ninh mà chính phủ muốn kiểm tra vì tình hình chiến tranh đang bắt đầu
giao động.
Trên khu đất rộng lớn bằng phẳng được chia thành từng mảnh nhỏ,
thẳng hàng như bàn cờ tướng, mỗi gia đình được chia một khoảng đất, một
số tole lợp nhà, dụng cụ làm vườn, thực phẩm cho sáu tháng đầu. Những
ngôi nhà sàn được dân bản dựng lên như chỉ để làm vừa lòng người cấp
phát, chỉ để tuân theo một cái lệnh với nội dung quá tầm hiểu biết của
họ.
Vì vậy tuy vùng đất dưới chân núi Ông trù phú nhưng không thuần
hoá được bước chân những người con của rừng núi. Mỗi sáng sớm; những
người thượng tiếp tục vào núi, rong ruổi giữa lá xanh, suối mát, lắng
nghe từng tiếng động bước chân, cành gẫy, dõi mắt kiếm tìm trong bụi cỏ,
cành cây. Để rồi khi nắng chiều dịu mát; họ trở về với cùi măng, cùi
trái cây dại, may lắm thì được con đỏ, con heo rừng. Không thiết tha
với vườn tược quanh nhà, không quan tâm chăm nuôi gia súc, mạch sống của
họ tiếp tục dựa vào ơn thiên nhiên như cha ông từ bao nhiêu đời.
Dì Tư Xuân mua lại miếng đất có căn nhà mái tôle, tường đất của
một người kinh từ Võ Đắc đến đây lập nghiệp. Cây soài rừng sát lề đường
là bóng mát duy nhất cùa khu vườn quanh nhà mà người chủ trước chỉ
trồng toàn thơm. Ngoại trừ vài cây ớt xanh lá bên lu nước gần cửa sau,
trước sau chỉ trồng thơm. Thân thơm thấp lè tè, không quá ba mươi
centimet và màu lá xanh đượm xám bạc nên khu vườn trông tiêu điều như
xóm thượng bên kia đường. Hơn nữa, đây chỉ là nơi nghỉ ngơi tạm của gia
đình nên không ai rảnh rang chăm sóc vườn tược. Dì Tư Xuân và thợ ăn ở
ngày đêm ngoài ruộng cách nhà chừng nửa tiếng đi bộ, năm ba bữa mới về
nhà.
Những vật dụng trong nhà đơn giản và chỉ đủ để đáp ứng nhu cầu ăn
ngủ căn bản của con người. Bức tường đất chia nhà ra làm hai: Phòng
ngoài gồm cái bàn với ba cái ghế gỗ không lưng dựa và cái băng dài, vừa
là bàn ăn vừa để ông Giáo và chú Tư Xuân nhâm nhi ly trà nóng mỗi sáng;
bộ ngựa mỏng bốn tấm nhưng không rộng lắm, chỗ ngủ của ông Giáo. Phòng
trong, hai bộ ván nằm hai bên tường là nơi ngủ của dì Tư Xuân và thợ khi
không lên ruộng.
Cửa sau thông với chái bếp bên hông nhà hướng ra đường lộ, cửa
trước hướng về chân núi Ông, mở toang ban ngày, khép hờ ban đêm. Nhà cứ
vậy mà bỏ ngõ, cửa then gỗ cài hờ phía ngoài cho gió mưa không tạt vào
khi chủ nhà vắng mặt chứ không có mục đích ngăn ngừa trộm vặt vì người
thượng thật thà và số người kinh hiếm hoi ở đây cư xử với nhau như bà
con.
***
Ba là tiểu đội trưởng cảnh sát xã Đồng Kho, mẹ có quầy tạp hóa nho
nhỏ, Nha và Quỳ được gởi học ngoài quận Tánh Linh, nay đang tiêu hao
ngày tháng hè bằng ánh mắt thơ thẩn dạo quanh những ngọn cây rừng đã trở
thành nhàm chán từ lâu, bằng bước chân không mấy náo nức nếu có việc
phải vào xóm thượng, và mong cho ba tháng hè qua nhanh. Tìm khắp xóm
làng không thấy bóng dáng con nít người kinh, ba chị em Nha, Quỳ và
Nghĩa ăn ngủ an bình với ba má dưới bóng mát cây cát trái như trái sa bu
chê nhưng ruột thì có mùi hơi tanh tanh và không chút mùi vị, chạy chơi
với nhau giữa con suối sâu tới đầu gối phía sau nhà và con đường đất lộ
trước nhà mà con nít có thể nhắm mắt băng qua đường vì mỗi ngày chỉ có
vài chuyến xe đò chạy xuyên qua. An bình đến độ ba chị em không có nỗi
náo nức của con nít khi mở mắt thức dậy mỗi sáng và không mang nỗi tiếc
nuối vì ngày qua quá nhanh khi đêm xuống.
