Suy ngẫm về chủ nghĩa xã hội và con đường cải cách thế chế ở Việt Nam
Trần Văn Tùng
Việc gắn
chủ nghĩa xã hội (CNXH) và thị trường lại với nhau đã trải qua một thời
kỳ dài. Kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam và việc nghiên cứu lịch sử
thực tế của hai nước này có thể giúp cho việc nghiên cứu quan hệ giữa
hai khái niệm CNXH và thị trường. Nội dung của bài viết này là làm rõ
một số khái niệm và sau đó đưa ra các khuyến nghị cải cách thể chế tại
Việt Nam.
1. Bàn luận thêm về CNXH
Khái
niệm về thị trường có sự đồng thuận cao đã được các nhà kinh tế học như
Ricardo, Mill Walras trình bày trước đây. Thị trường được hiểu là cơ
chế phục vụ cho sự điều phối các hoạt động của con người, sự tổ chức
tích hợp của xã hội. Thị trường không phải là cơ chế điều tiết duy nhất,
mà còn có các cơ chế điều tiết khác mà mọi người từng hiểu là cơ chế
quan liêu mệnh lệnh của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), đặc biệt được
vận dụng tại Việt Nam trước đây. Điều tiết quan liêu và thị trường khác
nhau về các khía cạnh như tập trung hay phân tán, bản chất các quá trình
thông tin, cơ chế khuyến khích. Điều tiết thị trường và điều tiết quan
liêu chỉ là hai trong số nhiều loại điều tiết do lịch sử tạo ra, tuy
nhiên chúng có vai trò đặc biệt quan trọng. Cải cách kinh tế tại Trung
Quốc và Việt Nam, bên cạnh những thay đổi khác đã mang lại sự chuyển đổi
xa rời ưu thế của điều tiết quan liêu sang ưu thế điều tiết thị trường.
Muốn hiểu bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN thì cần phải
bàn luận thêm về khái niệm CNXH, bởi vì nó là một khái niệm cho tới nay
theo tôi vẫn không rõ ràng.
Có
nhiều cách giải nghĩa về CNXH, nếu xem xét một cách có hệ thống, chúng
ta sẽ thấy có sự khác biệt, thậm chí là đối lập nhau về các cách giải
nghĩa một khái niệm. Có thể còn nhiều cách giải nghĩa khác nhau, nhưng
có thể mô tả chúng bằng cách kết hợp, chọn lọc các đặc điểm chính và
phân loại ra năm cách giải nghĩa.
1.1. Quan niệm chủ nghĩa xã hội của Marx
Ông
không phải là người đầu tiên sử dụng cụm từ CNXH. Trước ông, đã có
Saint-Simon, Owen, Fourier sử dụng cụm từ này, nhưng rất tiếc trong các
sách giáo khoa của các nước có đảng cộng sản lãnh đạo luôn cho rằng các
nhà tiền bối đó là những nhà XHCN không tưởng, đối lập với khái niệm
CNXH khoa học được cho là của Marx.
Marx đã mở
ra một chương mới trong lịch sử tư tưởng XHCN, và học thuyết của ông đã
có ảnh hưởng suốt một thời kỳ dài, đến ngày nay vẫn còn có những ảnh
hưởng đến tư duy và hành động chính trị tại một số nước. Thực chất là
Marx đã cố gắng mô tả hệ thống XHCN trong tương lai theo cách tiếp cận
phủ định, ngược lại với đặc điểm của chủ nghĩa tư bản mà ông căm ghét.
