KHƯƠNG DUY
Tố Hữu
Mẹ tôi kể rằng khi tôi còn chưa biết đọc, biết
viết mẹ đã dạy tôi học thuộc những câu
thơ Tố Hữu, để rồi khi mẹ lúi húi trong vườn sắn, tôi
ngồi vắt vẻo trên tảng đá nghêu ngao đọc:
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Mẹ thuộc rất nhiều thơ Tố Hữu. Từ những bài thơ dễ thuộc, dễ nhớ như Bà bủ, đến những bài thơ mang âm hưởng truyện thơ như Bà má Hậu Giang; từ những bài thơ hừng hực lửa nhiệt thành như Hãy nhớ lấy lời tôi,đến những bài thơ nghẹn ngào đau thương như Bác ơi… mẹ đều thuộc nằm lòng. Giọng đọc của mẹ say sưa, ấm áp đã khiến những vần thơ Tố Hữu ngấm vào tâm hồn tôi như thể người ta ăn cơm uống nước để sống và lớn lên.
Tôi vẫn còn yêu thơ Tố Hữu cho đến mãi hôm nay,
dù rằng khi lớn lên tôi biết được nhiều câu thơ khác của
Tố Hữu không được hay như những câu thơ mẹ đã dạy
tôi thủa thiếu thời. Tiếng đầu lòng con gọi Stalin. Có yêu
thơ Tố Hữu đến nhường nào, tôi cũng nuốt không trôi những câu
thơ như thế. Và khi đã biết lắng nghe bằng cả hai tai,
tôi còn vỡ lẽ ra rằng bên cạnh một Tố Hữu thi sĩ với hồn
thơ dâng trào như sóng cuộn biển Đông còn có một ông
quan văn hóa Tố Hữu, người đã trực tiếp hay gián tiếp liên quan
tới một giai đoạn buồn của nền văn nghệ nước nhà với những
tiêu án chẳng biết bao giờ sáng tỏ như Nhân văn – Giai
phẩm. Ban đầu tôi còn hồ nghi, hay đúng hơn tôi không muốn
hình ảnh nhà thơ Tố Hữu mà tôi hằng yêu quý tan vỡ.
Nhưng càng đọc nhiều, càng suy ngẫm nhiều, tôi buộc lòng phải chấp nhận
sự thật đó. Tôi tự an ủi mình rằng một khi có quyền lực
trong tay, dẫu là nhà thơ cũng khó có thể giữ cho mình
thánh thiện…
Phạm Duy

Ngược lại với Tố Hữu, tôi biết đến Phạm Duy muộn hơn nhiều. Khi tôi học lớp 11, một thầy ở Viện Ngôn ngữ học khi về Phú Thọ dạy đội tuyển Tiếng Anh đã nói tên tôi giống Phạm Duy. Có biết nhạc sĩ Phạm Duy là ai không? Thầy hỏi và tôi lắc đầu. Thầy chỉ cười. Đợt học đó thầy còn nhắc tới Phạm Duy với tôi một vài lần nữa. Tôi chỉ có thể đọc được trong ánh mắt của thầy một niềm trân trọng nhưng dường như cũng pha chút mỉa mai nào đó. Giọng nói và nụ cười của thầy như thể muốn hé mở cho tôi biết rằng nhân vật mà thầy nhắc đến phức tạp và thú vị vô cùng.
Đương nhiên hôm nay
tôi đã có thể trả lời câu hỏi của thầy, bởi
tôi đã biết Phạm Duy là ai. Và nếu thầy thực sự thích
nhạc Phạm Duy, tôi có thể nói chuyện cùng thầy cả ngày
về gia tài âm nhạc đồ sộ mà bài nào cũng lấp lánh
như những viên sỏi nơi đáy nước của ông. Nhưng có lẽ tôi
chẳng bao giờ còn gặp lại thầy, và nếu
có thì cũng đã quá muộn bởi người nhạc sĩthiên
tài ấy đã mãi mãi ra đi…
***
Đến đây, tôi muốn nói về mối tương liên giữa Phạm Duy và Tố Hữu, điều tôi đã nhận thấy từ khi bắt đầu biết nghe nhạc Phạm Duy, nhưng phải sau khi ông đi về cõi vĩnh hằng, tôi mới thấm thía và ngộ ra những điều xưa kia mình chỉ mơ hồ cảm nhận thấy. Mối tương liên ấy, nhiều người bất nhẫn hẳn sẽ cho là điều hoang đường bởi hai con người ấy có hai số phận hoàn toàn khác nhau, ngoại trừ việc họ đều là nghệ sĩ. Nhưng trên đời này, nghệ sĩ cũng có năm bảy đường, và con đường mà Phạm Duy và Tố Hữu đã chọn lại quá khác xa nhau. Nhưng hãy bình tâm và tạm quên đi cái lằn ranh về ý thức hệ vốn đã làm cho đất nước này quằn quại dưới khói lửa chiến tranh mấy mươi năm, bạn sẽ cảm nhận được ở hai ông những điểm chung mà dẫu có muốn xóa nhòa cũng không thể nào xóa nổi.
