Nền ngoại giao Mỹ bấp bênh với ngoại trưởng John Kerry
Đoàn Hưng Quốc
Hai nhận xét có thể tóm tắt kết quả của chính sách ngoại giao Hoa Kỳ trong vòng 7 tháng kể từ ngày ông John Kerry nắm chức vụ ngoại trưởng: Trong khi vùng Đông Á Thái Bình Dương quan ngại rằng Mỹ không chú trọng vào khu vực giống như thời bà Hillary Clinton thì Trung Đông lại thắc mắc liệu Hoa Kỳ có đủ cương quyết để thực hiện các quyết định khó khăn hay không.
Tại cuộc Hội nghị cấp ngoại trưởng ở
Brunei vào tháng 7-2013 nhiều nhân vật Á Châu đã bày tỏ mối quan tâm
rằng Hoa Kỳ đang bị lôi kéo vào các tranh chấp tại Trung Đông nên sao
nhãng đến khu vực Đông Á như đã từng xảy ra trước đây dưới thời Tổng
thống Bush – một mối lo âu bắt nguồn từ cả kinh nghiệm chính trị lẫn số
lần ông Kerry viếng Âu Châu và Trung Đông so với sang Á Đông. Ngoại
trưởng Mỹ đã trấn an rằng khu vực Thái Bình Dương vẫn là ưu tiên hàng
đầu, nhưng ngay sau đó Hoa Kỳ bị cuốn hút vào cuộc đảo chánh tại Ai Cập
rồi đến tình hình sôi động ở Syria.
Riêng
tại Syria thì chưa bao giờ Hành pháp Mỹ bị rơi vào thế cô lập như vừa
qua: chỉ có một đồng minh duy nhất là Pháp cam kết tham dự nếu xảy ra
chiến dịch quân sự, trong lúc 60% dân chúng Mỹ và đa số trong Quốc hội
đều chống can thiệp. Sáng kiến của Nga để quốc tế giám sát kho vũ khí
hoá học của Syria giúp cho Tổng thống Obama thoát khỏi mất mặt trong
trường hợp Quốc hội bác bỏ việc tấn công quân sự, nhưng đồng thời đem
đến ba hậu quả: Mỹ ngày càng khó sử dụng biện pháp quân sự ngay cả khi
Syria dùng thủ đoạn câu giờ; Tổng thống Assad trở lại vị trí nằm trong
các cuộc thương lượng quốc tế thay vì bị cô lập như trong hai năm qua;
hơn hết, đây là một chiến thắng ngoại giao ngoạn mục của Tổng thống Nga
Putin.
Nhiều người cho rằng chiến lược quốc gia
do Tổng thống an bày còn các Bộ trưởng chỉ thừa hành. Nhưng nói như vậy
là chưa có kinh nghiệm quản lý. Tạm thí dụ, thời giờ của ông Obama dành
60% cho kinh tế và chính trị nội bộ trong xứ Mỹ, 40% còn lại phải chia
ra nhiều ít khác nhau cho khủng bố Hồi Giáo, Âu Châu, Trung Quốc, Nga,
Trung Đông, Nhật, Bắc Hàn, Ấn Độ, Đông Nam Á, v.v. Tổng thống cần một
ban tham mưu giỏi để bày trận đồ, cho dù ông là người nắm trách nhiệm về
các quyết định tối hậu trong những tình huống khó khăn nhất.
Việc
Tổng thống Obama bất ngờ hỏi ý kiến của Quốc hội trước khi tấn công
Syria – theo tin tức báo chí, không hề có thảo luận trước đó với ngoại
trưởng Kerry – cho thấy Hành pháp bị đẩy vào một tình thế nan giải, vì
đánh thì dễ nhưng rồi sau đó giải quyết như thế nào các hệ lụy của chiến
tranh thì ngành ngoại giao không có phương án nào cả. Theo nhận xét chủ
quan của người viết, nếu bà Clinton còn là ngoại trưởng thì thật khó
lòng ông Obama đi một nước cờ như vậy mà không tham khảo trước với bà
Clinton do tính quyết đoán và cả uy tín của bà trên quốc tế và đối với
Obama.
Sự kiện thứ nhì khi ông John Kerry buộc
miệng nói một câu mà không hề chuẩn bị trước rằng Hoa Kỳ sẽ không tấn
công nếu Syria trao quyền kiểm soát kho vũ khí hoá học. Chỉ ít phút sau
đó Nga và Syria nắm lấy cơ hội để biến thành một giải pháp ngoại giao –
cho dù sau này tiến triển có thuận lợi thì đây vẫn được xem là chiến
thắng lớn của Nga bắt nguồn từ sự hớ hênh của Ngoại trưởng Kerry.
Một
sự kiện khác bên lề liên quan đến ông Kerry và Việt Nam: chuyến công du
Hoa Kỳ của Chủ tịch Trương Tấn Sang được tổ chức một cách rất vội vã và
bất ngờ, nhưng hẳn là phải thông qua sự đồng ý của Bộ Ngoại giao Mỹ.