Hệ thống XHCN của Marx được xây dựng dựa vào các trụ cột sau:
- Cơ cấu chính trị:
Marx đã không vạch ra một kế hoạch hay phương hướng rõ ràng về chế độ
chính trị của CNXH là như thế nào. Nhưng ta có thể tìm thấy các ý tường
của ông. Không nghi ngờ gì, Marx không coi trọng nền dân chủ tư sản, coi
chúng là tư tưởng chính trị rỗng tuếch. Ông lên tiếng bảo vệ chính
quyền vô sản, và tin chính quyền đó dẫn tới hệ thống cộng sản chủ nghĩa
đã phát triển hoàn toàn. Marx ảo tưởng, cho rằng khi đó mọi nhu cầu được
thoả mãn, nhà nước bắt đầu teo lại và cuối cùng sẽ biến mất và chỉ còn
bộ máy tự quản cộng đồng. Rõ ràng là Marx không khuyến khích thiết lập
một nhà nước tàn bạo, áp bức toàn trị kiểu Leninist – Stalinist –
Maoist. Nhưng, có thể nói rằng ông đã coi nền chuyên chính là tương hợp
với những hình dung riêng của ông. Ít nhất là trong thời kỳ quá độ, với
độ dài không xác định để dẫn tới chủ nghĩa cộng sản.
- Sở hữu:
Trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, tư bản sản xuất thuộc sở hữu của các
nhà tư bản, họ điều khiển, kiểm soát việc sử dụng tư bản của họ. Giai
cấp tư sản bóc lột giai cấp vô sản, không phải vì họ tàn bạo mà bởi họ
là chủ sở hữu hợp pháp tư bản. Theo Marx, phải thay đổi thế giới, đã đến
lúc “đi tước đoạt những kẻ đi tước đoạt”. Từ cách tư duy đó có thể suy
ra rằng Marx và Engels trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848)
đã lên tiếng ủng hộ chế độ công hữu. Giai cấp vô sản sẽ sử dụng quyền
lực chính trị, từng bước chiếm đoạt tất cả tư bản của giai cấp tư sản,
để tập trung mọi công cụ sản xuất vào tay nhà nước, tức là vào trong
giai cấp vô sản (chương II, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản). Trong
khi đó, Marx không nêu rõ, con đường nào dẫn đến việc tất cả các tư liệu
sản xuất tập trung hoàn toàn vào tay nhà nước và cũng không nêu ra
thiết chế của chế độ công hữu.
- Cơ cấu điều tiết: Marx đã dành ra ba cuốn trong bộ Tư bản luận
để nghiên cứu kinh tế thị trường. Quan tâm của ông là xem xét thị
trường hoạt động như thế nào. Các nhận xét, tổng hợp của Marx đối lập
gay gắt với các quan điểm của Adam Smith (điều tiết nhờ bàn tay vô
hình). Marx cho rằng kinh tế thị trường dẫn tới trạng thái vô chính phủ,
lãng phí. Có vẻ như những kết luận của ông dựa vào trực cảm, bột phát.
Các
tư tưởng của ông liên quan đến CNXH hệt như những hình dung của ông về
chế độ chính trị của CNXH, dựa vào cách tiếp cận phủ định. Cơ chế điều
tiết của CNXH không có gì khác ngoài ngược lại với cơ chế điều tiết thị
trường của chủ nghĩa tư bản.
- Hệ tư tưởng:
Marx là một trong những nhà khoa học xã hội đầu tiên nhận rõ vai trò
của hệ tư tưởng. Có lẽ Marx sẽ bối rối, nếu như ông nhìn thấy các nhóm
quyền lực chính trị đã làm những gì sau hơn 100 năm dưới ngọn cờ chủ
nghĩa Marx.
1.2. Quan niệm của Léon Walras về CNXH
Cách
giải thích này được phát triển trong môi trường của thế giới hàn lâm.
Người đi tiên phong dựng lên lối tư duy lý thuyết XHCN đầu tiên là nhà
kinh tế học người Italia, Enrico Barone, học trò của Pareto. Tiếp theo
sau đó là Léon Walras, Oskar Lange.