Đến đây, tôi muốn nói về mối tương liên giữa Phạm Duy và Tố Hữu, điều tôi đã nhận thấy từ khi bắt đầu biết nghe nhạc Phạm Duy, nhưng phải sau khi ông đi về cõi vĩnh hằng, tôi mới thấm thía và ngộ ra những điều xưa kia mình chỉ mơ hồ cảm nhận thấy. Mối tương liên ấy, nhiều người bất nhẫn hẳn sẽ cho là điều hoang đường bởi hai con người ấy có hai số phận hoàn toàn khác nhau, ngoại trừ việc họ đều là nghệ sĩ. Nhưng trên đời này, nghệ sĩ cũng có năm bảy đường, và con đường mà Phạm Duy và Tố Hữu đã chọn lại quá khác xa nhau. Nhưng hãy bình tâm và tạm quên đi cái lằn ranh về ý thức hệ vốn đã làm cho đất nước này quằn quại dưới khói lửa chiến tranh mấy mươi năm, bạn sẽ cảm nhận được ở hai ông những điểm chung mà dẫu có muốn xóa nhòa cũng không thể nào xóa nổi.
Tố Hữu sinh năm 1920, chỉ trước Phạm Duy một năm.
Chẳng những là người cùng thời mà trong suốt mấy mươi năm sống
và viết, nếu như Tố Hữu trở thành cây đại thụ của nền
nghệ thuật cách mạng miền Bắc thì Phạm Duy là ngôi sao sáng chói trên
bầu trời nghệ thuật miền Nam. Giờ đây, khi non sông đã liền một dải
thì hai ông xứng đáng được nhắc đến như hai
nghệ sĩ đã bằng âm nhạc và thơ ca của mình
vô tình chung tay dệt nên bức tranh đầy đủ màu sắc
kể về số phận dân tộc suốt nửa sau thế kỷ XX.
Nói về thơ Tố Hữu, dẫu là người
ghét ông hay yêu ông, cũng không thể nào phủ nhận được rằng,
sau Nguyễn Du, Tố Hữu là một trong những nhà thơ lớn nhất của dân
tộc, với tài năng đưa tiếng Việt vào thơ thành công ít ai sánh
kịp. Với sức viết không mệt mỏi suốt gần một hoa giáp kể những ngày còn
là chàng thanh niên Nguyễn Kim Thành, cho tới những dòng tâm sự cuối
cùng của một ông lão tuổi ngoại bát tuần, thơ Tố Hữu vẫn dạt dào
tuôn chảy như một dòng suối đã khơi nguồn là chảy một mạch
cho tới tận cùng. Ông thành công ở nhiều thể loại
thơ nhưng đặc biệt để lại dấu ấn với
thể thơ lục bát. Thơ lục bát của Tố Hữu giản dị, hồn hậu
nhưng cũng không kém phần trong sáng, thanh cao. Nhiều câu thơ Tố Hữu
nếu đặt cạnh Truyện Kiều sẽ khó có thể nhận ra; lại
có những câu thơ lẫn vào trong ca dao như tiếng hồn cha ông
tự thủa nào. Trải dài với bảy tập thơ, Tố Hữu đã bền
bỉ dùng tiếng Việt để diễn tả nhiều cung bậc của cảm xúc
riêng – chung.
Có lúc, đó là những câu thơ ngậm ngùi cho thân phận người
con gái giang hồ buôn mái chèo trên sông Hương:
Đời em buông chiếc thuyền nan xuôi dòng
Thuyền em rách nát
Mà em không chồng
Thuyền em rách nát
Mà em không chồng
Có lúc, đó là những câu thơ hào sảng như một dòng thác
bất tận vui say chiến thắng Điện Biên lừng lẫy:
Hoan hô chiến sĩ Điện Biên
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Chiến sĩ anh hùng
Đầu nung lửa sắt
Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt
Máu trộn bùn non
Gan không núng
Chí không mòn!