Nha, Quỳ và cả Nghĩa, thằng em sáu tuổi theo dõi không chút dấu
diếm đám con nít đằng nhà dì Tư Xuân xéo xéo bên kia đường. Tụi nó, cỡ
gần chục đứa, chạy ra chạy vô, chỉ đàng này, leo cây nọ, nói nói cười
cười, coi như cái xã Đồng Kho này chưa từng có người ở trước khi tụi nó
đến, coi bộ có nhiều chuyện để bàn. Và thế là, giấc ngủ đêm nay của ba
chị em bị quấy phá, ngày mới đầy náo nức đến nhanh bởi hình ảnh rộn rã
của đám con nít coi bộ ngang tuổi mình bên nhà dì Tư Xuân.
Không biết ai làm quen ai trước nhưng chỉ trong vòng vài ngày là
đám con nít từ mười hai ba đến sáu tuổi, gồm năm đứa con của dì Tư Xuân
cùng với Nha, Quỳ và Nghĩa con của chú Hai-Cảnh-Sát lập thành băng đảng,
một băng đảng người kinh duy nhất ở Đồng Kho.
Vắng chủ nhà gà quậy bếp! Dì Tư Xuân và ông Giáo lên ruộng mỗi
sáng sớm trước khi đám con thức dậy và về lại nhà khi trời chạng dạng
tối vừa kịp bữa cơm chiều nên căn nhà dưới tàn cây soài rừng là tụ điểm
của đám con nít dưới sự coi ngó của chị Hai Cao gần hai mươi tuổi nhưng
vì là người làm nên không đủ uy quyền để la rầy và vì có trái tim quá
mềm nên không muốn tọc mạch với dì Tư Xuân hay ông ngoại.
Chiếc xe trâu vẫn còn nguyên lành nhưng không còn dùng nữa được lũ
nhỏ trưng dụng vừa như cái cầu tuột, vừa như dụng cụ luyện tập nhún
nhảy và đo lường sức mạnh cũng như lòng can đảm.
Cả đám leo lên ngồi ở cuối xe để đầu xe có cái cần ngang dùng để
buộc trâu vào, đang nằm ở vị trí thấp sát đất phải dỏng ngược lên cao.
Một người can đảm nhất leo từ từ ra phía cần ngang phía trước xe nhúng
nhúng. Chưa đủ! Một người nữa leo lần lên tiếp sức. Chưa đủ! Một
người nữa leo lần lên. Ba người ra sức nhúng cần ngang trong khi những
người kia trong tư thế chuẩn bị. Cái đòn cân bắt đầu nghiêng nghiêng về
phía cần ngang đằng trước. Dùng hết sức, nhúng lần nữa. Cần ngang
phía trước xe thấp xuống dần trong khi phía sau xe bắt đầu nhích lên.
Xuống dần, nhích lên, cho đến khi đám con nít cười rú lên, vừa sợ vừa
thích thú khi bị dồn và tuột nhanh xuống cần ngang.
Nhảy xuống, chạy ra phía sau xe trâu, bắt đầu lại. Nỗi hồi hộp,
cảm giác teo ruột và là trò chơi thử lòng can đảm, đã gạt hết sự nguy
hiểm mà đứa con nít bảy-tám tuổi cũng đủ thông minh để nhận ra, qua một
bên.
Trò chơi cứ thế tiếp tục ngày chục bận, ngày qua ngày kia cho đến
khi cần ngang giữa hai bánh xe trâu không chịu được nữa, gẫy đôi. Chừng
đó, ông Giáo mới biết nhưng không rầy mà chỉ phân tích sự nguy hiểm của
trò chơi.
Thường thì xóm thượng vắng hoe vì mọi người vô rừng kiếm măng,
lượm củi, săn thú… từ sáng sớm. Cả ngày, lũ-trẻ-dư-thì-giờ thả bước
chân dọc ngang tìm trái cây rừng, đuổi con tắc kè hay chui xuống nhà sàn
tìm lượm những mảnh xương thú rừng rơi rớt để thi nhau trổ tài xem xét,
phỏng đoán và tự phong mình là những nhà khảo cổ. Người thượng thường
đi từng nhóm, cả già trẻ lẫn lớn nhỏ nên mỗi lần tình cờ gặp nhóm người
thượng, cả bọn lấm lét, vừa sờ sợ, vừa tò mò.