Mô
hình lý thuyết của Lange nhà kinh tế học Ba Lan ăn khớp chặt chẽ với
khuôn khổ lý thuyết của nhà kinh tế học Walras. Trong mô hình của Lange,
CNXH có nghĩa là công hữu và đây là điều kiện cần và đủ cho một hệ
thống nào đó được gọi là CNXH. Lange không làm rõ bên trong toàn thể các
quyền sở hữu và vị trí chính xác của công hữu là gì. Liệu công hữu
chiếm toàn bộ hay một phần của nền kinh tế? Có thể hiểu khu vực công hữu
thoát ly hoàn toàn khỏi các phần khác của nền kinh tế. Như vậy thì chủ
nghĩa xã hội thị trường của Lange là một nền kinh tế dựa trên công hữu
và do thị trường điều tiết. Theo ông hai hình thái kết hợp này là phù
hợp với nhau.
Cách giải thích của Lange đã làm
bùng nổ các cuộc tranh luận sôi nổi. Đầu tiên, Hayek (1935) đã bác bỏ
quan điểm của Lange. Lập luận của Hayek là không thể thu thập, lưu trữ
và sử dụng khối lượng thông tin kiến thức khổng lồ trong một trung tâm
duy nhất. Không thể thiếu các khuyến khích phân tán để thúc đẩy việc sử
dụng và tích tụ thông tin kiến thức. Thị trường và sở hữu tư nhân tạo ra
sự khuyến khích này và kết hợp các khuyến khích và tích tụ thông tin
một cách tự động. Làn sóng tấn công thứ hai, nổ ra có liên quan tới cải
cách của các nền kinh tế Xô Viết và Đông Âu. Lập luận của Hayek về các
khuyến khích thông tin được ủng hộ bằng kinh nghiệm. Rất ít khả năng để
tạo ra một cách khuyến khích thành công nhằm tối đa hoá lợi nhuận hoặc
tối thiểu hoá chi phí trong các doanh nghiệp nhà nước bị ràng buộc ngân
sách. Thực ra là không thể gắn một cấu trúc quyền sở hữu được chọn một
cách tuỳ tiện với một cơ chế điều tiết cũng được chọn một cách tuỳ tiện.
Một
lập luận khác liên quan đến lĩnh vực chính trị và hệ tư tưởng là sự
hoạt động của thị trường theo Lange sẽ là không có vướng mắc nếu có bầu
không khí thân thiện với thị trường. Lập luận đã không có chỗ đứng vững
chắc ở những nước mà chính trị gia chỉ huy đất nước không đội trời chung
với chế độ phân quyền thì thị trường không thể là cơ chế điều tiết tốt
cho nền kinh tế hoạt động. Sau khi các nước XHCN sụp đổ, ở một vài nơi
đã xuất hiện tư tưởng XHCN thị trường, cùng với việc hình dung tạo lập
ra con đường thứ ba khác, thế nhưng ý tưởng đó đã bị thực tiễn bác bỏ.
Các nước Đông Âu đi theo thể chế kinh tế thị trường tự do.
1.3. Quan niệm của Lênin về CNXH
Trong
thời gian chiến tranh thế giới lần thứ I, với sự lãnh đạo của Lênin, đã
hình thành nên đảng cộng sản. Quyền lực của đảng cộng sản được củng cố,
đây là giai đoạn mà Kornai (2007) gọi là CNXH cổ điển, với sự cai trị
tiếp theo của Stalin. Sau khi đã hoàn thành giai đoạn cách mạng, giành
chính quyền, nhà nước Xô Viết đã quốc hữu hoá và tập thể hoá mọi cơ sở
hoạt động sản xuất tư nhân hình thành từ thời Sa Hoàng. Có thể tóm tắt
các đặc điểm chính về quan điểm CNXH của Lênin như sau:
- Cơ cấu chính trị:
Bác bỏ nền dân chủ, thực hiện chế độ chuyên chế của giai cấp vô sản.
Đây là chế độ, mà đảng cộng sản có quyền chính trị hoàn toàn, loại bỏ
các lực lượng chính trị ganh đua, trấn áp các lực lượng chính trị đối
lập khác.