Có lúc, đó là những lời thơ tình tứ, ngọt ngào đằm
thắm ca ngợi tình yêu đôi lứa:
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Có lúc, đó là những câu thơ chất chứa nỗi đớn đau
uất nghẹn vì nỗi mất mát quá lớn:
Đã mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa
Những ai không ưa thơ Tố Hữu vì điểm này
hay điểm khác vốn chẳng mấy khi liên quan tới thơ ông, hãy
trả lời thật lòng rằng những câu tôi trích ra trên đây lẽ nào không
phải là thơ, và lẽ nào không phải là thơ hay. Công bằng
mà nói, có người chê thơ Tố Hữu nặng tính tuyên
truyền, nhưng thử hỏi suốt mấy mươi năm có ai làm thơ tuyên
truyền hay bằng Tố Hữu.
Xuân Diệu, Huy Cận trước 1945 làm mưa làm gió trên thi đàn
nhưng viết thơ cách mạng thì dở đến mức chẳng ai muốn nhắc tới.
Quả sấu non trên cao, Đoàn thuyền đánh cá là những
thí dụ nhãn tiền. Nói về chính trị và tình yêu đều nồng
nàn, say đắm như nhau. Nói về lý tưởng mà ngọt ngào
như viết tình thư. Nói về lãnh tụ mà ngỡ như con
viết tặng cha. Nói về mẹ Việt Nam mà như nói về mẹ của
riêng mình… Chỉ có thể là tâm hồn thơ đặc biệt của
Tố Hữu, tưởng như là điểm yếu nhưng hóa ra lại là tài năng
trác tuyệt của ông.
Cá nhân tôi nhận thấy thơ Tố Hữu là sản phẩm của
một trí tuệ thơ vô tiền khoáng hậu, tôi sẽ không ngại
ngần xếp Tố Hữu vào bảng vàng ghi danh những thi sĩ xuất sắc bậc nhất
của lịch sử văn chương Việt Nam.
Còn Phạm Duy, người nhạc sĩ tài hoa đã một thời
theo Việt Minh rồi chịu không nổi những gông cùm về tư tưởng rồi
dinh-tê rồi vào Nam. Phải nói thêm rằng, trong hồi ký của mình, chính
Phạm Duy đã thấp thoáng hé mở rằng một phần hiện thân của những
gông cùm ấy chính là Tố Hữu – người có quyền cầm cân nảy
mực gần như tối cao trong về tư tưởng văn hóa nghệ thuật
trong suốt mấy mươi năm. Chuyến đò vĩ tuyến đã đưa
Phạm Duy sang một chân trời khác, nơi ông có thể tự do
tự viết lên những bản nhạc tình say đắm lòng người mà không còn
sợ ai dèm pha, và kể cả khi có người dèm pha
(như trường hợp bài Kỷ vật cho em) thì cũng không ai có
đủ thẩm quyền để phê bình ông, để ngăn
cấm ông, để ép ông từ bỏ những đứa con tinh thần
của mình; điều mà Phạm Duy không thể có được nếu ông ở lại
miền Bắc.
Quyết định đi tìm tự do trong
nghệ thuật đã đẩy Phạm Duy sang bên kia chiến tuyến với
Tố Hữu. Nhưng trớ trêu thay, hai con người như nước với lửa trên
lập trường chính trị ấy lại giống nhau đến lạ kỳ trong
nghệ thuật. Cái âm hưởng dồn dập, da diết, trào tuôn trong
thơ Tố Hữu cũng hiện hữu trong âm nhạc Phạm Duy. Hơn
thế nữa, Phạm Duy cũng là người có biệt tài với tiếng
Việt, ông đặt lời, phổ thơ điêu luyện như một
nghệ nhân bậc thầy. Nhạc của ông đã đưa âm nhạc Việt
Nam lên một tầm cao mới hiện đại mà không lìa thoát cái âm giai
ngũ cung ngọt ngào da diết.