Kết quả sau đó lại mù mờ gần như không có tiến triển nào đáng kể về cả
mặt nhân quyền (thả Nguyễn Phương Uyên nhưng lại tiếp tục các cuộc đàn
áp và bóp nghẹt tự do thông tin) lẫn quân sự (Mỹ tiếp tục không bán vũ
khí cho Việt Nam), ngoại trừ lời cam kết về TPP trước cuối năm nay.
Chúng ta không hiểu rằng ông John Kerry đã tính toán kết cục đạt thành
bại ra sao khi đồng ý với chuyến viếng thăm gấp rút này.
Trở
lại Đông Á, hiện nhờ vào chính sách cứng rắn của Nhật và Philippines
khiến Bắc Kinh bực tức nên giữ được mối quan tâm của Mỹ. Đây cũng là bài
học cho các quốc gia nào cần sự hợp tác với Mỹ, rằng ngành ngoại giao
của Hoa Kỳ lúc nào cũng bị chi phối bởi nhiều khuynh hướng đối nghịch:
những nước này phải tỏ ra quyết tâm tự cứu mình (điển hình nhất là
Israel) thì mới giữ được sự chú ý của Mỹ. Còn nếu nhũn nhặn để giữ hoà
khí trong khu vực thì chẳng có lý do gì cho Hoa Kỳ can thiệp.
Khuynh
hướng chống tái cân bằng lực lượng sang Thái Bình Dương để tập trung
vào Trung Đông vẫn tồn tại, cho dù không ồn ào nên chúng ta không đánh
giá được thế lực trong hậu trường của nhóm này như thế nào. Nhưng thỉnh
thoảng có vài bài viết "ngớ ngẩn", quan điểm xem ra hàm hồ, lại được
đăng trên các tạp chí lớn, nội dung xem Trung Quốc là một nước thân
thiện nếu Hoa Kỳ không bảo vệ Đài Loan [1] hoặc không chuyển trục về
Đông Á [2]. Tác giả các bài báo này là những nhà nghiên cứu hàng đầu, do
đó ắt hẳn phải có hậu ý.
Riêng cộng đồng người
Việt không có tiếng nói trên báo chí Mỹ lẫn thế lực chính trị hậu
trường, nhưng ít nhất cần phải có quan niệm đúng đắn khi làm cử tri bỏ
phiếu. Suy nghĩ cho rằng Hoa Kỳ lúc nào cũng phải có chính sách ngoại
giao cứng rắn tại mọi nơi trên thế giới không còn phù hợp, nhất là sau
khi Mỹ đã bỏ hàng ngàn tỷ USD tại Trung Đông nhưng nay tình hình khu vực
ngày càng tồi tệ và bị nhiều tín đồ Hồi Giáo thêm chán ghét. Hoa Kỳ
phải lợi dụng ưu thế mới của một quốc gia sản xuất năng lượng để giảm lệ
thuộc vào Trung Đông, tạo khoảng cách và thời gian cho khối Hồi Giáo
quyết định về tương lai của họ. Trung Quốc hiện cần dầu hỏa Trung Đông
nhiều hơn Hoa Kỳ thì Bắc Kinh phải có trách nhiệm trong khu vực, chớ
không thể kéo dài tình trạng Mỹ tốn kém về quân sự và ngoại giao để rồi
Hoa Lục hưởng lợi bán tivi tủ lạnh và trúng thầu mua dầu hoả.
Thay
vì theo đuổi vai trò sen đầm tại Trung Đông, khu vực mà nước Mỹ cần thể
hiện quyết tâm chính là ở Đông Á, vốn là vùng năng động nhất trong thế
kỷ thứ 21, và cũng là nơi mà Hoa Kỳ được tiếp đón để cân bằng với áp lực
ngày càng lớn từ Trung Quốc. Chính sách nói trên phù hợp với nguyện
vọng của cử tri gốc Việt.
Sau rốt, để nhắc lại
bài học lịch sử năm 1975: các thế lực hậu trường đã khiến Hoa Kỳ rút bỏ
khỏi Đông Nam Á để tập trung về Trung Đông, cho dù khi đó những ván bài
domino còn lại (Thái Lan, Malaysia, ...) không biết có sẽ liên tiếp rơi
rụng hay không. Tương tự như vậy, hiện có ý kiến là Hồi Giáo cực đoan
hay Iran sẽ lan tràn ra Trung Đông nếu Mỹ giảm nhẹ can thiệp; nhưng
chúng ta chỉ biết rằng Hoa Kỳ đã tốn rất nhiều công sức mà tình hình
Trung Đông ngày thêm tồi tệ, trong khi mỗi bước sa lầy là một lần sao
nhãng về Đông Á.
Đ. H. Q.
[1] Xem Foreign Affairs số tháng 3/4 năm 2011. Bài viết trang đầu mang mang tựa đề “Will China‘s Rise Lead to War?”
(Liệu sự trỗi dậy của Trung Quốc có sẽ dẫn đến chiến tranh) của Giáo sư
ngành Chính trị học Charles Glaser thuộc trường Đại học George
Washington University.
[2] Xem The Diplomat số ngày 03 tháng 09, 2013: “Air-Sea Battle: A Dangerous Way to Deal with China” của Giáo sư Amitai Etzioni thuộc Đại học George Washington University.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:02
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/nen-ngoai-giao-my-bap-benh-voi-ngoai.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001