- Sở hữu: Tất cả các tư liệu
sản xuất thuộc về công hữu. Việc tịch thu tài sản tư nhân, quốc hữu hoá
và tập thể hoá trở thành yếu tố then chốt của cương lĩnh cách mạng trước
và sau khi giành được chính quyền. Khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn sống
sót, nhưng hầu như vai trò của nó là không đáng kể. Lập trường của chủ
nghĩa Lênin đối lập gay gắt với sở hữu tư nhân, ông cho rằng sản xuất
hàng hoá nhỏ và với quy mô hàng loạt sinh ra chủ nghĩa tư bản.
- Điều tiết:
Chỉ huy tập trung thay thế ưu thế thị trường. Hình thức điều tiết được
gọi là kế hoạch hoá tập trung với các đặc điểm quan liêu, kiểm soát tập
trung và mệnh lệnh.
- Hệ tư tưởng: Coi
chủ nghĩa Marx, sau này là chủ nghĩa Marx-Lênin là bất khả xâm phạm,
linh thiêng. Dù rằng không chiếm vị trí độc tôn trong tư duy của mọi
người, nhưng nó chiếm vị trí độc quyền trong giáo dục, trong xuất bản
phẩm hợp pháp, trong các phương tiện thông tin, truyền thông đại chúng.
Hệ tư tưởng chính thống này bác bỏ mọi hệ tư tưởng thân thiện với chủ
nghĩa tư bản, với sở hữu tư nhân và kinh tế thị trường. Hệ thống này là
hệ thống duy nhất, được các nước XHCN, có đảng cộng sản lãnh đạo gọi là
CNXH.
1.4. Quan niệm xã hội dân chủ về CNXH
Phong
trào dân chủ xã hội đã có quá trình phát triển khá dài, nhưng nhiều học
giả thường chú ý tới các trào lưu xuất hiện trong thập niên 1980. Các
mô hình xã hội dân chủ được chú ý nhiều nhất là Thuỵ Điển, các nước Bắc
Âu, sau đó là Tây Đức và một số quốc gia Tây Âu khác. Dầu phong trào này
có nắm quyền lãnh đạo hay thất bại trong các cuộc bầu cử, họ vẫn tuân
theo các nguyên tắc.
- Cơ cấu chính trị:
Chấp nhận nền dân chủ đại nghị. Khác với các đảng cộng sản muốn giành
chính quyền bằng bạo lực thì các nhà dân chủ xã hội muốn thực hiện CNXH
theo cách riêng của họ, khi mà đa số nhân dân ủng hộ cương lĩnh của họ
và bỏ phiếu ủng hộ cho đảng của họ. Đảng dân chủ xã hội sẵn sàng từ bỏ
quyền lực của họ, nếu kết quả bầu cử cho thấy họ mất đi sự ủng hộ của đa
số nhân dân và họ kiên trì chờ cơ hội khác. Sự chia rẽ giữa những người
Leninist và những người dân chủ xã hội bắt đầu bằng cuộc tranh luận nảy
lửa xoay quanh các vấn đề chế độ chuyên chế, cạnh tranh chính trị, vai
trò của quốc hội và bầu cử. Cho đến tận ngày nay, đây là các tiêu chuẩn
để phân biệt khái niệm về CNXH theo cách giải thích thứ ba và thứ tư.
- Sở hữu:
Từ chối sở hữu tư nhân, các nhà dân chủ xã hội theo lối cũ bác bỏ việc
tịch thu tài sản tư nhân. Nhưng, thực tế nhiều quốc gia sau khi quốc hữu
hoá tài sản tư nhân, các doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả. Trước
thực tế đó, các nhà dân chủ xã hội đã từ bỏ các kế hoạch quốc hữu hoá và
chấp nhận sở hữu tư nhân. Lĩnh vực được tiếp tục duy trì sở hữu công là
y tế, giáo dục.