Đặc biệt, lời nhạc của ông bên cạnh những ca từ mới
mẻ, phá cách, phần nhiều là những lời đậm đà hương
vị dân ca. Hãy lắng nghe tiếng lòng ông trải rộng trongTình ca:
Một yêu câu hát Truyện Kiều
Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên
Lẳng lơ như tiếng sáo diều làng ta
Và yêu cô gái bên nhà
Miệng xinh ăn nói mặn mà có duyên
Và tình tứ như một lời hát giao duyên
trong Đố ai:
Đố ai mấy tuổi trăng già
Để em lên tiếng mặn mà yêu anh
Để em lên tiếng mặn mà yêu anh
Phạm Duy mang cả một dải Việt Nam vào trường ca
Con đường cái quan với những hình ảnh đẹp như trong
cổ tích:
Năm tê trong lúc sang Xuân
Tôi theo Công Chúa Huyền Trân tôi lên đường
Ðường máu xương đã lắm oán thương
Ðổi sắc hương lấy cõi giang san
Tôi đi theo bước ái tình
Ði cho trăm họ được hòa bình ấm no
Ðèo núi cao nghe gió vi vu
Thổi phấn son bay tới kinh đô
Tôi theo Công Chúa Huyền Trân tôi lên đường
Ðường máu xương đã lắm oán thương
Ðổi sắc hương lấy cõi giang san
Tôi đi theo bước ái tình
Ði cho trăm họ được hòa bình ấm no
Ðèo núi cao nghe gió vi vu
Thổi phấn son bay tới kinh đô
Hồn dân tộc thấm đãm trong từng nốt nhạc, lời
thơ là điều mà Phạm Duy và Tố Hữu giống nhau.
Chỉ cần lắng nghe cách đưa những tiếng địa phương, những tên gọi
của từng vùng miền đất nước vào thơ vào
nhạc đã có thể thấy chất dân gian đã được hai ông
cùng vận dụng sáng tạo và nhuần nhuyễn đến mức nào.
Không chỉ thế, dù bằng những cách tiếp cận khác nhau
theo những ý thức nghệ thuật khác nhau nhưng chủ đề trong
thơ Tố Hữu và nhạc Phạm Duy nhiều khi rất tương đồng.
Con đường cái quan của Phạm Duy lẽ nào không có chút
gì đồng điệu với Nước non ngàn dặm của Tố Hữu?
Bà mẹ quê và Bà bủ lẽ nào không phải đều
là những hình ảnh đẹp đến nao lòng về người
mẹ Việt Nam? Trong thơ Tố Hữu và nhạc Phạm Duy tình yêu
riêng và tình yêu chung hòa quyện với nhau khéo léo đến bất ngờ,
và cũng chỉ có hai ông mới có cái biệt tài luyến láy giữa cái riêng
với cái chung có duyên đến thế.
Và trên hết, Phạm Duy và Tố Hữu đều là những
người đều yêu tiếng Việt và dành trọn cuộc đời nghệ thuật
của mình để tô điểm cho tiếng Việt, đẩy
thơ và nhạc dùng tiếng Việt lên đến đỉnh cao.
Thơ Tố Hữu, nhạc Phạm Duy giống như hai mảnh ghép tưởng
như khập khiễng nhưng khi ghép lại sẽ giúp chúng ta thấu hiểu tiếng
lòng của con người Việt Nam trong thế kỷ XX bị cách ngăn bởi một dòng
sông vĩ tuyến với đầy đủ cung bậc hờn giận yêu thương,vừa
lớn lao, lộng lẫy mà rất đỗi gần gũi, chân thành…
Xin được nói thêm rằng ở thơ và nhạc của
hai ông, người đọc người nghe đều thấy hiện lên sự nhiệt thành,
sự cuộn chảy của cảm xúc mà tôi tin đó là cảm xúc thật
sự của người nghệ sĩ.
Tố Hữu viết thơ bằng trái tim sục sôi của người chiến
sĩ cộng sản, trái tim lớn không sợ gì súng đạn. Dẫu tôi hôm
nay đã không còn giữ được sự nhiệt thành ngày nào khi nghe
mẹ đọc Hãy nhớ lấy lời tôi, và sự hoài nghi trong lòng tôi
với quá khứ ngày một lớn hơn, nhưng tôi luôn trân trọng những
gì là cảm xúc chân thành của con người. Người ta có thể hoài
nghi ý nghĩa của một cuộc chiến tranh nhưng không được phép hoài nghi
sự dũng cảm của người chiến sĩ. Tố Hữu khi viết những dòng như thác
lũ ca ngợi chiến thắng Điện Biên lẽ nào ông lại không vui sướng,
khi viết những dòng quặn thắt lòng người khi Hồ Chủ tịch mất lẽ nào ông
lại không đớn đau? Tôi tin rằng thơ không nói dối cảm xúc của
con người. Khoan hãy bàn đến đúng sai tốt xấu mà hãy hiểu
rằng ở thời điểm đó, ở tâm
thế đó Tố Hữu đang bằng tình yêu thiêng liêng, và cảm xúc
chân thành viết ra những dòng thơ lai láng và chứa chan tình
cảm ấy. Chỉ có rung cảm chân thành mới giúp cho chất
thơ mới tuôn chảy đầu ngọn bút không một chút ngập ngừng
như thế.