Mặc dù mắc cỡ khi ánh mắt chạm phải những thân hình đàn ông trần
trụi chỉ được che đậy bằng tấm vải to bằng bàn tay hay bằng vỏ thân cây
chuối, nhưng Thi, Thảo và Nha, ba cô gái ở tuổi sắp mấp mé dậy thì, vẫn
len lén tò mò quan sát và câu chuyện Trần Minh Khố Chuối được mang ra tô
đậm.
Trong khi đó, những người đàn bà thượng lưng trần ngực phênh phông
trước nằng gió với cái xà rong ngắn khi bằng vải, khi bằng lá lợp nhà
là đề tài cho hai tên con trai ở tuổi chưa đổi giọng chỉ chỏ với giọng
cười nghịch ngợm. Và kết quả của cử chỉ nghịch ngợm khiếm nhã lẫn khinh
thường này là dấu vết đỏ ửng của nguyên một bàn tay người đàn bà thượng
với tất cả sự giận dữ đập mạnh trên lưng Thông vào buổi chiều bên bờ
suối, nơi những người đàn bà thượng thường mang con ra tắm chơi khi trời
nhạt nắng.
Từ đó, lòng kính trọng người thượng tăng nhanh nơi đám trẻ người
kinh luôn tưởng mình thuộc “tầng lớp” văn minh hơn nên không cần che dấu
ánh mắt tò mò tinh nghịch.
Nắng hè buổi trưa ran rát trên đầu khiến lũ trẻ phải tìm bóng mát
cây soài rừng, cây cát già để bày trò chơi hay tô vẽ những giấc mơ băng
rừng phá động lập giang sơn riêng. Khung cảnh núi Ông sừng sững đầy
huyền bí bên hông xóm cộng với gương mặt sạm nắng những người đàn ông
thượng hầu như lúc nào cũng lầm lầm lì lì khiến câu chuyện Vàng và Máu
của Thế Lữ được mang ra thường xuyên để tô điểm hình ảnh một kho tàng vĩ
đại đang nằm đâu đó giữa rừng cây rậm đen chờ bước chân người khám phá.
Thế là, kế hoạch vượt suối băng rừng hình thành từ từ trong đầu đám
trẻ thành thị đã bị nhiễm nặng sách truyện phiêu lưu mạo hiểm.
Ngày bỏ ngủ trưa, đêm không ai nhắc nhở lên giường, đám cháu chỉ
mong ông ngoại lên võng đu đưa là la cà trên bộ ván chờ nghe chuyện xưa
tích cũ. Trong khi những ngón tay dài gầy lần cuốn điếu thuốc lá giọng
ông ngoại trầm trầm kể, đủ chuyện. Chuyện học trò nhà quê chân đất áo
vải thô học cả năm mà không thuộc mặt chữ nhưng lại xin phép nghỉ học vì
phải cưới vợ khiến lũ cháu ngớ mặt thắc mắc. Chuyện cổ tích giải thích
tiếng chim kêu hay nghiệp quả thú vật phải mang vì sự lơ đễnh hay tham
lam của kiếp trước khiến giấc ngủ lũ cháu mang đầy hình ảnh ngọc hoàng
thượng đế chốn cung đình lơ lửng giữa mây trắng trên trời cao. Chuyện
rùa thần, chuyện đổi áo long bào, chuyện đóng cọc dưới lòng sông, chi li
và mỗi lần kể là mỗi chi tiết mới khiến câu chuyện luôn khoác một lớp
áo khác hơn, hấp dẫn hơn.
Nhưng, những đêm câu chuyện tình cờ đi vào thế giới huyền bí thì
cả Thảo lẫn Thi và Thông tranh nhau ngồi xoay lưng để ánh mắt không phải
chạm với núi Ông đen thâm thẫm qua khung cửa sổ luôn mở rộng.
Giấc ngủ đã mắt chấm dứt bằng tiếng vượn hú chim hót từ ngọn núi
Ông luôn có những luồng khí núi bốc lên như những cụm khói từ mái nhà
miền quê mùa đông lạnh.
Ngày lang thang bước chân quanh làng xóm cây thưa cỏ dại dưới cái
nắng chang chang đang mong cơn mưa đầu mùa. Đêm rợn người lắng nghe
tiếp cọp gầm vang lại lúc gần lúc xa nên vội kéo mền phủ đầu cong người
như con tôm. Cứ thế, ba tháng hè trôi qua, đều nhịp nhưng đã để lại một
dấu ấn vàng son làm đẹp tuổi trẻ an bình và là một gia tài quí báu mà
dì Tư Xuân đã tặng các con.
(Còn tiếp)
nguồn:http://www.diendantheky.net/2013/02/vo-thi-iem-am-di-tu-xuan-va-ong-kho.html?utm_source=BP_recent
======================================================================
Chú ý: Nhấn vào
“nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ
xóa những comment nói tục
Thinhoi001
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001