- Điều tiết: Các nhà dân
chủ xã hội không do dự khi chấp nhận thị trường là cơ chế điều tiết
chính các hoạt động kinh tế, nhưng không tin hoàn toàn vào thị trường tự
do nếu không có sự can thiệp nào khác. Ngược lại họ dùng quyền lực nhà
nước cho việc tái phân phối thu nhập. Thành quả vĩ đại thể hiện qua thuế
luỹ tiến, giáo dục và dịch vụ y tế không mất tiền, hệ thống hưu bổng
rộng khắp, bảo hiểm thất nghiệp và hỗ trợ cho người nghèo được chính phủ
quan tâm. Quy mô của nhà nước phúc lợi đã làm cho tình hình ngân sách
trở nên khó khăn nhưng các nhà dân chủ xã hội cố gắng duy trì, bởi vì
đây là cam kết của họ trong cuộc đấu tranh chính trị sau khi thắng trong
cuộc bầu cử.
Các nhà dân chủ xã hội không muốn
tạo ra một hệ thống XHCN mới, khác với chủ nghĩa tư bản, mà họ cố cải
tạo hệ thống tư bản chủ nghĩa đang tồn tại. Nói khác đi là muốn biến hệ
thống tư bản chủ nghĩa theo sát với lý tưởng chính trị và đạo đức của
họ. Đồng thời tìm mọi cách khắc phục những khó khăn đang ngày càng trở
nên trầm trọng hơn mà nhà nước phúc lợi phải gánh vác như tình trạng
nghèo đói, áp lực cạnh tranh toàn cầu, thay đổi nhân khẩu học.
- Hệ tư tưởng:
Các lý tưởng và giá trị của mục tiêu dân chủ xã hội gắn liền với nhà
nước phúc lợi và quá trình chính trị dân chủ. Hơn 100 năm trước đây đã
diễn ra một cuộc tranh luận giữa hai nhà sáng lập của nước Nga và nước
Đức, một bên là Lênin, một bên là Karl Kautsky, khi cả hai bên đều dẫn
chứng các quan điểm của Marx để bảo vệ các quan điểm của riêng mình.
Thời gian trôi đi, các nhà dân chủ xã hội ngày càng xa rời Marx hơn và
sau chiến tranh thế giới lần thứ II, họ xa rời ý thức hệ của Marx mà
trước đây họ trung thành. Các nhà dân chủ xã hội tại hội nghị ở Bad
Godesberg (Cộng hoà Liên bang Đức) năm 1959 đã khởi xướng trào lưu mới
của họ, công khai từ bỏ chủ nghĩa Marx và loại bỏ biện pháp quốc hữu hoá
khỏi cương lĩnh của mình.
1.5. Quan điểm của Trung Quốc và Việt Nam về CNXH
Nếu như đem so sánh các quan điểm của Trung Quốc và Việt Nam về CNXH ta thấy không giống với bốn quan điểm đã giải thích ở trên.
So
sánh với cách lý giải thứ nhất, thì Marx luôn lên tiếng phản đối sở hữu
tư nhân, biểu lộ sự hoài nghi đối với thị trường. Ngược lại ở Trung
Quốc và Việt Nam khu vực kinh tế tư nhân đang phát triển nhanh, đóng góp
tỷ lệ xứng đáng cho GDP, trong khi tỷ lệ của khu vực kinh tế nhà nước
đang có xu hướng giảm. Thể chế kinh tế thị trường cũng được áp dụng tại
hai nước này mặc dầu vẫn còn sự can thiệp của nhà nước. Nếu soi vào các
quan điểm của Marx thì Trung Quốc và Việt Nam không còn là chế độ XHCN
nữa.