Còn Phạm Duy, hẳn không cần phải nói thêm bởi những ai từng nghe
nhạc của ông đều dễ dàng cảm nhận sự dâng trào của cảm xúc
trong ca khúc của ông mạnh mẽ đến nhường nào.
Dẫu đó là tình yêu lứa đôi hay tình yêu đất nước, Phạm
Duy đều viết lên những nốt nhạc lời ca bằng cả trái tim giàu rung cảm của
mình. Giết người đi, giết người trong mộng vẫn đi về. Ngày mai đi nhận
xác chồng, say đi để thấy mình không là mình. Tôi yêu những
sông trường, biết ái tình ở dòng sông Hương, sống no đầy
là nhờ Cửu Long, máu sông Hồng đỏ vì chờ mong…
Những lời ca nồng nàn, dạt dào như thế lẽ nào không phải do cảm
xúc chân thật mà thành. Đọc thơ của Tố Hữu và nhạc của Phạm
Duy người ta thấy cảm xúc được giải phóng mãnh liệt, cảm xúc
như thoát khỏi trái tim chật hẹp, tìm được tự do thoải mái vùng
vẫy dọc ngang.
Nói đến tự do, tôi cho rằng Tố Hữu cũng yêu tự do
lắm chứ, một người đã từng nghe hè dậy bên lòng, mà chân
muốn đạp tan phòng mà ra thì lẽ nào lại không yêu tự do? Vậy
mới thấy tự do hóa ra là thứ tương đối. Phạm Duy không
tìm được tự do cho mình dưới trời miền Bắc nhưng Tố Hữu lại
như cá được nước, như chim trời được chắp cánh tung bay. Cho
nên thơ Tố Hữu dẫu nhiều câu là thơ ”đường lối” mà nghe
sao vẫn nhẹ nhàng, thanh thoát, khoáng đạt đến diệu kỳ. Chỉ tiếc
Tố Hữu sinh thời có lẽ đã không hiểu rằng cái khuôn
khổ và hình thức tự do mà Phạm Duy cần rộng hơn
thế thứ tự do mà ông có thể chấp nhận rất nhiều…
***
Phạm Duy đã có lần nói rằng suốt cả cuộc đời
viết nhạc của mình, ông luôn khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, khi đất
nước vui ông cũng vui, khi đất nước buồn ông cũng buồn. Chính
vì thế trong kho tàng tác phẩm đồ sộ để lại, Phạm
Duy đã khắc họa đầy đủ những biến động
của đất nước trong suốt hơn nửa thế kỷ. Đất nước trong nhạc
của ông trải từ gấm hoa đẹp đẽ đến mất mát tang thương
và khi ông rời bỏ quê nhà thì đất nước
chỉ còn là quê hương hoài niệm. Cái nổi trôi của đất nước
từ núi rừng đầy hoa bỗng thành chiến trường cũng là cái nổi trôi
của cuộc đời Phạm Duy, từ một chàng trai Hà Thành tài hoa do
cuộc li loạn mà đã dạt trôi vào Sài Gòn rồi bỏ nước
ra đi, để rồi mấy mươi năm sau, tha thiết
nhớ quê hương ông lại trở về với đất mẹ…
Tố Hữu cũng vậy. Cuộc đời Tố Hữu với bảy tập
thơ lớn trải dài theo bước đường lịch sử dân tộc được coi
như tập nhật ký bằng thơ của những chặng đường cách mạng Việt
Nam. Soi mình vào thơ Tố Hữu, có thể thấy hiển hiện lên
cả một thời máu và hoa, vinh quang và gian khổ. Từ những
ngày đầu tiên giác ngộ cách mạng, cho đến khi cách mạng thành công,
rồi lên Việt Bắc lập chiến khu và trở về bước vào cuộc chiến hai
mươi năm xẻ dọc Trường Sơn. Để đến cuối đời, những
gì còn lại là nỗi trăn trở với thế sự, về cái mới
và cái cũ, về cái còn và cái mất.
Tố Hữu và Phạm Duy phải chăng đều đã gặp
nhau ở đây, khi mà hai ông đều biến cuộc đời mình
thành thơ thành nhạc, hòa chung vào mệnh nước để viết lên những tác
phẩm có tính tiêu biểu cho cả một thời đại.
***
Số phận của nhạc Phạm Duy và thơ Tố Hữu tưởng khác nhau nhưng thực ra lại rất giống nhau, bởi lẽ vừa có lắm vinh quang những cũng phải chịu quá nhiều cay đắng.
Số phận của nhạc Phạm Duy và thơ Tố Hữu tưởng khác nhau nhưng thực ra lại rất giống nhau, bởi lẽ vừa có lắm vinh quang những cũng phải chịu quá nhiều cay đắng.
Hãy nói về nhạc của Phạm Duy trước. Dẫu là một nhạc
sĩ nổi tiếng với những tác phẩm đỉnh cao nhưng số phận các tác
phẩm của ông lại hết sức chìm nổi long đong. Cũng bởi những ca khúc như Bên
cầu biên giới không được cách mạng chấp nhận nên ông đã cảm thấy mình cần
phải ra đi, để rồi thành danh ở bên kia vĩ tuyến 17.
Nhạc Phạm Duy đã trở thành biểu tượng của âm nhạc Sài
Gòn, đến mức những người Sài Gòn bỏ nước ra đi sau cuộc
chiến đã ngậm ngùi nhớ tiếc:
Đâu Phạm Duy với tình ca sầu
Mắt lệ rơi khóc thủa ban đầu
Mắt lệ rơi khóc thủa ban đầu
Được yêu mến là thế, nhưng cũng
có lúc ông đứng giữa hai làn đạn, vì ở phía bên kia
cũng có người cho rằng nhiều ca khúc của ông như Kỷ vật cho
em, Tưởng như còn người yêu quá đau thương, sầu thảm khiến cho
quân đội Việt Nam Cộng Hòa mất đi tinh thần chiến đấu. Phạm
Duy đã trả lời rằng, nếu như chỉ mấy câu hát
mà đủ sức làm cho cả đoàn quân nhụt chí thì lỗi
là ở quân sĩ chứ đâu phải ở lời ca? Tôi
tâm đắc với ý kiến này và sẽ còn trở lại khi
có dịp bàn về quan điểm quản lý nghệ thuật hiện nay.
Sau năm 1975 nhạc của Phạm Duy trở thành nhạc cấm, ngoại
trừ những ca khúc được hát ở hải ngoại
thì tuyệt đại đa số không được chính thức
phổ biến trong nước. Đương nhiên, khó có thể cản dòng
chảy của âm nhạc, nên dù không được cấp phép nhưng nhiều tác
phẩm của ông vẫn vang lên bền bỉ suốt mấy mươi năm ông vắng nhà.
Nhưng là một người nhạc sĩ, nhìn những đứa con tinh thần của mình
phải sống cuộc đời ngoài vòng pháp luật, dẫu được người nghe yêu mến nhưng
danh chưa chính, ngôn chưa thuận thì làm sao không đau lòng. Hơn nữa, một
khi chưa được chính quyền công nhận thì sức truyền bá của những tác
phẩm ấy cũng chưa thể cao xa như lẽ ra chúng phải thế.
Có lẽ vì vậy, trong những năm cuối đời, Phạm Duy
vẫn luôn mong muốn ngày càng nhiều tác phẩm của ông được cấp
phép. Ông nhẩm tính rằng, cho tới nay chỉ có 1/10 số nhạc
phẩm của ông được nhà nước cho lưu hành, vậy thì phải mất
100 năm nữa họa chăng nhạc của ông mới được giải phóng hoàn toàn khỏi
cơ chế kiểm duyệt khắt khe. Phạm Duy đau đáu nỗi niềm rằng trong
cả ngàn ca khúc của ông, có vô số bài ca ngợi tình yêu
lứa đôi, tình yêu đất nước, chẳng hề dính dáng tới chính trị,
nên nếu như để mai một sẽ đáng tiếc vô cùng. Nhưng biết làm
sao được khi cho tới gần đây, ca khúc bất hủ Mùa thu chết
mới được cấp phép, vì bao năm qua người ta vẫn dè chừng ca khúc này
vì cho rằng Phạm Duy nhạo báng Cách mạng tháng Tám… Với lối tư duy
nghi kỵ như thế thì biết đến khi nào nhạc của ông
mới đến được với công chúng trọn vẹn?