Với cách lý giải thứ hai, Trung Quốc và
Việt Nam cũng không thể xem là có các đặc điểm CNXH của Lange. Trong các
quan điểm của Lange, các tư liệu sản xuất thuộc sở hữu công và Lange đã
nỗ lực chứng minh rằng thị trường có khả năng điều tiết mà không cần
phải có sở hữu tư nhân. Thực sự thì tại Trung Quốc và Việt Nam ngày nay,
thị trường đóng vai trò điều tiết chính. Trạng thái hiện thời ở hai
nước này không có quan hệ gì với mong ước của trường phái CNXH thị
trường phác hoạ.
Liên quan tới cách giải thích
thứ ba ta thấy Trung Quốc và Việt Nam vẫn duy trì một đặc điểm quan
trọng của CNXH theo quan niệm của Lênin. Cơ cấu chính trị không thay
đổi, đảng cộng sản vẫn độc quyền lãnh đạo. Do đó có thể trấn áp, dẹp bỏ
các quan điểm đối lập, ý kiến khác biệt. Mặt khác, cơ cấu sở hữu đã trải
qua nhiều thay đổi căn bản, cả hai nước đều từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá
tập trung, giảm mạnh sự điều tiết của nhà nước thay vào đó là cơ chế
điều tiết của thị trường. Hệ thống này đã xa rời hệ thống XHCN cổ điển
và đang tiệm cận với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Ý thức hệ chính trị cũng
trải qua những thay đổi lớn, đảng cộng sản truyền thống luôn đối kháng
với sở hữu tư nhân và thị trường, nhưng ngày nay trở nên thân thiện hơn
với các định chế này. Thế giới quan chống lại tư bản chủ nghĩa gay gắt
trước kia đã chuyển theo hướng tiệm cận tới các giá trị cơ bản của chủ
nghĩa tư bản. Các đảng cộng sản của hai nước này cũng thân thiện với chủ
nghĩa tư bản, mặc dầu vậy cương lĩnh của hai đảng vẫn giương cao khẩu
hiệu trung thành với chủ nghĩa Marx- -Lênin, tư tưởng của Mao (trường
hợp của Trung Quốc) và tư tưởng Hồ Chí Minh (trường hợp Việt Nam).
Đối
chiếu với cách giải thích thứ tư sẽ thấy thiếu vắng hai đặc điểm cơ bản
của nền dân chủ xã hội thực sự. Trước hết, duy trì chế độ chuyên chế,
độc đảng và bác bỏ khả năng bầu cử cạnh tranh quyền lực chính trị. Thứ
hai, chế độ cộng sản theo kiểu cũ nỗ lực xây dựng nhà nước phúc lợi thể
hiện qua việc chăm sóc y tế, đầu tư cho giáo dục, lương hưu, phúc lợi
cho những người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước. Khi nền kinh
tế sa sút, thì khó bảo đảm phúc lợi ích mọi người trong số lĩnh vực
chính nêu trên. Nhà nước sau đó đã rút lui khỏi các dịch vụ phúc lợi,
cho phép khu vực tư nhân hoạt động cạnh tranh với khu vực của nhà nước.
Vì mục tiêu cân bằng ngân sách, thì tình hình tái phân phối giảm, bất
bình đẳng và khoảng cách giàu nghèo tăng nhanh.
So
sánh với bối cảnh giải thích về CNXH thì liệu Trung Quốc và Việt Nam có
thể gọi là CNXH nữa không? Nếu CNXH là nhằm đạt được mục tiêu: dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thì chắc có sự đồng thuận
lớn trong dân chúng và đó cũng là mục tiêu mà nhiều quốc gia theo đuổi.
Tên gọi XHCN hay CNXH không quan trọng, miễn là phải bám vào mục tiêu
trên và tìm mọi cách thực hiện mục tiêu đó. Sự giằng co về mặt lý luận ở
Việt Nam hiện nay là giữa hai lực lượng. Những người trung thành với
chủ nghĩa Marx-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao vai trò của các
doanh nghiệp nhà nước, có lúc muốn quay trở lại cách quản lý kế hoạch
hoá tập trung. Một lực lượng khác thì muốn cải cách triệt để, loại bỏ
vai trò chủ đạo của khu vực kinh tế nhà nước (tập đoàn kinh tế, doanh
nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo). Sự giằng co này đã dẫn đến việc
đề xuất và thực thi các chính sách không nhất quán. Nhà nước đi kinh
doanh là không nên, nhà nước phải là bên thứ ba, khuyến khích các doanh
nghiệp cạnh tranh, hoạt động minh bạch, có trách nhiệm giải trình và
đứng ra giải quyết các tranh chấp, các hành vi phạm pháp xảy ra trong cơ
chế thị trường, tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân
phát triển. Theo tôi nên hiểu kinh tế thị trường định hướng XHCN là có
những đặc điểm giống với cách giải thích thứ tư nêu trên hoặc là tiệm
cận tới cách giải thích này.
Câu chuyện ông Lê
Hiếu Đằng và ông Hồ Ngọc Nhuận đề nghị thành lập đảng dân chủ xã hội là
bình thường thể hiện nguyện vọng của nhiều người. Bởi vì, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đánh mất niềm tin ở người dân, khi tham nhũng tràn lan, nhóm
lợi ích nở rộ, khoảng cách giàu nghèo gia tăng, nông dân mất đất, mất
ruộng dẫn đến kết cục xuất hiện các hiện tượng ĐoànVăn Vươn, Đặng Ngọc
Viết. Cho nên Đảng Cộng sản Việt Nam phải thấy trách nhiệm của mình góp
sức vào cải cách thể chế hướng tới một đảng theo mô hình dân chủ xã hội
mà các nước Bắc Âu đã thực hiện để giải quyết các xung đột xã hội.
T. V. T.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hayek, F.A (ed.) (1935). Collectivist Economic Planning. London: George Routledge & Sons.
2. Kornai, Janos (2007). Chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản, dân chủ và thay đổi hệ thống. Bản dịch của Nguyễn Quang A. Sắp xuất bản.
3. Kornai, Janos (2001), Con đường dẫn tới nền kinh tế thị trường. Hà Nội: Hội Tin học Việt Nam.
4. Kornai, Janos (2002). Hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hà Nội: Văn hoá Thông tin.
5. Kautsky, Karl (1910). The Social Revolution. Chicago: Charler H.Kerr & Company.
6. Lange, Oskar (1936). “On the Economic Theory of Socialism”. Review of Economic Studies, v. 4, no1, 53-71.
7. Landes, David (1998). The Wealth and The Poor of Nations. New York: W. W. Norton & Company.
8. Lênin, V. I. (2005). Nhà nước và cách mạng. Trong Lênin, Toàn tập, tập 33. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
9. Lênin, V.I. (1977). Cách mạng vô sản và tên phản bội Cauxky. Trong Lênin, Toàn tập, tập 37. Moscow: Tiến bộ.
10. Marx, Engels (1995), Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản. Trong C. Mác & P. Ăngghen, Toàn tập, tập 4. Hà Nội: Chính trị Quốc gia.
11. Sen, Amatya (2002). Phát triển là quyền tự do. Hà Nội: Thống kê.
12.Nguyễn
Quang A (2010). “Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”. Bài đọc tại hội thảo do Viện Triết học tổ chức, Chương
trình cấp bộ năm 2009-2010.
13. Trần Văn Tùng, Vũ Đức Thanh (2011). Thể chế yếu tố quyết định tăng trưởng. Hà Nội: Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.
Được đăng bởi bauxitevn vào lúc 00:03
nguồn:http://boxitvn.blogspot.com/2013/09/suy-ngam-ve-chu-nghia-xa-hoi-va-con.html
=======================================================================
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Chú ý: Điền vào “nhận xét” ở cuối bài để xả stress
Sẽ xóa những comment không phù hợp
Thinhoi001