Số phận thơ Tố Hữu thoạt nhìn tưởng chừng
như khác hẳn với số phận nhạc Phạm Duy. Đã có một
thời, từ học sinh tiểu học cho tới sinh viên đại học đều học
thơ Tố Hữu. Các đề thi từ tốt nghiệp phổ thông
cho tới tuyển sinh đại học, và cả thi học sinh giỏi quốc gia môn
Văn đều phải ít nhiều nhắc tới thơ Tố Hữu. Nhưng trong
những năm gần đây, sự hiện hiện của thơ Tố Hữu bỗng
trở nên thưa thớt dần. Có người nói thơ Tố Hữu đang
gặp hạn.
Thực ra, nếu nhìn thẳng vào sự thật
thì thơ Tố Hữu đã gặp hạn từ lâu. Biết bao nhiêu
giáo viên dạy Văn khi giảng thơ Tố Hữu đều giảng như giảng
chính trị, thậm chí nhiều thầy cô không ngại tỏ ra chán chường.
Giới phê bình từ lâu không còn mặn mà với thơ Tố Hữu. Người
ta nửa công khai chê thơ Tố Hữu
rằng đó là thơ tuyên truyền, thơ chính trị, không
có giá trị nghệ thuật.
Vậy hóa ra bao nhiêu lâu nay người ta ca ngợi
thơ Tố Hữu chỉ bằng sáo ngữ, người ta truyền
bá thơ Tố Hữu giống như truyền bá một
thứ nghị quyết, một kiểu tự nguyện trên tinh thần bắt buộc. Người ta
bằng mặt nhưng không bằng lòng với thơ Tố Hữu. Hóa ra, thơ ông
vào thời hoàng kim được trọng vọng vì phù hợp với
chủ trương, đường lối và bởi ông là Ủy viên Bộ Chính
trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (tương đương
Phó Thủ tướng). Thắm lắm phai nhiều, nhất là khi sắc
thắm đó nhiều phần là giả tạo. Cho nên khi văn nghệ được cởi
trói, người ta lập tức đối xử lạnh nhạt với thơ Tố Hữu, coi
nó như cái gì lỗi thời, lỗi mốt, và thơ Tố Hữu
nửa chính thức xuống giá trong lòng công chúng.
Về điểm này Phạm Duy có phần còn may mắn hơn
Tố Hữu. Nhạc Phạm Duy bị cấm nhưng có triệu triệu khán
giả thầm yêu, trong khi thơ Tố Hữu được tôn vinh bằng những lời
chót lưỡi đầu môi, còn người thực sự trân trọng
thơ ông đã và đang dần rơi rụng.
Tôi xin nói rằng thái độ của chúng ta với nhạc Phạm
Duy và thơ Tố Hữu đều là bất công. Những người ngồi xét
duyệt công bố từng tác phẩm của Phạm Duy chỉ là hàng con cháu
của ông, cả về tài về đức đều chẳng
xứng đáng để người nghệ sĩ tài hoa của dân tộc phải luồn cúi
trong cái cơ chế xin-cho cứng nhắc. Nhạc của Phạm Duy đa phần đều
nên được và cần được phổ biến và tôn vinh, nhất
là trong bối cảnh nền âm nhạc Việt Nam đang lao đao vì thiếu đi
những tài năng thực sự, và một thời tao loạn của âm nhạc đang diễn ra
với đủ thứ bát nháo mang danh nghệ thuật lên ngôi.
Về phía Tố Hữu, ở nơi chín suối, hẳn
Tố Hữu cũng thiết tha mong chúng ta nhìn nhận lại cho đúng gia tài
thơ đồ sộ mà ông để lại. Vẫn biết thơ Tố Hữu
gắn liền với cuộc đời cách mạng của ông nhưng trong
thơ Tố Hữu đâu chỉ có những lời giáo huấn, đâu
chỉ có súng gươm, đâu chỉ có căm thù, đâu
chỉ có đấu tranh. Trong thơ Tố Hữu có cả một trời
quê hương,đất nước thân thương; có cả những mối tình thủy chung
son sắt; có cả những người mẹ dịu hiền chịu thương chịu khó. Những
tình cảm chân thật, giản dị mà cao cả ấy đã được
Tố Hữu đưa vào thơ ông bằng những câu thơ tài hoa tuyệt
diệu mà nếu kể ra ở đây e không cùng, khôn xiết.
Thơ ông còn nhiều góc cạnh đẹp lung linh
mà vì cái mặc cảm chính trị người ta đã vội quên đi.
Chẳng cần nói những điều cao xa, hôm nay mỗi lần bước trên đường
phố Châu Âu tuyết phủ, tôi vẫn thầm nhớ tới câu thơ rất đẹp
của Tố Hữu:
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Hay khi bước đi bên dòng sông Hương của xứ Huế, có khi nào ta không ngẩn ngơ nhớ tới câu thơ:
Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên giòng Hương Giang
Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đường bạch dương sương trắng nắng tràn
Hay khi bước đi bên dòng sông Hương của xứ Huế, có khi nào ta không ngẩn ngơ nhớ tới câu thơ:
Trên dòng Hương Giang
Em buông mái chèo
Trời trong veo
Nước trong veo
Em buông mái chèo
Trên giòng Hương Giang
Cho nên chỉ cần chúng ta khơi gạn trong hàng trăm bài
thơ dài ngắn của ông, sẽ thấy được cả một hồn thơ phong
phú, sôi nổi mà bội phần lãng mạn, luôn mới mẻ và nồng nàn mãnh
liệt. Đó là một kho báu của thi ca mà nếu không khéo chúng
ta sẽ để thời gian phủ bụi lên.
****
Xin kết lại bài viết này bằng câu chuyện sau đây, câu
chuyện do chính Phạm Duy kể lại về cuộc hạnh ngộ của ông
với nhà thơ Tố Hữu:
Tôi quen anh Tố Hữu từ ngày Cách Mạng thành công và có
nhiều dịp công tác với anh tại Huế và tại Việt Bắc trong
ngày Đại Hội Văn Hóa.
Trở về quê hương năm 2001, tôi đã tới thăm một “đồng chí” xưa. Hai người đều vui vì có được môt hội ngộ không ngờ…
Chúng tôi không đả động gì tới chuyện “chính chị, chính em”, tới chuyện “đấu tranh, đánh trâu” chỉ nói chuyện “trời mưa, trời nắng, con cắng đánh nhau, bồ câu đi chữa, chốc nữa lại tạnh”.
Rồi anh Tố Hữu tự tay mở gói bánh đậu xanh Hải Dương ra mời tôi ăn…
Chia tay ra về, tôi không ngờ chỉ một năm sau, anh Tố Hữu qua đời.
Trong buổi gặp gỡ này, có mặt Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông Tin Trần Hoàn.
Anh Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc.
Phối hợp tài tình ca dao, các thể thơ dân tộc và thơ mới.
Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm.
Những bài “Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu.
Trở về quê hương năm 2001, tôi đã tới thăm một “đồng chí” xưa. Hai người đều vui vì có được môt hội ngộ không ngờ…
Chúng tôi không đả động gì tới chuyện “chính chị, chính em”, tới chuyện “đấu tranh, đánh trâu” chỉ nói chuyện “trời mưa, trời nắng, con cắng đánh nhau, bồ câu đi chữa, chốc nữa lại tạnh”.
Rồi anh Tố Hữu tự tay mở gói bánh đậu xanh Hải Dương ra mời tôi ăn…
Chia tay ra về, tôi không ngờ chỉ một năm sau, anh Tố Hữu qua đời.
Trong buổi gặp gỡ này, có mặt Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông Tin Trần Hoàn.
Anh Tố Hữu, tên thật là Nguyễn Kim Thành (1920–2002) là một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách mạng Việt Nam. Nghệ thuật thơ Tố Hữu giàu tính dân tộc.
Phối hợp tài tình ca dao, các thể thơ dân tộc và thơ mới.
Vận dụng biến hoá cách nói, cách cảm, cách so sánh ví von rất gần gũi với tâm hồn người. Phong phú vần điệu, câu thơ mượt mà, dễ thuộc dễ ngâm.
Những bài “Việt Bắc”, “Nước non ngàn dặm”, “Theo chân Bác”… là những bài thơ tuyệt bút của Tố Hữu.
Tôi tin rằng giờ ở nơi nào đó, Phạm Duy
và Tố Hữu đã gặp lại nhau như những người bạn nghệ sĩ,
cùng nhau nhấp chén rượu xuân và quên đi mọi chuyện đắng cay của
kiếp trước. Chỉ có chúng ta vẫn loay hoay trong vòng kim cô của
lập trường, quan điểm để rồi đánh mất đi những giọt
vàng của hai bậc tài hoa còn lưu lại trên cõi nhân gian.
( Nguồn: Nguyễn Trọng Tạo )
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001